Trăm năm cô đơn - Chương 07 - Phần 2

Từ đó, bắt đầu một cuộc
chiến tranh mới. Viên đại uý Rôkê Cacnixêrô cùng với sáu người dưới quyền mình
đã theo đại tá Aurêlianô Buênđya đi giải thoát cho các nhà cách mạng, tướng
Victôriô Mêđina, hiện đã bị kết án tử hình ở Riôacha. Họ nghĩ phải cướp lấy thời
gian bằng cách nhanh chóng vượt qua dãy núi men theo con đường Hôsê Accađiô
Buênđya đã đi để lập ra làng Macônđô nhưng chưa đầy một tuần họ thống nhất nhận
định rằng đó là con dường không thể đi theo được. Thế là họ phải thực hiện một
lộ trình đầy nguy hiểm men theo sườn các dãy núi với số đạn dược quá ít ỏi của
những người lính trong đội hành hình. Bọn họ nghỉ lại ở ngoài bìa các làng. Một
người trong bọn họ cải trang cầm con cá vàng, giữa ban ngày vào làng để tìm gặp
những người thuộc phái Tự do hiện đang nằm chờ.

Sáng hôm sau những
người này đi săn và sẽ chẳng bao giờ thấy họ trở về. Khi từ một khuỷu núi bọn họ
nhìn thấy thành phố Rioacha thì tướng Victôriô Mêđina đã bị hành hình. Những
người dưới quyền đại tá Aurêlianô Buênđya liền suy tôn chàng là Tư lệnh các lực
lượng vũ trang cách mạng miền duyên hải Caribê với quân hàm cấp tướng. Chàng nhận
chức nhưng từ chối quân hàm và tự đặt cho mình một điều kiện là chưa nhận quân
hàm chừng nào quân đội của mình chưa đánh đổ được chế độ Bảo hoàng. Đúng ba
tháng sau chàng đã tập hợp được hơn một nghìn quân nhưng lại bị quân chính phủ
đánh cho tan tác.

Những người sống sót
tháo chạy về biên giới phía đông đất nước. Một lần khác người ta được biết rằng
bọn họ đã đổ bộ lên Cabô đê la Vêla từ phía quần đảo Antidat thế mà một thông
cáo của chính phủ được truyền đi qua đường bưu điện và được in lại dưới hình thức
những tờ thông báo vui mắt tung đi khắp đất nước loan tin về cái chết của đại
tá Aurêlianô Buênđya. Nhưng sau đó hai ngày một bức điện rắc rối khác gần như
cùng một lúc với bức điện trước, đã báo tin một cuộc khởi nghĩa mới ở vùng đồng
bằng phía Nam. Huyền thoại về tài xuất quỉ nhập thần của đại tá Aurêlianô
Buênđya bắt đầu như thế đấy. Những tin tức giống nhau và khác nhau loan tin
chàng thắng lợi ở Vidanuêva, tin chàng thất bại ở Goacamadan, chàng đã bị những
người Anhđiêng ở Côlômbia và Vênêxuêla làm thịt, chàng chết ở một làng nào đó
thuộc vùng đầm lầy, và một lần nữa chàng lại nổi dậy ở Urumita. Những nhà lãnh
đạo của đảng Tự do trong lúc ấy đang thương lượng để có sự tham gia của mình
trong quốc hội, đã coi chàng như một kẻ phiêu lưu mạo hiểm không đại diện cho đảng.
Chính phủ quốc gia liệt chàng vào hạng tướng cướp, và trao giải năm ngàn pêsô cho
ai bắt được chàng. Sau mười sáu cuộc vũ trang nổi dậy thất bại, đại tá
Aurêlianô Buênđya với hai nghìn quân vốn là người Anhđiêng được vũ trang tất từ
vùng Goahira, đã xuất quân và đội cấm vệ Bảo hoàng bị đánh bất ngờ trong lúc ngủ,
phải bỏ thành phố Riôacha tháo chạy. Tại đây chàng thiết lập sở Tổng chỉ huy của
mình và tuyên bố cuộc chiến đấu toàn diện chống chế độ. Phản ứng đầu tiên của
chính phủ mà chàng nhận được là sự đe doạ sẽ bắn đại tá Hêrinênđô Mackêt trong
vòng bốn mười tám tiếng đồng hồ nếu chàng không rút hết lực lượng vũ trang của
mình về biên giới phía đông. Đại tá Rôkê Cacnixêrô, lúc này đã làm tham mưu trưởng
của chàng, trình trọng đưa cho chàng bức điện. Nhưng chàng đã để lộ niềm vui
khi đọc bức điện.

