08.CÁI GIÁ CỦA QUYỀN LỰC
CÁI GIÁ CỦA
QUYỀN LỰC
“Thôi
nào tiểu thư. Tiểu thư không cần những thứ này nữa đâu. Vứt nó đi thôi.”
Cô hầu
gái của Nasuada, Farica nhẹ nhàng tháo lớp vải lanh băng quanh cánh tay cô.
Nasuada đã phải băng bó như thế từ hồi cô và thủ lĩnh Fadawar so độ dũng cảm
trong Thách đấu Trường Đao.
Nasuada
đứng nhìn chằm chằm vào tấm thảm dài rách tả tơi trong khi Farica chăm sóc cô.
Sau đó cô cố gắng nhìn xuống. Từ khối chiến thắng trong Thách đấu Trường đao tới
giờ, cô vẫn không dám nhìn những vết thương, lúc mới đầu trông chúng đã rất xấu
xí nên cô không thể nhìn lại cho tới khi chúng sắp lành.
Những
vết sẹo nằm rải rác trên cánh tay cô: sáu vết nằm ở dọc bụng cánh tay trái và
ba vết khác ở tay phải. Mỗi vết sẹo dài khoảng 7 tới 10cm trừ vết cuối cùng ở
bên tay phải. Lúc đó đầu óc cô đã không còn kiểm soát nổi và con dao trượt đi tạo
nên vết sẹo dài gấp đôi những cái khác. Lớp da quanh vết sẹo ửng hồng và dúm lại
trong khi vết sẹo chỉ hơi trắng hơn phần da còn lại của cô một chút. Cô đã sợ rằng
trông chúng trắng bệch đập vào mắt người khác. Vết sẹo lồi lên khoảng 0,5cm,
trông như thể có ai đó ấn một cái roi sắt nhỏ dưới làn da cô.
Tư tưởng
của Nasuada mâu thuẫn khi quan sát chúng. Khi cô lớn, cha cô đã dạy cho cô những
tập tục của dân tộc cô, nhưng cả cuộc đời cô lại sống cùng Varden và những người
lùn. Cô chỉ được đi xem những buổi lễ của dân du mục và hiếm lắm mới tham gia
vào buổi cầu nguyện của họ. Cô chưa bao giờ Nhảy Trống giỏi và cũng chưa bao giờ
tham gia buổi Cầu Hồn, hay – cái này là đặc biệt nhất – đánh bại ai trong Thách
đấu trường Đao. Thế mà giờ đây khi cô vẫn còn trẻ đẹp lại mang trên mình chín vết
sẹo lớn trên cánh tay. Cô có thể ra lệnh cho một trong những pháp sư của Varden
xóa mờ chúng nhưng sau đó có thể cô sẽ mất đi chiến thắng của mình ở Thách Đấu
Trường Đao, và những bộ lạc du mục sẽ lại bảo cô chỉ là kẻ nô bộc của họ.
Trong
khi cô tiếc nuối nhìn cánh tay không còn mềm mượt của mình và không bao giờ còn
thu hút ánh nhìn của cánh nam giới nữa, cô cũng tự hào về những vết sẹo. Chúng
là vật chứng cho sự dũng cảm và là bằng chứng hữu hình cho những gì cô cống hiến
cho Varden. Bất cứ ai đối diện với cô sẽ biết được con người cô và cô thấy điều
đó còn quý giá hơn nhiều so với vẻ bề ngoài.
“Chàng
nghĩ sao?” cô hỏi và giơ cánh tay về trước mặt Vua Orrin đang đứng bên cửa sổ
thư phòng ngắm nhìn thành phố.
Orrin
quay lại, nhíu mày, mắt tối lại bên dưới hàng lông mày rậm rạp. Lúc trước ông
đã thay bộ giáp chiến đáu bằng bộ áo vải đỏ dày và áo choàng gắn lông chồn trắng.
