Hãy cứu em - Chương 03

Chương 3

Anh ta đã từ chối
cô. Cô vừa đề nghị một người lạ mặt đưa cô tới đám cưới em họ mình và anh ta đã
thẳng thừng từ chối.

“Không có áo
vest,” là tất cả những gì anh ta nói trước khi bỏ đi. Dù có chưa xem bằng lái
xe hay nghe anh ta không nói bằng giọng mũi, hẳn cô cũng sẽ biết anh ta không
phải dân bản địa Texas, vì anh ta thậm chí còn không thèm nghĩ ra một lời nói
dối tử tế. Một câu gì đó như là con chó của anh ta chết và anh ta đang để tang
nó hay ngày mai anh ta có lịch hiến thận.

Cả JH tràn ngập
trong sắc cam và vàng rực rỡ của ánh chiều tà, ánh nắng xuyên qua những chùm
bụi do bánh chiếc Saab khuấy lên. Anh ta đã đề nghị trả ơn cô, nhưng tất nhiên
là anh ta không hề có ý đó. Hỏi anh ta đúng là một ý tưởng ngu ngốc, bốc đồng.
Và những ý tưởng bốc đồng, ngu ngốc luôn đưa cô vào rắc rối. Vậy nên, nếu cô
xem xét theo cách đó, nghĩa là Vince, anh chàng bị hỏng xe, đã gia ơn cho cô
đấy chứ. Sau rốt thì, cô biết phải làm gì với một anh chàng lạ mặt vô cùng nóng
bỏng trong cả buổi tối dài dặc một khi anh ta đã giúp cô đạt được mục đích? Rõ
ràng là cô đã không suy nghĩ thấu đáo trước khi đề nghị.

Phải mất từ mười
tới hai mươi phút để đi hết con đường dẫn vào JH, tùy thuộc vào lần gần đây
nhất con đường được nâng cấp và loại phương tiện. Sadie luôn sẵn sàng để nghe
tiếng sủa điên cuồng và nhìn thấy sự xuất hiện đột ngột của gần nửa tá chó chăn
bò. Nhà chính và các tòa nhà khác nằm cách đường năm dặm trên một khu trang
trại rộng mười nghìn mẫu. JH không phải là trang trại rộng nhất Texas, nhưng nó
là một trong những trang trại lâu đời nhất, nuôi vài nghìn đầu gia súc mỗi năm.
Kỵ của Sadie, thị trưởng John Hollowell, đã xây trang trại và mua đất ven bờ
sông Canada vào đầu thế kỷ hai mươi. Qua những thời kỳ tốt đẹp và khó khăn, nhà
Hollowell đã luân phiên ngoi ngóp rồi phát đạt, nuôi dưỡng những con bò
Hereford thuần chủng và ngựa loang Mỹ. Tuy vậy, khi phải bảo đảm tương lai của
gia đình với một nam thừa kế, gia đình Hollowell lại luôn thiếu hụt. Trừ vài họ
hàng xa mà Sadie hiếm khi gặp mặt, cô là người cuối cùng trong dòng giống
Hollovvell. Đó là nguồn cơn nỗi thất vọng to lớn của cha cô.

Lúc này chưa hẳn
là mùa chăn thả, lũ gia súc đang ở gần nhà chính và các gian nhà phụ. Khi Sadie
lái xe dọc hàng rào, những cái bóng quen thuộc của chúng gặm cỏ trên cánh đồng.
Mùa thiến và đóng dấu gia súc sẽ sớm đến thôi, và từ khi chuyển đi, Sadie không
nhớ nhung gì thứ mùi và âm thanh của cái sự kiện khủng khiếp nhưng cần thiết
đó.

Cô dùng lại trước
ngôi nhà bốn trăm mét vuông mà ông cô xây vào năm 1940. Khu trang trại ban đầu
nằm cách Khe Little Tail năm dặm về phía tây và hiện giờ quản đốc Snooks Perry
cùng gia đình ông ấy đang cư ngụ ở đó. Nhà Perry đã làm việc cho JH lâu hơn số
năm Sadie sống trên đời.