- Tốt lắm! - Chàng reo lên, -
Macônđô đã có trạm điện tín rồi.

Sự trả lời của chàng
là dứt khoát. Trong ba tháng chàng đợi thành lập sở Tổng chỉ huy của mình ở
Macônđô. Nếu lúc đó chàng không được thấy đại tá Hêrinênđô Mackêt còn sống thì
chàng sẽ bắn không cần xét hỏi toàn bộ số sĩ quan đã bị bắt làm tù binh, bắt đầu
từ các sĩ quan cấp tướng và đồng thời chàng sẽ ra lệnh cho những người dưới quyền
để họ cũng theo chính cái cách thức ấy tiến hành bắn giết sĩ quan Bảo hoàng cho
đến khi kết thúc chiến tranh. Ba tháng sau, khi chàng chiến thắng tiến quân vào
Macônđô thì cú ôm hôn đầu tiên mà chàng nhận được trên con đường từ đầm lầy vào
làng là cú ôm hôn của đại tá Hêrinênđô Mackêt.

Ngôi nhà đông đúc trẻ
nhỏ. Ucsula đã đón Santa Sôphia đê la Piêđat cùng với đứa con gái đầu lòng và
hai đứa trẻ sinh đôi chào đời năm tháng sau vụ hành hình Accađiô về nhà mình.

Trái với nguyện vọng
cuối cùng của người bị tử hình, cụ đã đặt cho đứa con gái đầu lòng của anh cái
tên Rêmêđiôt. “Ta tin rằng đó là điều Accađiô muốn nói.” Cụ bảo. “Chúng ta sẽ
không gọi nó là Ucsula bởi vì với cái tên này nó sẽ khổ cả một đời”.

Còn hai đứa trẻ sinh
đôi, cụ đặt một đứa tên là Accađiô Sêgunđô và đứa kia là Aurêlianô Sêgunđô.
Amaranta nhận trách nhiệm trông nom cả bọn trẻ này. Cô kê những chiếc ghế nhỏ ở
trong phòng khách rồi nhận thêm một số trẻ hàng xóm thành lập một lớp vỡ lòng.
Khi đại tá Aurêlianô Buênđya trở về làng, giữa tiếng pháo rền vang nổ và tiếng
chuông nhà thờ gióng giả đổ hồi, có đội đồng ca trẻ nhỏ đến hát đón chào chàng
ngay tại nhà mình. Aurêlianô Hôsê, cao kều như ông nội, mặc bộ đồng phục sĩ
quan cách mạng, đã giơ tay theo nghi thức quân sự chào chàng.

Trong lúc hàn huyên,
chuyện vui xen lẫn chuyện buồn. Một năm sau khi đại tá Aurêlianô trốn thoát,
Hôsê Accađiô và Rêbêca dọn về ở trong ngôi nhà do Accađiô xây dựng. Không một
ai biết chuyện ông đã phá đám vụ hành hình. Vợ chồng họ xây dựng một tổ ấm gia
đình mến khách trong ngôi nhà mới nằm ở một góc đẹp nhất của quảng trường lớn,
nép dưới bóng một cây hạnh đào cổ thụ có ba tổ chim cổ đỏ. Ngôi nhà có một cửa
chính đón khách và bốn cửa sổ đón ánh sáng. Những bạn gái của Rêbêca trong đó
có bốn chị em nhà Môscôtê hiện vẫn ở vậy đã nối lại các buổi họp mặt để thêu
thùa mà những năm trước đây không bao giờ bị đứt quãng ở hành lang bầy những chậu
thu hải đường. Hôsê Accađiô tiếp tục hưởng quyền lợi trên những đất đai chiếm
đoạt với những văn tự đã được chính phủ Bảo hoàng thừa nhận. Buổi chiều nào người
ta cũng thấy ông vai mang khẩu súng săn hai nòng cưỡi ngựa trở về, theo sau là
nhũng con chó săn dữ tợn, trên yên ngựa lủng lắng một xâu thỏ rừng. Một buổi
chiều tháng chín trước trận cuồng phong đe doạ đổ xuống, ông trở về nhà sớm hơn
thường lệ. Ông chào Rêbêca đang ở trong phòng ăn, buộc đàn chó ở ngoài sân,
treo xâu thỏ vào nhà bếp để sau đó mổ và ướp thịt, rồi trước vào phòng nghỉ
thay quần áo. Sau này Rêbêca trình bày rằng khi chồng bà bước vào phòng ngủ thì
bà đã ở trong nhà tắm và không hay biết gì hết. Đó là một lời giải thích khó
tin được nhưng không có lời giải thích nào sáng tỏ hơn và không một ai có thể
nghĩ tới một nguyên cớ nào khác để mà Rêbêca đi giết người đàn ông đã mang lại
hạnh phúc cho mình. Việc ấy có thể là một chuyện bí hiểm duy nhất không bao giờ
được làm sáng tỏ ở làng Macônđô.