“Trẫm
thấy hài lòng khi nhìn thấy những vết sẹo,” ông nói và quay lại nhìn thành phố.
“Băng lại đi. Để như thế không hợp với xã hội lịch sự.”
Nasuada
quan sát cánh tay thêm một lúc. “Không, tôi không nghĩ thế.” Cô giật dải dây buộc
ở cánh tay và đưa cho Farica. Cô bước qua tấm thảm của người lùn đặt ở giữa
phòng tới gần Orrin ngắm nhìn thành phố tan tác sau chiến tranh.Cô thấy hài
lòng khi hai trong số các đám cháy ở phóa thành tây đã bị dập tắt. Sau đó cô
quay sang nhìn nhà vua.
Chỉ
trong một khoảng thời gian ngắn từ khi Varden và Surdan bắt đầu chống lại đế chế,
Orrin đã già đi rất nhiều, vẻ nhiệt tình và tính cách kỳ cục vốn cố có ông đã
biến mất dưới vẻ ngoài sắt đá. Lúc đầu, cô thích những thay đổi đó vì cô cảm thấy
ông người lớn hơn, nhưng khi chiến tranh kéo faif, cô bắt đầu nhớ cách ông hào
hứng thảo luận như thể một nhà hùng biện cũng như nhớ tính cách thất thường của
ông. Cô nhớ ông đã từng làm cô thấy nhẹ nhõm dù cho lắm lúc cuộc sống với cô
quá là nặng nề. Hơn nữa những thay đổi đã biến ông nguy hiểm hơn; nếu xét như
tâm trạng hiện tai của ông, cô nghĩ ông đang có ý định tiếm quyền thủ lĩnh
Varden của cô.
Liệu
mình có hạnh phúc khi lấy ngài? Cô phân vân. Orrin không đẹp mã. Mũi ông quá
cao và nhỏ nhưng hàm lại bạnh mà môi lại quá mỏng. Sau hàng năm trời luyện tập
đã cho ông một thân hình cơ bắp. Trí tuệ của ông không ai có thể nghi ngờ và
tính cách của ông cũng dễ chịu. Nhưng nếu như ông không phải vua của Surda và nếu
như ông không quá đe dọa tới vị trí của cô và tới quyền tự chủ của Varden, cô
biết cô sẽ không bao giờ để mắt tới ông ta. Liệu ngài có thể làm một người cha
tốt không?
Orrin
tì tay lên bậu cửa đá. Ông nói và không thèm nhìn cô. “Nàng phải chấm dứt thỏa
thuận liên minh với Urgal.”
Câu
nói của ông khiến cô lùi lại mấy bước. “Vì sao?”
“Vì
chúng làm tổn thương chúng ta. Những người muốn làm đồng minh với chúng ta giờ
lại quay sang nguyền rủa chúng ta vì liên minh với quỷ dữ và không chịu hạ vũ
khí khi chúng ta tới quê hương họ. Đối với họ sự tại vị của Galbatorix có vẻ
công bằng và có lý vì chúng ta liên quân với Urgal. Những người bình thường sẽ
không thể hiểu vì sao chúng ta chấp nhận chúng. Họ sẽ không biết rằng chính
Galbatorix đã lợi dụng Urgal hay Galbatorix lừa Urgal tấn công Tronjheim dưới sự
chỉ huy của Tà thần. Nàng sẽ không thể giải thích những chuyện tế nhị như vậy
cho những người nông dân đang sợ hãi. Tất cả những gì họ hiểu là những sinh vật
họ sợ và thù ghét cả đời đang tiến tới quê hương họ, cùng với một con rồng và một
kỵ sĩ giống tiên hơn là người.”
“Chúng
ta cần sự giúp đỡ của Urgal,” Nasuada nói. “Chúng ta còn quá ít binh sĩ.”