Cô cầm lấy cái
túi Gucci trên ghế sau rồi đóng cửa xe lại. Loài chim bắt muỗi kêu lên trước
một cơn gió mát lạnh, cơn gió ấy phả vào mặt cô và luồn vào cổ chiếc áo Pink nỉ
màu xám có mũ.

Ánh chiều tà biến
các viên đá trắng và ván lợp nhà thành màu vàng, và cô đi về phía cánh cửa gỗ
sồi xù xì to lớn với huy hiệu JH ở chính giữa hai cánh cửa. Về nhà lúc nào cũng
khiến cô bồn chồn. Một mớ cảm xúc rối loạn giần giật nơi dạ dày và tim cô.
Những cảm xúc ấm áp khuấy lên cùng cảm giác tội lỗi và e sợ quen thuộc vẫn luôn
giằng xé trong cô khi cô về Texas.

Cô mở cánh cửa
không khóa và bước vào một hành lang trống không. Những mùi hương thân thuộc
chào đón cô. Cô hít vào hương chanh, gỗ, nước đánh bóng đồ da, mùi khói ám vào
chiếc lò sưởi bằng đá khổng lồ trong phòng chính nhiều năm trời và mùi đồ ăn tự
nấu từ hàng bao thập kỷ.

Không ai ra đón
cô. Cô băng qua sàn nhà gỗ thông và những tấm thảm Navaho về phía phòng bếp ở
cuối nhà. Phải mất cả một đội ngũ nhân viên toàn thời gian để vận hành JH thật
trơn tru. Quản gia của họ, bà Clara Anne Parton, giữ cho mọi thứ trong nhà
chính cũng như trong các phòng ngủ tập thể gọn gàng và sạch sẽ, trong khi em
gái sinh đôi của bà, bà Carolynn, nấu ba bữa mỗi ngày trừ Chủ nhật. Cả hai đều
không kết hôn và sống cùng nhau trong thị trấn.

Sadie đi theo
tiếng thịch-thịch đều đặn phát ra do thứ gì đó nằng nặng bị ném vào một cái máy
sấy. Cô đi qua căn bếp trống, qua chạn bát, tới phòng giặt đồ đằng sau. Vòng ba
đáng kể của bà Clara Anne chào đón cô khi người quản gia cúi người xuống để
nhặt khăn tắm dưới sàn nhà. Cả hai chị em sinh đôi đều có những đường cong đáng
kể và vòng eo nhỏ xíu mà họ thích khoe ra bằng cách thắt chặt eo quần và đeo
những chiếc thắt lưng to cỡ đĩa ăn món tráng miệng.

“Cô làm việc muộn
thế.”

Bà Clara Anne
nhảy dựng lên và quay ngoắt lại, ôm chặt lấy tim. Búi tóc đen cao ngất của bà
hơi rung rinh “Sadie Jo! Cháu làm cô sợ tưởng chết đấy, nhóc ạ.”

Sadie mỉm cười và
tim cô ấm rực lên khi cô đi vào phòng. “Cháu xin lỗi.” Hai chị em sinh đôi đã
giúp một tay nuôi dạy cô và cô dang tay ra. “Thật vui khi gặp cô.”

Người quản gia ôm
chặt lấy cô vào bộ ngực khổng lồ của bà và hôn má cô. Cảm giác ấm áp quanh tim
cô lan ra khắp ngực. “Phải đến một đời gấu trúc Mỹ[1] rồi đấy chứ.”

[1] “Coon” từ này vừa có nghĩa là gấu trúc Mỹ vừa
là một từ chỉ người da đen với nghĩa miệt thị.