Hôsê Accađiô vừa đóng
cửa buồng lại thì lập tức một phát súng lục nổ vang làm rung chuyển cả căn nhà.
Một dòng máu chảy ra từ dưới cánh cửa, bò qua phòng khách, đi ra đường, tiếp tục
chảy dọc theo những con đường gập ghềnh, trèo lên những bậc đa và những vật cản,
bò một mạch theo đường Thổ Nhĩ Kỳ, rẽ ngoặt sang trái vào một phố rồi lại ngoặt
phải sang phố khác trước khi nó quay một góc vuông thước thợ ngay trước nhà
Buênđya rồi chui dưới cửa đóng kín vào nhà, cứ bám lấy tường mà vượt qua phòng
khách để khỏi vấy bẩn những tấm thảm trải nhà, tiếp tục bò qua một phòng khác,
lượn một vòng rõ rộng để tránh bàn ăn, bò theo dọc hành lang những chậu thu hồi
đường và chui qua chiếc ghế Amaranta ngồi dạy toán cho Aurêlianô Hôsê mà không
bị nhìn thấy, rồi biến mất khi chui vào kho ngô, rồi xuất hiện ở nhà bếp nơi
Ucsula dang đập ba mươi sáu quả trứng để làm bánh.

- Lạy đức mẹ Đồng
trinh Maria, - Ucsula gào toáng lên.

Dòng máu chảy ngược lại,
và để đi tìm nguồn của nó, bà chui qua kho ngô, đi theo dọc hành lang những chấu
thu hải đường nơi cậu bé Aurêlianô Hôsê đang đọc to ba với ba là sáu với ba là
chín, vượt qua các phòng ăn và hai phòng khách, rồi bà đi một mạch ra đường
cái, rồi rẽ trái ngoặt phải để đổ vào đường Thổ Nhĩ Kỳ, mà không nhớ rằng mình
vẫn mang theo chiếc tạp dề mặc khi làm bếp và hai chiếc dép lê đi trong nhà, rồi
bà đi ra quảng trường chui qua cửa vào một ngôi nhà chưa bao giờ bà ở, rồi bà đẩy
cánh cửa phòng ngủ và hầu như bà ngợp trong mìn thuốc súng, và bà gặp Hôsê
Accađiô nằm sấp mặt xuống sàn nhà người đè lên đôi ủng vừa được tháo ra, và thấy
dòng máu vừa rỉ ra từ lỗ tai phải của ông. Người ta không thấy một vết thương
nào trên thân thể ông cũng như không thể tìm được khẩu súng đã bắn. Cũng không
tài nào tẩy rửa được mùi khói súng khét lẹt trên thi thể. Đầu tiên người ta lấy
xà phòng và bã cọ để tắm rửa, sau đó ngâm nó trong nước giấm và muối, sau nữa
dùng tro và nước chanh, sau cùng ngươi ta đặt nỏ vào trong một thùng nước tẩy
quắn áo ngâm suốt sáu giờ liền. Người ta kỳ cọ quá nhiều cho ông đến mức những
hình săm bắt đầu phai mực. Khi người ta dùng tới biện pháp ướp xác ông với muối
tiêu, rau thìa là, lá nguyệt quế và ninh tử thi trên bếp lửa âm ỉ trong một
ngày ròng, thì tử thi bắt đầu bung ra và buộc mọi người phải mai táng ngay tức
khắc. Người ta liệm tử thi vào một cỗ áo quan ngoại cỡ dài hai mét rưỡi và rộng
một mét mất, bên trong giát sắt lá và được vít chặt lại bằng những chiếc ốc
thép. Mặc dù được tắm rửa và khâm liệm kỹ như như vậy, tử thi vẫn phả ra mùi
khét lẹt dọc đường khi đám tang đi qua.