“Chúng
ta không cần chúng tới vậy. Nàng biết những gì trẫm đang nói là sự thật; thế
còn vì lý do gì mà nàng không để Urgal tham chiến ở Belatona? Vì sao nàng ra lệnh
cho chúng không được đặt chân vào thành phố? Không cho chúng tham chiến là chưa
đủ đâu Nasuada. Tiếng xấu về chúng đã đồn đải khắp nơi rồi. Điều duy nhất nàng
có thể làm để cải thiện tình hình là chấm dứt sự phối hợp kinh tởm này trước
khi nó gây cho chúng ta nhiều thiệt hại hơn.”
“Thiếp
không thể.”
Orrin
quay lại nhin cô với vẻ tức giận. “Những binh sĩ đang chết dần vì nàng chấp nhận
sự trợ giúp của Garzhvog. Những binh sĩ của ta, của nàng, những người dân của đế
chế... chết và bị chôn. Vụ liên minh này không đáng để họ phải bỏ mạng. Còn trẫm,
trẫm không thể hiểu vì sao nàng lại bảo vệ chúng.”
Cô
không thể chịu nổi cái nhìn của ông ta, nó khiến cô nhớ tới cái cảm giác tội lỗi
mỗi khi cô cố gắng ngủ. Cô quay mặt nhìn chăm chăm vào đám khói bốc từ ngọn
tháp ở góc khuất của thành phố. Cô từ từ nói. “Thiếp bảo vệ họ vì thiếp hy vọng
bảo trì sự liên minh giữa chúng ta và Urgal sẽ cứu sống nhiều người hơn cái giá
chúng ta phải trả... Nếu chúng ta có thể đánh bại Galbatorix...”
Orrin
lẩm rẩm tỏ ra không tin.
“Thiếp
biết chúng ta không nắm chắc phần thắng,” cô nói. “Nhưng chúng ta phải vạch ra
tất cả các khả năng. Nếu chúng ta đánh bại được lão ta thì chúng ta sẽ bước vào
quá trình phục hồi nền văn minh từ đống tro tàn của Đế chế. Chúng ta phải chắc
chắn chúng ta có được hòa bình sau cả trăm năm đấu tranh. Thiếp không thể nào hạ
bệ Galbatorix để rồi Urgal sẽ đánh bại chúng ta vào thời điểm chúng ta yếu nhất.”
“Lúc
nào chúng cũng có thể làm thế. Chúng luôn là thế.”
“Vậy
thì chúng ta có thể làm gì nữa?” cô giận giữ nói. “CHúng ta phải cố gắng thuần
phục chúng. Chúng ta càng khiến chúng không biết được mục đích chúng ta liên
minh với chúng là gì thì nguy cơ chúng quay lưng với chúng ta càng thấp.”
“Trẫm
sẽ nói cho nàng biết phải làm gì,” ông ta hét lên. “Đuổi chúng đi. Chấm dứt hòa
ước với Nar Garzhvog và đuổi chúng đi. Nếu chúng ta chiến thắng trong cuộc chiến
này, chúng ta có thể đưa ra bản hiệp định mới với chúng trong một tư cách cao
hơn. Hoặc tốt hơn, cho Eragon và Saphira và một tiểu đoàn tiến vào dãy Spine giết
sạch lũ Urgal như các Kỵ sĩ Rồng đã từng làm.”
Nasuada
nhìn ông ta với vẻ khó tin. “Nếu thiếp chấm dứt hiệp ước với Urgal, có thể họ sẽ
tức giận, họ sẽ ngay lập tức tấn công chúng ta, và chúng ta không thể cùng lúc
đương đầu với chúng và quân đội triều đình. Chỉ có đồ ngu mới làm thế. Nếu như
thần tiên, rồng và các Kỵ sĩ có thể chấp nhận sự tồn tại của Urgal – kể cả khi
họ thừa sức tiêu diệt chúng – thì vì sao chúng ta không thể. Họ biết giết tất cả
Urgal là sai, vậy thì chàng cũng phải thấy được điều đó.”