Sadie bật cười.
Hai chị em bà là những người bảo thủ khi dính đến mái tóc bới cao và lối nói
cũ. Và nếu Sadie có định bảo bà Clara Anne rằng ngày nay vài người có thể thấy
cách diễn đạt xưa ấy hơi kỳ thị chủng tộc, bà quản gia sẽ thấy sốc bởi vì chẳng
có lấy một tế bào kỳ thị chủng tộc trong người bà Clara Anne. Một lần, khi còn
bé, cô đã trêu bà Clara Anne và hỏi chính xác thì một đời gấu trúc Mỹ là bao
nhiêu năm. Bà quản gia đã nhìn thẳng vào mắt cô và trả lời một cách nghiêm túc,
“Sáu tới tám năm. Đó là khoảng thời gian một con gấu trúc Mỹ sống trong tự
nhiên.” Ai mà biết là thật sự có một câu trả lời chứ?

“Đã được một đời
gấu trúc Mỹ đâu cô.”

“Gần được rồi
đấy.” Bà ngả người ra sau và nhìn vào mặt Sadie. “Chúa ơi, trông cháu giống hệt
mẹ.”

Mà không có vẻ
đĩnh đạc, duyên dáng và tất cả những gì khiến người khác tự nhiên phải lòng bà.
“Cháu có đôi mắt của cha.”

“Phải. Xanh như
hoa chuông Texas.” Bà rê đôi bàn tay thô ráp lên hai cánh tay Sadie. “Ở đây bọn
cô nhớ cháu lắm.”

“Cháu cũng nhớ
các cô.” Điều đó là sự thật. Cô nhớ bà Clara Anne và bà Carolynn. Cô nhớ vòng
ôm ấm áp và nụ hôn họ đặt trên má mình. Rõ ràng là cô không nhớ chúng đến mức
chuyển về đây. Cô thả tay xuống hai bên người. “Cha cháu đâu ạ?”

“Đang ăn với mấy
cậu nhóc ở khu bếp. Cháu có đói không?”

“Đói ngấu ạ.” Tất
nhiên là ông đang ăn cùng những người chăn gia súc. Đó là nơi ông thường dùng
bữa vì điều ấy là hợp lẽ thường. “Ông có nhớ là cháu sắp về không?”

“Chắc chắn là ông
ấy nhớ chứ.” Bà quản gia với tay lấy một chồng khăn tắm. “Ông sẽ không quên một
chuyện như cháu sắp về đâu.”

Sadie không dám
chắc. Ông đã quên buổi lễ tốt nghiệp trung học của cô. Hay phải nói, ông còn
bận tiêm vắc-xin cho gia súc. Chăm sóc động vật luôn đi trước việc chăm sóc
người. Công việc đi trước, và Sadie đã chấp nhận điều đó từ lâu lắm rồi. “Tâm
trạng ông thế nào ạ?”

Bà Clara Anne
nhìn cô qua chồng khăn trong tay. Họ đều biết vì sao cô hỏi vậy. “Tốt, giờ thì
hãy đi tìm cha cháu đi, và mai chúng ta sẽ hàn huyên. Cô muốn nghe tất những gì
cháu đã làm.”

“Qua bữa trưa
nhé. Có lẽ cô Carolynn sẽ làm cho chúng ta món salad gà kèm bánh sừng bò của cô
ấy.” Đó không phải một món mà người đầu bếp nấu cho những người chăn gia súc.
Họ có xu hướng thích những cái bánh sandwich thịnh soạn để ăn trưa hơn, những
lát thịt dày kẹp vào một cái bánh mì to. Nhưng bà Carolynn thường làm salad gà
cho riêng mẹ Sadie và sau này là cho Sadie.

“Cô sẽ bảo cô ấy
là cháu đã nhắc đến món đó. Mặc dù cô nghĩ là cô ấy đã lên kế hoạch làm nó
rồi.”

“Tuyệt.” Sadie
nhìn bà Clara Anne lần cuối rồi quay vào bếp và đi ra ngoài. Cô đi trên con
đường bê tông mình đã đi hàng nghìn lần. Đa phần các bữa ăn diễn ra trong khu
bếp và càng đến gần khu nhà xi măng trát vữa thì cô càng ngửi rõ mùi thịt quay
và bánh mì nướng. Dạ dày cô kêu lên khi cô bước lên hiên nhà dài bằng gỗ. Bản
lề trên cánh cửa kính kêu cọt kẹt báo tin cô đến, và vài người chăn gia súc
ngẩng lên khỏi đĩa đồ ăn của họ. Chừng tám chiếc mũ cao bồi treo trên móc cửa.
Căn phòng trông y xì lần cuối cô bước vào. Sàn gỗ thông, tường quét vôi, màn
vải bông màu đỏ và trắng, và vẫn một đôi tủ lạnh Frigidaire. Thứ khác biệt duy
nhất là bếp lò và chiếc lò nướng mới sáng bóng.