Cha Nicanô, với cái bụng
đau gan tròn vo như cái trống, đứng trên giường rẩy nước thánh cho ông. Mặc dù
mấy tháng sau này người ta xây mộ với những tấm bê tông đặt ở trên và rắc tro,
mùn cưa và vôi bột, nghĩa địa vẫn tiếp tục nồng nặc mùi khét thuốc súng, đến nỗi
những năm sau này, những kỹ sư thuộc Công ty chuối đã phải đổ một chiếc áo bê
tông để úp lên ngôi mộ. Ngay sau khi người ta lôi cỗ quan tài đi, lập tức
Rêbêca đóng cửa lại và bà đã tự chôn sống mình trong ngôi nhà, mặc một bộ quần
áo vải thô nhàu nát mà không một ý muốn thế tục nào có thể làm rách nó. Trong
thời kỳ xuất hiện quỉ dữ Juđiô Erăngtê, ở Macônđô xảy ra đợt oi nóng khủng khiếp
khiến chim chóc cứ lao đầu qua lưới sắt để rúc vào phòng ngủ mà chết, bà có đi
ra đường một lần, đã già lắm rồi, đi đôi ủng màu trắng bạc cũ kỹ và đội một chiếc
mũ có gài những bông hoa nhỏ li ti. Lần cuối cùng có người đã nhìn thấy bà còn
sống là dịp bà đã bắn chết tươi gã kẻ trộm định phá cửa nhà mình. Kể từ đó,
không một ai ngoài Arhêmđa, người ở và người bạn tâm phúc của bà, tiếp xúc trực
tiếp với bà. Có thời kỳ người ta được biết rằng bà đã viết thư cho đức Giám mục,
người bà gọi là anh họ mình, nhưng người ta cũng đồn rằng bà không bao giờ nhận
được thư trả lời. Dân làng đã quên bà.

Mặc dầu thắng lợi trở
về, đại tá Aurêlianô Buênđya vẫn không vui lòng với những kết quả trông thấy.
Quân chính phủ rút khỏi các thị trấn không hề kháng cự và điều đó đã gieo trong
đám dân chúng vừa được giải phóng một ảo tưởng về thắng lợi không thể đảo ngược
được. Nhưng những người cách mạng, nhất là đại tá Aurêlianô Buênđya đã hiểu
đúng sự thật hơn. Mặc dù trong lúc ấy chàng duy trì được năm ngàn người dưới
quyền mình, và giữ vững hai tỉnh thuộc miền duyên hải nhưng chàng ý thức rõ
ràng rằng lực lượng của mình đang bị ép về phía biển và đang ở trong hoàn cảnh
chính trị quá rắc rối đến mức khi chàng ra lệnh dựng lại tháp chuông nhà thờ bị
đạn pháo phá đổ thì cha Nicanô nằm trên giường bệnh phải thốt lên: “Đây là một
trò cười: những người bảo vệ đức tin Kitô giáo đã nã pháo phá nhà thờ còn những
kẻ Tam điểm lại ra lệnh xây dựng nó”. Hàng giờ và hàng giờ chàng ở lỳ trong
phòng điện tín nói chuyện với tư lệnh các thị trấn khác, để tìm một lối thoát.

Nhưng mỗi bận ra khỏi
phòng, chàng càng khẳng định cảm nghĩ cuộc chiến đang kết thúc. Khi những tin
chiến thắng mới của những người Tự do được chuyển đến và được loan báo ầm ĩ thì
chàng suy tính những kết quả đã giành được trên các bản đồ và chàng hiểu rằng
quân đội của mình đang ngày một rút sâu vào rừng để chống chọi với ho lao và muỗi
rừng, đang rút ngày một xa thành phối “Chúng ta đang để mất thời gian.” Chàng
than thở trước các sĩ quan. “Chúng ta sẽ còn mất thời gian nữa trong lúc những
tên chó má trong đảng Tự do đang xin xỏ một chỗ ngồi trên nghị trường”. Trong
những đêm mất ngủ nằm ngửa trên chiếc võng mắc trong chính căn phòng từng là xà
lim tử tù, chàng nhớ lại hình ảnh những vị luật sư mặc đồ đen cổ áo khoác dựng
lên che kín tai và ống tay áo buông chùng che kín bàn tay từ trong dinh Tổng thống
bước ra vào lúc giá buốt của buổi đêm về sáng, mà rét run cầm cập, mà lẩn nhanh
vào những vườn cà phê ảo não lúc hừng đông để đắn đo cân nhắc điều ngài Tổng thống
muốn nói khi ngài bảo rằng được, hoặc giả điều ngài muốn nói khi ngài bảo rằng
không và để dò tìm điều ngài Tổng thống đang suy nghĩ khi ngài nói một chuyện
hoàn toàn khác hẳn. Trong khi đó chàng đuổi muỗi, cố chịu đựng không khí oi
nóng tới ba mươi nhăm độ, và cảm thấy ngày càng xích gần cái buổi mai đáng sợ
khi chàng buộc phải ra lệnh cho quân sĩ của mình nhảy ào xuống biển.