“Cứ
theo gương họ đi. Họ bị sao rồi đó! Tốt thôi, cứ để một vài Urgal sống sót
nhưng hay giết một lượng đủ để chúng không dám trả thù chúng ta trong một trăm
năm nữa!”
Sự
đau đớn hiện lên rõ ràng trong giọng nói của cô và trên mặt ông hiện rõ những
gân xanh đỏ. Nasuada thấy choáng váng. Cô quan sát ông kỹ hơn để hiểu vì sao
ông lại kích động tới vậy. Sau một lúc, cô đã hiểu.
“Chàng
đã mất ai?” cô hỏi.
Orrin
nắm chặt bàn tay, rồi từ từ mở bàn tay tựa vào bậu cửa sổ như thể ông muốn dồn
toàn bộ sức mạnh ra nhưng lại không dám. Ông đấm lên cửa sổ hai lần rồi nói. “Một
người bạn thời niên thiếu cùng ta lớn lên ở lâu đài Borromeo. Ta không nghĩ
nàng đã có dịp gặp cậu ta. Cậu ta là trung úy trong quân kỵ binh.”
“Sao
anh ấy chết?”
“Đúng
như nàng đoán đó. CHúng ta tới khu chuồng ngựa phía tây xem xét để sử dụng thì
một người giữ ngựa chạy ra dùng cây xỉa đập vào anh ta. Khi chúng ta tóm được hắn,
hắn cứ la hét về Urgal và rằng hắn không bao giờ đầu hàng... Nếu hắn không làm
thì cũng có kẻ khác làm. Sau đó ta tự mình giết chết hắn.”
“Thiếp
rất tiếc,” Nasuada nói.
Những
viên đá gắn trên vương miện của Orrin lấp lánh khi ông gật đầu vẻ thấu hiểu.
“Dù
chàng có đau thương thế nào cũng không thể để nó tác động tới quyết định của
chàng... Em biết nó không hề dễ dàng – nhưng chàng phải mạnh mẽ hơn con người
thật của mình, vì lợi ích của con dân của chàng.”
“Phải
mạnh mẽ hơn à,” ông nói bằng giọng chua chát và chế nhạo.
“Đúng.
Chúng ta phải mạnh mẽ hơn những người khác, chúng ta phải chứng tỏ chúng ta có
thể đứng ra chịu trách nhiệm... Urgal giết cha thiếp, chàng có nhớ không, nhưng
chuyện đó không ngăn thiếp quyết định liên quân cùng Urgal để giúp Varden. Thiếp
sẽ không để bất cứ chuyện gì khiến thiếp từ bỏ cái gì thiếp cho là tốt cho quân
đội của chúng ta và cho cục diện chung, dù chúng ta sẽ phải trải qua đau đớn thế
nào.” Cô giơ tay cho ông ta xem những vết sẹo.
“Vậy
đây là câu trả lời của nàng? Nàng sẽ không phá vỡ hiệp ước với Urgal?”
“Không.”
Orrin
quá bình thản chấp nhận khiến Nasuada không yên tâm. Sau đó ông đặt cả hai tay
lên bậu cửa sổ rồi quay người bỏ vào thư phòng. Trên tay ông đeo bốn chiếc nhẫn
lớn; một trong số đó có khắc quốc huy Surda lên mặt đá thạch anh: hình một con
hươu sừng tấm chân quấn tầm gửi đứng trên một chiếc đàn hạc, đối diện là một ngọn
tháp cao sừng sững.
“Ít
nhất,” Nasuada nói. “Chúng ta không phải đụng độ những binh sĩ không biết đau.”
“Những
thây ma biết cười ấy hả,” Orrin lầm bẩm, sử dụng cụm từ mà cô biết đã phổ biến
trong quân Varden. “Đúng, và may là không có Murtagh lẫn Thorn, nếu không thì
phiền lắm.”