Cô nhận ra vài
người đàn ông khi họ nhổm dậy. Cô ra hiệu cho họ cứ ngồi yên và đưa mắt tìm cha
cô, đầu ông cúi xuống trên đĩa, vẫn mặc kiểu áo lao động Western cổ điển như từ
xưa đến giờ. Hôm nay nó có màu be với nút ngọc trai trắng. Dạ dày cô siết lại
và cô hơi nín thở. Cô không biết mình mong chờ gì. Cô đã ba mươi ba và vẫn
thiếu tự tin khi ở gần cha mình. Ông sẽ ấm áp hay lãnh đạm?

“Chào cha.”

Ông ngước lên và trao
cho cô một nụ cười mệt mỏi không lan được tới những nếp nhăn quanh khóe đôi mắt
xanh dương của ông. “Con đây rồi, Sadie Jo.” Ông chống tay xuống bàn và đứng
dậy, và dường như ông phải tốn nhiều thời gian hơn thường lệ. Tim cô rơi bịch
xuống dạ dày đang thít chặt khi cô đi về phía ông. Cha cô lúc nào cũng gầy gò.
Cao. Tay chân dài và eo cao, nhưng ông chưa bao giờ hốc hác. Má ông hóp lại và
trông ông như tăng đến mười tuổi kể từ lần cô gặp ông ở Denver ba năm trước.
“Cha đã mong con về từ một tiếng trước.”

“Con đã đưa một
người đi nhờ vào thị trấn,” cô nói khi ôm lấy eo ông. Ông vẫn có mùi như xưa.
Mùi Lifebuoy, bụi đất, không khí Texas trong lành. Ông giơ một bàn tay gân guốc
lên và vỗ lưng cô. Hai cái. Lúc nào cũng là hai cái, trừ những dịp đặc biệt khi
cô làm gì đó đáng được nhận ba cái.

“Con đói không,
Sadie?”

“Đói ngấu ạ.”

“Lấy một cái đĩa
và ngồi xuống đi.”

Cô thả tay xuống
và nhìn lên mặt ông khi một nỗi sợ hãi ích kỷ đè xuống đôi vai cô như tảng đá
nghìn cân. Cha cô đang già đi. Trông đúng với tuổi bảy mươi tám của ông. Cô sẽ
làm gì đây khi ông ra đi? JH thì sao? “Cha đã sụt cân.”

Ông quay lại ghế
và cầm nĩa lên. “Có lẽ khoảng nửa cân đến một cân.”

Giống mười cân
hơn.

Cô đi tới bếp lò
ở bên kia phòng lấy cơm của mình rồi cầm lấy một miếng bánh mì mới nướng. Trừ
việc nuôi vài con cừu và bò Hereford để tranh giải 4-H[2] cách đây nhiều năm, Sadie không biết nhiều về những hoạt động
hàng ngày của một trang trại gia súc. Và tận đáy tâm hồn bội bạc của cô, sâu
thẳm bên trong nơi cô cất giữ những bí mật đen tối nhất, là sự thật rằng cô
cũng không hứng thú muốn biết. Tình yêu đặc biệt đối với đất đai của nhà
Hollowell đã hoàn toàn bỏ qua cô. Cô thà sống trong thị trấn còn hơn. Bất kỳ
thị trấn nào. Kể cà Lovett: dân số mười nghìn người.