Một đêm nôn nao nọ,
Pila Tecnêra hát cùng với đám lính ở trong sân. Chàng nhờ thị đoán tương lai
cho mình qua những quân bài. “Hãy giữ mồm giữ miệng.” Đó là tất cả những gì
Pila Tecnêra thấy rõ sau khi sắp xếp các quân bài và thu chúng lại.

“Tôi không biết điều
đó có nghĩa gì, nhưng điềm báo hiện rất rõ: hãy giữ mồm giữ miệng”… Hai ngày
sau, có một ai đó thay chàng ra lệnh cho một người cần vụ chuẩn bị một tách cà
phê không pha đường, rồi người cần vụ này chuyển lệnh cho người khác, người này
lại chuyển cho người khác cho tới khi tách cà phê không pha đường qua tay nhiều
người được mang đến chỗ ở của đại tá Aurêlianô Buênđya. Không hề gọi cà phê
nhưng vì đã có sẵn ở đấy rồi nên đại tá uống luôn. Tách cà phê ấy có một lượng
bột mã tiền đủ giết một con ngựa đực. Khi người ta mang chàng về nhà, chàng đã
cứng đơ, co rúm, lưỡi thè ra giữa hai hàm răng. Ucsula chiến đấu với tử thần để
cứu chàng. Sau khi làm cho chàng nôn oẹ hết để rửa ruột, bà dùng khăn trải giường
hơ nóng đắp kín cho chàng và cho chàng uống lòng trắng trứng gà trong hai ngày
liền, cho tới khi cái cơ thể yếu ớt lấy lại được nhiệt độ bình thường. Đến ngày
thứ tư chàng thoát khỏi nguy hiểm. Trái với ý nguyện của mình, do bị Ucsula và
các sĩ quan của mình ngăn cản, chàng nằm yên trên giường thêm một tuần nữa. Chỉ
đến lúc này chàng mới biết các bài thơ của mình vẫn chùa được đốt. “Đêm ấy mẹ
không muốn vội vàng.” Ucsula thanh minh với chàng. “Đêm ấy, khi đi nhóm bếp, mẹ
nghĩ tốt hơn hết là hãy đợi cho tới khi tử thi con được mang về nhà”.

Sống giữa những con
búp bê của Rêmêđiôt vây quanh, trong điều kiện sức khoẻ dần dần bình phục, đại
tá Aurêlianô Buênđya, qua các bài thơ của mình, đã hồi tưởng lại những thời kỳ
sôi nổi nhất của đời mình. Chàng lại làm thơ. Trong nhiều giờ liền, bên lề những
sự kiện nổi bật của một cuộc chiến tranh không tương lai, chàng khẳng định những
kinh nghiệm của mình ngay bên bờ vực của cái chết. Vậy là trí não của chàng
ngày một sáng tỏ hơn đến mức có thể lật trái lật phải để xem xét nó. Có một đêm
nọ, chàng hỏi đại tá Hêrinênđô Mackêt:

- Hãy nói với tôi đi,
vì sao anh bạn chiến đấu?

- Vì sao anh lại hỏi
tôi thế nhỉ? - Đại tá Hêrinênđô Mackêt trả lời. - Vì đảng Tự do vĩ đại.

- Anh thật hạnh phúc
vì đã biết mục tiêu chiến đấu của mình. - Chàng trả lời. - Còn về phần mình,
cho đến bây giờ hầu như tôi mới biết rằng mình chiến đấu vì lòng kiêu hãnh.

- Thế thì tồi quá. -
Đại tá Hêrinênđô Mackêt trả lời.

Sự cảnh cáo của
Hêrinênđô Mackêt khiến đại tá Aurêlianô Buênđya vui thích. “Dĩ nhiên rồi.” Chàng
nói. “Nhưng trong mọi trường hợp, tốt hơn hết là chẳng nên biết vì sao mình chiến
đấu.” Chàng
nhìn vào mắt bạn mỉm lời và nói rõ hơn: “Hoặc
là như anh đã chiến đấu vì một cái gì đó chẳng có nghĩa gì với ai cả.”

Chính niềm kiêu hãnh ấy
đã ngăn cản chàng liên hệ với các nhóm vũ trang trong vùng nội địa, trong khi
đó các nhà lãnh đạo của đảng Tự do lại không công khai đưa ra những tuyên bố nhằm
đánh tan luận điệu cho chàng là một tên tướng cướp. Tuy nhiên, chàng biết rằng
nếu gạt bỏ những trở ngại ấy thì ngay lập tức sẽ phá tan vòng vây chiến tranh
nguy hiểm. Sức khoẻ bình phục đã cho phép chàng suy nghĩ. Vậy là chàng xin được
của Ucsula không chỉ số vàng còn lại mà cả số vốn liếng nhiều vô kể do bà tích
luỹ được, chàng phong cho đại tá Hêrinênđô Mackêt làm Quan tổng trấn trông coi
các vấn đề quân sự và dân sự ở Macônđô, rồi chàng lên đường để thiết lập quan hệ
với các nhóm khởi nghĩa ở vùng nội địa.