Cả
hai người không nói gì trong một lúc. Sau cùng cô cất tiếng, “Thí nghiệm tối
qua thế nào? Thành công không?”
“Ta mệt
quá nên đi ngủ.”
“Ờ.”
Sau
đó cả hai cùng ngầm đồng ý đi về bàn làm việc đặt ở cạnh một bức tường. Trên
bàn là hàng núi công văn, giấy tờ, báo cáo. Thế mà chỉ cách đây nửa tiếng, trên
bàn làm gì có gì đâu.
Cô tập
trung vào bản báo cáo quan trọng nhất, ước tính số lượng tù nhân quân Varden bắt
giữ sau trận chiến ở Belatona, những tên quan trong đã được đánh dấu bằng mực đỏ.
Cô và Orrin đang bàn về những con số thì Ferica bước vào tháo gạc cho cô.
“Thiếp
không nghĩ mình có thể thoát được khỏi đống rắc rối này,” cô thừa nhận.
“Chúng
ta có thể tuyển quân hộ thành từ những người này. Như vậy chúng ta không phải bỏ
lại quá nhiều chiến binh.”
Cô cầm
bản báo cáo lên. “Có thể, nhưng những người chúng ta cần lại hiếm mà thầy phép
của chúng ta đang làm việc quá tải rồi...”
Khi
thấy cô trả lời tiêu cực, nhà vua hỏi lại. “Vậy Du Vrangr Gata đã tìm ra cách
phá bỏ lời thề bằng ngôn ngữ cổ chưa? Đã có chút tiến triển nào chưa?”
“Chưa.
Thiếp đã hỏi ý kiến thần tiên nhưng họ cũng không hơn chúng ta.”
“Nếu
chúng ta không giải quyết được vấn đề này, chúng ta sẽ thua trận,” Orrin nói.
“Đây chính là vấn đề mấu chốt.”
Cô
day day thái dương. “Thiếp biết.” Trước khi để lại người lùn bảo vệ Farthen Dȗr
và Tronjheim, cô đã thử tính tới những thách thức quân Varden phải đối mặt khi ở
thế phòng thủ. Nhưng vấn đề họ đang vấp phải lúc này lại khiến cô quá ngạc
nhiên.
Mọi
người đã thấy được rắc rối đó lần đầu tiên sau Trận chiến trên Đồng bằng cháy.
Rõ ràng là những binh sĩ của Galbatorix đã phải thề trung thành với lão và đế
chế bằng ngôn ngữ cổ. Cô và Orrin không thể tin tưởng họ, ít nhất là tới khi
tiêu diệt đế chế và Galbatorix hoặc có thể là không bao giờ. Vì vậy họ không thể
để tàn quân gia nhập quân đội Varden vì sợ lời thề sẽ khiến họ hành động khác
thường.
Nasuada
không quan tâm nhiều tới vấn đề này cho tới thời điểm hiện tại. Có chiến tranh
tất có tù nhân và cô đã thỏa hiệp với Vua Orrin rằng sẽ đưa tù binh về Surda,
đưa họ tới công trường xây dựng đường xá, đập đá, kè mương và làm những công việc
nặng nhọc khác.
Nhưng
tới khi Varden tiếp quản Feinster cô mới thấy hết được mức nghiêm trọng của vấn
đề. Galbatorix không chỉ buộc binh lính, mà cả quý tộc và tùy tùng, thậm chí
vài người dân thề trung thành với lão – một con số quá lớn khiến Varden không
thể xác định nổi. Nhưng những ai họ xác định được, họ giam vào ngục thất, ít nhất
là tới khi tìm cách phá giải lời thề. Sau đó việc tìm những người họ có thể tin
tưởng và những người họ muốn đầu quân cho Varden còn khó hơn rất nhiều.