[2] 4-H là một tổ chức dành cho thanh niên của
viện Thực phẩm và nông nghiệp quốc gia trực thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ. 4-H tượng
trưng cho 4 giá trị mà tổ chức này coi trọng: Head (Đầu – quản lý, suy nghĩ),
Heart (Trái tim – chăm sóc, gắn bó), Hands (Đôi tay – giúp đỡ, lao động), Health
(Sức khỏe - sống, tồn tại). Tổ chức này có rất nhiều chương trình được thiết kế
nhằm mục đích phát triển các kỹ năng của thanh thiếu niên, một trong số đó là
nuôi dưỡng động vật.

Cánh cửa sau bằng
kính đập vào khung cửa khi bà Carolynn Parton bước vào nhà bếp. Bà kêu ré lên
và giơ hai tay lên trời, và trừ cái váy xòe và chiếc áo xếp nếp bà trông giống
hệt chị mình. “Sadie Jo!” Sadie đặt đĩa xuống mặt quầy mòn vẹt đúng một giây
trước khi bị nghiền vào bộ ngực to mềm mại của bà Carolynn.

“Chúa ơi, phải
đến một đời gấu trúc Mỹ rồi đấy chứ.”

Sadie mỉm cười
khi bà Carolynn hôn má cô. “Chưa lâu đến thế.”

Sau vài giây trò
chuyện, bà Carolynn cầm lấy đĩa của Sadie và đổ đầy sườn lên. Bà rót một cốc
trà ngọt và theo Sadie băng qua bên kia phòng đi tới bàn ăn. Vài anh chàng cao
bồi rời đi và cô ngồi xuống chiếc ghế cạnh cha mình.

“Mai cô sẽ hàn
huyên với cháu,” Carolynn bảo Sadie khi bà đặt trà xuống bàn. Rồi bà chuyển sự
chú ý vào ông Clive. “Ăn đi,” bà ra lệnh, rồi lại băng qua phòng.

Ông Clive ăn một
miếng bánh mì ngô. “Con có kế hoạch gì khi ở đây?”

“Con phải tham dự
bữa tiệc tổng duyệt tối mai và đám cưới lúc sáu giờ tối thứ Bảy.” Cô ăn một
miếng cơm Tây Ban Nha của bà Carolynn và thở dài. Cảm giác an ủi ấm áp do sự
thân thuộc mang lại lắng đọng nơi dạ dày cô cùng với cơm. “Ngày mai con rỗi cả
ngày. Chúng ta nên làm gì đó vui vẻ trong khi con ở đây.” Cô nghĩ về những việc
mình và cha cùng làm lúc trước. Cô ăn thêm một miếng và gắng sức nghĩ ngợi. “Có
lẽ bắn đĩa hoặc cưỡi ngựa qua Little Tail và tán gẫu cùng gia đình bác Snooks.”
Hồi xưa cô rất thích bắn đĩa cùng cha mình và cưỡi ngựa theo con đường mòn tới
nhà bác Snooks. Dù cũng chẳng mấy khi cô được làm vậy. Thường thì nếu cô thúc
giục ông, ông sẽ bảo một người làm đưa cô đi.

“Snooks đang ở
Denver xem xét vài con gia súc cho cha.” Ông uống một ngụm trà lớn. “Mai cha sẽ
tới Laredo.”

Thậm chí cô cũng
chẳng thấy ngạc nhiên. “Laredo có gì ạ?”

“Cha sẽ đưa
Maribell xuống đó để phối giống với một con ngựa giống Tobiano tên Diamond
Dan.”

Công việc đi
trước. Dù mưa hay nắng, ngày lễ hay ngày hồi hương. Cô hiểu điều đó. Cô đã được
nuôi dạy phải hiểu, nhưng... trang trại JH thuê rất nhiều nhân công. Rất nhiều
người hoàn toàn đủ khả năng đưa một con ngựa cái tới Laredo để lấy giống. Hay
tại sao không vận chuyển một ít tinh trùng của Diamond Dan qua đêm? Nhưng Sadie
biết câu trả lời cho câu hỏi. Cha cô già, cứng đầu và muốn tự mình giám sát mọi
thứ, lý do đấy. Ông phải tận mắt nhìn thấy để bảo đảm mình có được con ngựa
giống mình trả tiền.