Đại tá Hêrinênđô
Mackêt không chỉ là người thân tín nhất của đại tá Aurêlianô Buênđya mà còn là
người được Ucsula coi là người trong nhà. Dù là người thanh lịch, e lệ, ngoan nết
chàng vẫn là người được rèn luyện để thích hợp với trận mạc hơn là với công việc
lãnh đạo. Những cố vấn chính trị của chàng dễ dàng lái chàng vào những mê cung
lý thuyết. Nhưng chàng cũng đã ổn định được một không khí thanh bình kiểu thôn
dã ở Macônđô vốn là điều đại tá Aurêlianô Buênđya mơ ước cho tuổi già chuyên sống
bằng cách sản xuất những con cá vàng. Tuy sống chung với cha mẹ mình, nhưng
chàng ăn cơm trưa ở nhà Ucsula một tuần tới hai hoặc ba bữa. Chàng dạy
Aurêlianô Hôsê học sử dụng vũ khí, dạy bảo những kiến thức quân sự cơ bản và với
sự đồng tình của Ucsula chàng mang nó đến sống trong doanh trại để rèn cặp nó
thành người. Nhiều năm về trước dù hãy còn trẻ con, đã có lần Hêrinênđô Mackêt
ngỏ tình với Amaranta. Lúc ấy Amaranta còn đang thầm yêu trộm nhớ Piêtrô Crêspi
do đó đã giễu cợt chàng. Hêrinênđô Mackêt vẫn chờ đợi. Có lần từ trong nhà tù
chàng gửi cho Amaranta một bức thư nhờ cô thêu chữ cái mở đầu tên và họ của cha
mình lên một tá khăn mùi soa. Chàng còn gửi tiền cho cô nữa. Trong vòng một tuần
lễ Amaranta mang đến nhà tù cho chàng một tá khăn mùi soa đã thêu cùng với số
tiền ấy, và cô đã ở lại vài giờ liền để nói chuyện về quá khứ. “Khi ra khỏi nơi
đây, anh sẽ cưới em làm vợ.” Hêrinênđô Mackêt nói khi tạm biệt cô. Amaranta cười
nhưng vẫn nghĩ về chàng trong lúc “dạy đám trẻ nhỏ học đọc và muốn làm sống trở
lại trong trái tim mình tình yêu bồng bột thời trẻ vốn là nỗi đam mê đối với
Piêtrô Crêspi; để hiến dâng cho chàng. Những ngày thứ bảy, ngày vào thăm tù, cô
qua nhà bố mẹ Hêrinênđô Mackêt rồi cùng họ đến nhà tù. Có một ngày thứ bảy,
Ucsula ngạc nhiên bắt gặp cô đứng ở nhà bếp đang đợi bánh quy ra lò để chọn những
chiếc ngon nhất nhét vào một cái túi đã thêu sẵn chờ dịp này.

- Con hãy lấy nó đi
con ạ! - Bà nói với cô - Hãn hữu lắm mới có một người đàn ông như nó đấy.

Amaranta làm ra vẻ
khó chịu:

- Con chẳng cần phải
mồi chài ai cả. - Cô
cãi lại mẹ. - Con mang cho Hêrinênđô những chiếc bánh quy này chăng qua là vì
thương anh ấy sớm muộn cũng sẽ bị người ta bắn chết.