Để
canh chừng những người đó, Nasuada phải để lại Feinster gấp đôi số lượng quan
sĩ cô dự liệu lúc đầu. Và, vì có nhiều tù nhân nên số lượng lương thực cung cấp
tới các thành phố lại tăng lên. Họ không thể duy trì tình thế này lâu hơn, và
giờ mọi chuyện đang chuyển biến xấu khi họ đã có Belatona.
“Tiếc
là người lùn không tới,” Orrin nói. “Chúng ta có thể tranh thủ sự giúp đỡ của họ.”
Nasuada
đồng tình. Tại thời điểm này trong quân Varden chỉ có vài trăm người lùn; phần
còn lại đã về Farthen Dȗr chôn cất tiên hoàng Hrothgar và để đợi các tộc trưởng
chọn ra người kế nhiệm Hrothgar. Cô đã nguyền rủa việc này không biết bao nhiêu
lần. Cô đã thuyết phục người lùn hãy chon ra quan nhiếp chính cho thời gian
này, nhưng họ cứng đầu như đá và cứ khăng khăng làm theo nghi lễ đã có từ ngàn
đời của mình, dù việc đó đồng nghĩa với việc bỏ rơi Varden. May là, cuối cùng họ
đã chọn ra nhà vua mới – cháu họ của Hrothgar, Orik và hiện giờ đang đi từ rặng
núi Beor xa xôi tới tiếp viện cho Varden. Tại thời điểm này, họ đã qua vùng đồng
bằng rộng lớn ở bắc Surda, ở khu vực giữa hồ Tudosten và sông Jiet.
Nasuada
không biết họ có thể tham chiến ngay khi tới không. Những người lùn dai sức hơn
con người nhưng gì thì gì họ cũng đã đi bộ hành quân suốt hai tháng ròng, thế
cũng đủ làm rệu rã những con người khỏe nhất. Chắc họ chán lắm khi cứ phải nhìn
đi nhìn lại những cảnh giống nhau, cô nghĩ bụng.
“Chúng
ta đã có quá nhiều tù binh rồi. Và một khi chúng ta chiếm được Dras Leona...”
cô lắc đầu.
Đột
nhiên biểu hiện trên khuôn mặt Orrin sáng lạng hẳn: “Nếu chúng ta bỏ qua Dras –
Leona thì sao?” Ông lật tung đống giấy tờ cho tới khi tìm thấy tấm bản đồ
Alagaësia do người lùn vẽ, mà ông đã cho sao làm nhiều bản. Trên bản đồ những ụ
đất nhấp nhô khiến địa thế của vùng đất không bình thường: những đỉnh núi nằm ở
phía tây Du Weldenvarden. Đồng bàng trũng nơi có dãy núi Beor; những khe núi và
hẻm núi chạy dọc Sa mạc Hadarac; và hệ thống núi Sphine xếp như dẻ quạt ở phần
chính bắc. “Nhìn đi.” Ông dùng ngón giữa chỉ theo đường nối giữa Belatona tới
thủ phủ của Đế chế, thành phố Urȗ’baen. “Nếu chúng ta hành quân thẳng tới đây,
chúng ta sẽ không phải đi qua Dras – Leona. Đi xa như thế rất có khăn nhưng
chúng ta có làm được.”
Nasuada
không cần phải cân nhắc về gợi ý này; cô đã nghĩ tới khả năng này rồi. “Nguy hiểm
rất lớn. Galbatorix có thể vừa tấn công chúng ta bằng cánh quân ở Dras – Leona
– với một số lượng không nhỏ, nếu như tình báo của chúng ta đáng tin – và như vậy
chúng ta sẽ bị tấn công từ hai hướng. Cách đó là cách thua trận nhanh nhất.
Không, chúng ta phải chiếm được Dras – Leona.”
Orrin
thừa nhận cùng một cái gật đầu khe khẽ. “Vậy thì chúng ta cần quân sĩ từ
Aroughs quay lại. Chúng ta cần huy động tổng lực nếu chúng ta muốn tiếp tục cuộc
chiến.”