“Cha có về kịp
đám cưới không?” Cô không cần phải hỏi xem ông có được mời hay không. Ông là họ
hàng, dù ông không có quan hệ máu mủ, và dù cho người nhà mẹ cô thật lòng không
quan tâm đến ông.

Ông lắc đầu. “Cha
sẽ về rất muộn.” Ông còn chẳng thèm ra vẻ buồn bã. “Chủ nhật bác Snooks đã ở nhà
rồi. Lúc đấy chúng ta có thể cưỡi ngựa qua.”

“Sáng Chủ nhật
con phải đi rồi.” Cô chọn lấy một miếng sườn. “Thứ Hai con phải đóng một hợp
đồng.” Renee hẳn cũng có thể giải quyết ổn thỏa việc ấy, nhưng Sadie thích ở đó
đề phòng trường hợp có chuyện bất ngờ nảy sinh. Cô khựng lại khi miếng sườn ở
ngay trước mặt và nhìn vào đôi mắt xanh mệt mỏi của cha mình. Ông chỉ còn cách
tuổi tám mươi vài năm ngắn ngủi. Có thể trong năm năm nữa ông sẽ chẳng còn ở
đây. “Con có thể chuyển hẹn và rời đi vào thứ Ba.”

Ông cầm cốc trà
lên, và cô nhận ra mình đang nín thở. Chờ đợi như mọi lần. Chờ ông cho cô thấy
một dấu hiệu, một lời nói hay một cử chỉ... bất kỳ thứ gì, bất cứ dấu hiệu nào
cho thấy ông quan tâm đến những gì cô làm. “Không cần làm vậy,” ông nói và uống
một ngụm. Rồi với phong cách điển hình của nhà Hollowell, ông đổi chủ đề tránh
xa bất kỳ điều gì có thể dính đến những chuyện quan trọng. “Chuyến đi của con
thế nào?”

“Tuyệt ạ.” Cô cắn
một miếng và nhai. Trò chuyện linh tinh. Họ giỏi trò chuyện linh tinh. Cô nuốt
nước bọt qua cục nghẹn trong họng. Đột nhiên cô không còn quá đói nữa và đặt
miếng sườn của mình xuống đĩa. “Có một chiếc xe tải màu đen ở ven đường,” cô
nói và chùi ngón tay vào khăn ăn.

“Có thể là của
người nhà bác Snooks.”

“Anh ta không
phải dân ở đây và con đã thả anh ta xuống cửa hàng Gas & Go.”

Đôi lông mày rậm
màu trắng của ông nhíu xuống. “Lovett không còn là cái thị trấn nhỏ mà con đã
lớn lên nữa. Con phải cẩn thận.”

Lovett gần như
vẫn y xì ngày xưa. “Con đã cẩn thận đấy chứ.” Cô kể cho cha cô nghe việc lấy
thông tin của anh ta. “Và con đã dọa anh ta với một khẩu súng sốc điện.”

“Con có súng sốc
điện không?”

“Không.”

“Cha sẽ lấy khẩu
hai hai của con ra khỏi két.” Cô cho rằng đó là cách cha cô nói ông có quan tâm
nếu có một tên giết người hàng loạt chặt nhỏ cô ra.

“Cảm ơn cha.” Cô
nghĩ đến Vince và đôi mắt xanh lục nhạt của anh ta nhìn cô từ dưới vành mũ. Cô
không biết mình bị làm sao khi đề nghị anh ta đưa cô tới đám cưới của em họ
mình. Người bên họ mẹ cô rất bảo thủ, và cô không biết gì về anh ta hết. Tất cả
những gì cô biết, anh ta rất có thể là một tên giết người hàng loạt. Một gã
nghiện giết người, hoặc tệ hơn thế.

Một đảng viên
Đảng Dân chủ.

Tạ ơn Chúa là anh
ta đã từ chối cô, và tạ ơn Chúa vì cô sẽ không bao giờ phải gặp lại Vincent
Haven nữa.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3