Không hề đắn đo cô buột
miệng nói ra. Nhưng lúc ấy chính phủ công khai đe doạ sẽ bắn đại tá Hêrinênđô
Mackêt nếu như các lực lượng khởi nghĩa không nộp Riôacha. Các buổi đến thăm
người tù bị đình chỉ. Amaranta đóng cửa, một mình ở trong nhà khóc lóc tự khổ sở
vì ý nghĩ cho mình là kẻ có tội giống như ý nghĩ đã day dứt cô khi Rêmêđiôt chết,
cũng như một lần khác những lời nói thiếu cân nhắc của cô đã là trách nhiệm đối
với một cái chết khác, cái chết của Piêtrô Crêspi. Ucsula an ủi cô. Bà đảm bảo
với cô rằng đại tá Aurêlianô Buênđya sẽ có hành động thực tế mạnh mẽ để ngăn cản
vụ hành hình, bà hứa rằng chính bà sẽ đón Hêrinênđô Mackêt về nhà khi nào chiến
tranh kết thúc. Bà đã thực hiện lời hứa trước thời hạn dự định. Khi Hêrinênđô
Mackêt tới nhà với chức trách Quan tổng trấn trông coi các vấn đề quân sự và
dân sự thì bà đón tiếp chàng như một người con, vuốt ve chiều chuộng chàng để
chàng ở lại, và tự đáy lòng mình bà cầu khẩn chàng hãy nhớ lại ý định lấy
Amaranta làm vợ. Những lời cầu khẩn của bà dường như được linh nghiệm. Những
ngày tới nhà để ăn cơm trưa, đại tá Hêrinênđô Mackêt lưu lại cả một buổi chiều
để chơi cờ đam với Amaranta ở ngoài hành lang bày những chậu thu hải đường.
Ucsula mang đến cho đôi trai gái nào cà phê sữa, nào bánh quy, trông nom đám trẻ
nhỏ để chúng khỏi quấy rầy hai người. Trên thực tế, Amaranta cố nhóm lại tình
yêu say mê thời trẻ của mình mà lúc này nó như một đám tro nguội lạnh bị lãng
quên trong trái tim mình. Với niềm khát khao đã đạt tới độ không thể thay đổi
được, cô chờ đón những ngày chàng sẽ đến nhà mình ăn trưa, chờ đón những buổi
chiều chơi cờ đam và chờ cho thời gian đi trong lúc mình ngồi bên cạnh một chiến
binh có tên gợi bao niềm lưu luyến mà những ngón tay của người ấy cứ run lên
khi đi quân cờ. Nhưng trong ngày đại tá Hêrinênđô Mackêt nhắc lại nguyện vọng
tha thiết của mình được cưới Amaranta thì cô đã từ chối:

- Em sẽ chẳng lấy ai.
- Cô nói, - lại cũng không lấy anh đâu. Anh yêu Aurêlianô quá tới mức anh sẽ lấy
em vì anh không thể lấy anh ấy mà.

Đại tá Hêrinênđô
Mackêt là người điềm tĩnh. “Anh sẽ kiên trì chờ đợi.” Chàng nói. “Sớm muộn gì
anh cũng sẽ cưới em”.

Chàng tiếp tục đến
chơi nhà. Tự giam mình ở trong phòng ngủ để khóc vụng, Amaranta lấy hai đầu
ngón tay bịt kín lỗ tai để khỏi nghe thấy tiếng người theo đuổi mình đang kể
cho Ucsula nghe những tin tức chiến sự mới nhất, và mặc dù thèm nhìn chàng đến
chết được nhưng cô vẫn đủ nghị lực để không ra tiếp chàng.

Lúc ấy, đại tá
Aurêlianô Buênđya đã sắp xếp thời gian để cử hai tuần một lần gửi một thông báo
tỉ mỉ về Macônđô. Nhưng chỉ có độc một lần, sau gần tám tháng ra đi, chàng mới
viết thư riêng cho Ucsula. Một sứ giả đặc nhiệm đã mang đến nhà một phong thư
được viết với lối chữ rất đẹp của đại tá: “Hãy trông nom cha thật cẩn thận vì
cha sẽ mất”. Ucsula thảng thốt. “Nếu Aurêlianô nói thì Aurêlianô đã biết.”
Ucsula nói, và nhờ người khiêng Hôsê Accađiô Buênđya vào phòng ngủ. Cụ không chỉ
nặng như trước đây vốn đã nặng mà còn nặng thêm lên rất nhiều trong suốt thời kỳ
nằm dưới bóng cây dẻ đến mức bảy người đàn ông lực lưỡng không khiêng nổi, buộc
họ phải kéo lê cụ vào nhà. Mùi rêu non lẫn mùi mộc nhĩ, thứ mùi của không khí ẩm
lâu năm và đậm đặc, làm sực nức cả căn phòng khi cụ già lực lưỡng dầm mưa đãi nắng
đã lâu ngày bắt đầu thở. Ngày hôm sau, cụ không thức dậy ở trên giường đặt
trong phòng. Sau khi đi khắp các phòng tìm kiếm, Ucsula lại một lần nữa thấy cụ
nằm dưới bóng cây dẻ. Thế là họ trói cụ vào giường. Dẫu khỏe mạnh nhưng Hôsê
Accađiô Buênđya đã bị loại ra ngoài vòng chiến đấu… Cụ bằng lòng với tất cả,
không phân biệt được nữa. Nếu cụ trở lại nằm dưới bóng cây dẻ không phải vì sở
nguyện mà vì thói quen của cơ thể. Ucsula chăm nom cụ, cho cụ ăn và kể cho cụ
nghe những tin tức về Aurêlianô. Nhưng thực ra, người duy nhất mà cụ tiếp xúc từ
đã lâu là Pruđênxiô Aghila.