“Thiếp
biết. Thiếp định kết thúc cuộc chiến ở đó trong tuần này.”
“Ta
hy vọng không phải bằng cách cho Eragon tới đó.”
“Không,
thiếp có kế hoạch khác.”
“Tốt.
Và nhanh lên nhé. Vậy chúng ta làm gì với tù nhân đây?”
“Như
chúng ta đã làm trước đây: canh giữ, đề phòng, cùm xích. Có thể chúng ta cần
dùng phép thuật để hạn chế cử động của họ, như vậy chúng ta có thể trông chừng
chúng kỹ lưỡng hơn. Ngoài ra, thiếp không nghĩ ra giải pháp khác, trừ việc giết
hết họ. Thiếp thà...” Cô cố tưởng tượng ra viễn cảnh cô không hạ bệ được
Galbatorix. “Thiếp thà không dùng... biện pháp kinh khủng này.”
“Ừ.”
Orrin nói và quan sát vết mực đã mờ đánh dấu tam giác Belatona, Dras- Leona và
Urȗ’baen.
Ông vẫn
cứ nhìn thế cho tới khi nasuada nói, “Chúng ta còn cần làm gì không? Jörmundur
đang đợi lệnh còn Hội Đồng Trưởng lão muốn gặp thiếp.”
“Ta
thấy lo.”
“Vì
chuyện gì?”
Orrin
đặt tay lên tấm bản đồ. “Kế hoach này từ đầu đã khó khăn rồi... Lực lương của
chúng ta, quân đồng minh đang tản mát quá nhiều, và nếu Galbatorix nghĩ tới việc
tham chiến, lão có thể tự mình giết chết chúng ta dễ như Saphira chén một bầy
dê vậy. Toàn bộ kế hoạch của chúng ta phải phụ thuộc vào khi nào Galbatorix sẽ
đối đầu với Eragon và Saphira cũng như chúng ta sẽ chiêu gọi được bao nhiêu thầy
phép. Giờ số lượng thầy phép của chúng ta quá ít và chúng ta sẽ không thể triệu
tập những người còn lại cho tới khi tới Urȗ’baen và hợp quân cùng Nữ hoàng
Islandzandí và quân đội của bà ta. Tới lúc đó, quân chúng ta vẫn còn yếu. Chúng
ta chỉ mong sao Galbatorix vẫn cứng đầu không chịu tham chiến cho tới khi chúng
ta răng bẫy quanh hắn.”
Nasuada
cũng nghĩ như vậy. Nhưng hiện giừ cô cần nâng cao sự tự tin của Orrin hơn là
khiến ông suy nghĩ càng tiêu cực, vì nếu sự quyết tâm của ông yếu đi, nhiệm vụ
và ảnh hưởng tới quyết tâm của nhà vua cũng như làm nản lòng binh lính. “Chúng
ta không phải hoàn toàn không có sức phòng vệ,” cô nói. “Không còn như thế.
Chúng ta đã có thanh Dauthdaert, và với nó thiếp nghĩ chúng ta có thể giết chết
Galbatorix và Shruikan khi bọn họ xuất hiện ở Urȗ’baen.”
“Có lẽ.”
“Ngoài
ra, lo lắng chẳng ích gì. Chúng ta không thể khiến người lùn đi nhanh hơn, hay
khiến tốc độ hành quân tới Urȗ’baen của chúng ta nhanh hơn hay quay đuôi bỏ chạy.
Vì thế tốt hơn chàng đừng lo lắng thái quá. Tất cả những gì chúng ta có thể làm
là bình thản chấp nhận số phận cho dù chuyện gì sắp đến. Thiếp không để những
suy nghĩ về hành động của Galbatorix làm ảnh hưởng tới chúng ta. Thiếp không
cho mình vì hắn mà yếu đuối.”