Với dáng vẻ tiều tụy
vì tuổi già trong cõi âm phủ, Pruđênxiô Aghila cứ một ngày hai lần đến nhà nói
chuyện với cụ. Hai người nói chuyện về gà chọi. Hai người hứa hẹn với nhau sẽ
xây dựng một chuồng nuôi những chú gà chọi tuyệt vời, không chỉ để vui vẻ trước
một số trận thắng mà còn để giải khuây trong những ngày chủ nhật man mát buồn ở
cõi âm phủ. Pruđênxiô Aghila là người tắm rửa cho cụ, cho cụ ăn, kể cho cụ nghe
những thắng lợi hiển hách của một người hoàn toàn xa lạ được gọi là Aurêlianô
và người này là đại tá trong chiến đấu. Khi ở một mình, Hôsê Accađiô Buênđya
khuây khỏa đôi phần với giấc mơ trong căn buồng vô cùng tận. Cụ mơ thấy mình đứng
dậy khỏi giường, mở cửa chính mà đi sang phòng bên có cái giường với đầu giường
làm bằng thép tôi, một chiếc ghế xích đu bằng gỗ liễu giỏ với chính một bức
chân dung Thánh bà Đồng trinh Rêmêđiôt treo trên bức tường cuối phòng. Từ phòng
này cụ đi sang phòng khác giống y hệt, mà cửa của nó mở ra dẫn sang phòng khác
giống y hệt, rồi sau đó sang phòng khác cũng giống y hệt, cứ như thế cho đến vô
cùng tận. Cụ thích đi từ phòng này sang phòng khác, như đi trong một hành lang
hai bên tường đều gắn gương, cho tới khi Pruđênxiô Aghila vỗ vai cụ. Thế là cụ
trở về lần lượt đi qua các phòng, trong lúc quay lại mà tỉnh giấc dần, cụ chạy
trên con đường ngược lại, để rồi lại gặp Pruđênxiô Aghila trong cái phông của đời
thực. Nhưng rồi có một đêm nọ, sau hai tuần Ucsula đưa cụ vào nhà, Pruđênxiô
Aghila vỗ vai cụ ngay ở phòng trung gian giữa cõi thực và cõi mộng và cụ mãi
mãi dừng lại ở đấy, mà cứ tưởng rằng đó là phòng của đời thực. Sáng ngay hôm
sau, khi mang bữa điểm tâm cho cụ, Ucsula bắt gặp một người từ ngoài hành lang
đi lại phía mình. Người ấy béo lùn, mặc bộ quần áo đen, đội một chiếc mũ đen rộng
vành chụp gần hết đôi mắt buồn rầu của ông ta. “Trời ơi.” - Ucsula nghĩ bụng. “Ai
như là Menkyađêt… Người đó là Cataurê, em trai Visitaxiôn, người tự bỏ nhà ra để
tránh dịch mất ngủ và từ đó đến nay không có tin tức gì. Visitaxiôn hỏi em mình
trở lại để làm gì thì ông ta dùng tiếng thổ dân trả lời:

- Em đến dự đám tang
của hoàng đế.

Thế là mọi người đổ
xô vào phòng Hôsê Accađiô Buênđya dùng hết sức lay cụ, gào to lên để gọi cụ, lấy
gương soi chiếu vào lỗ mũi cụ để gọi, nhưng không làm sao gọi cụ tỉnh được. Sau
đó ít lâu, khi người thợ mộc đo cụ để đóng áo quan, qua cửa sổ, người ta thấy
trời đổ xuống trận mưa hoa li ti màu vàng. Cả đêm ấy, những bông hoa nhỏ li ti
màu vàng rơi xuống một cái làng đang trong nỗi âm thầm đau khổ. Hoa phủ kín các
nóc nhà và hoa lấp kín các lối ra vào. Bầu trời sực nức mùi hoa khiến cho những
con vật ngủ ngoài trời phải ngột thở. Hoa trời rơi xuống không biết cơ man nào
mà kể, đến mức khi trời sáng các con đường phủ đầy hoa phẳng lỳ như một tấm
chăn. Người ta buộc phải dùng gậy, sào mà hất hoa đi để lấy lối cho đám tang đi
qua.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3