Gái công xưởng - Phần II - Chương 11 phần 2

SAU BỮA TRƯA, tôi ngồi nói chuyện với người anh cả về lịch sử gia đình. Những người họ hàng khác thỉnh thoảng tham gia vào cuộc trò chuyện khi họ đi qua phòng khách. Anh có biết gì về ông nội em không? Tôi hỏi.

Người có thể trả lời rõ ràng nhất cho câu hỏi của cô - anh ta lặng lẽ chỉ tay về phía phòng ngủ nơi có ông lão bất động, không thể thốt nên lời, đang nằm chờ chết.

Anh biết những gì về ông nội của mình?

Sau này ông đổi tên thành Trương Thanh Ba.

Ông ấy đến Bắc Kinh học đại học. Ông làm việc ở Bắc Kinh.

Không, ông làm việc ở Cáp Nhĩ Tân.

Trong suốt cả một ngày thật dài - chín tiếng đồng hồ, với sáu người họ hàng trò chuyện không ngừng - tôi đã cố thử, nhưng không thể. Mỗi lần tôi đặt một câu hỏi, chúng tôi lại chuyển chủ đề sang một cuộc bàn luận về tên của một ai đó khác, hay là năm sinh chính xác của ông, hoặc ai đó đã từng nói về ông một lần nào đó. Chúng tôi chìm đắm trong các sự kiện, luẩn quẩn trong hàng đống ngày tháng. Không ai có thể tập hợp chúng lại, gom các chi tiết này thành một câu chuyện mạch lạc. Thậm chí còn khó khăn khi tìm hiểu những nỗi khổ mà họ hàng của tôi phải chịu đựng hàng năm trời. Họ bưng bít những chuyện cá nhân, họ bỏ qua những khoảng thời gian dài và dường như họ quên đi những sự kiện chủ chốt. Trong một thế giới mà có quá nhiều người phải chịu đau khổ, câu chuyện của một người chẳng có nghĩa lý gì. Thậm chí cả Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ cũng không được bảo vệ, nữa là một kẻ vô danh tiểu tốt.

Cuối cùng tôi cũng đành từ bỏ việc đặt câu hỏi. Trong cuộc trò chuyện kéo dài bảy tiếng của chúng tôi, tôi biết được rằng bà nội của họ - mẹ bác Lập Giao - đã ở lại Lục Đài và bị giết chết trong giai đoạn cải cách ruộng đất vào cuối những năm 1940. Trong bữa tối, Ân Kiều quay sang tôi và nói, “Ông nội chúng tôi đã tự tử. Cô có biết điều đó không?” Tôi ngồi và để cho cuộc trò chuyện trôi tuột qua trong trí óc, chỉ để lại những mẩu rời rạc tôi muốn biết như thể đá cuội lắng xuống rìa đại dương.

***

Quay trở về Bắc Kinh, tôi ngồi đọc lá thư của Trương Hồng mà con gái của bác Lập Giao đã giữ lại cho tôi. Lá thư gồm hai trang giấy đánh máy gửi cho cha tôi và các cô chú tôi. Thậm chí một người không biết tiếng Trung Quốc cũng có thể thấy được đó là một lá thư toàn những lời rủa xả. Các chữ cái in đậm toàn bộ và được gạch chân một cách bức bối, cỡ chữ to quá khổ, với rất nhiều dấu chấm than, như thể những chữ cái được đánh máy nằm ngay ngắn trong các ô vuông không thể nói hết cảm xúc của ông ta. Chữ viết tiếng Trung Quốc không hề được mong muốn sẽ thành như thế này.

Ông đã nói bao lần rằng ông sẽ không gặp chúng tôi... Thay vào đó ông dửng dưng trước nỗi thống khổ của chúng tôi và hả hê trước sự bất hạnh của chúng tôi.

Vài năm trước, tôi đã gửi một lá thư gần như là một lời thông báo sự tình nguy ngập, hy vọng rằng ông sẽ đứng ra giúp đỡ cha tôi và cha ông trong cùng thời điểm đó. Nhưng ông chẳng hề để tâm, ngoảnh mặt đi một cách tàn nhẫn trước một người đang gặp mối hiểm nguy chết người.

Nhà họ Trương ở Lục Đài tiếp tục thực hiện những hành động độc ác của quá khứ, chà đạp lên nhân quyền và gian xảo giành lấy địa vị về mình giữa chi của chính thất và chi của thê thiếp trong gia đình.

Mục đích của tôi là phục hồi lại truyền thống hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ và trách nhiệm của anh em trong nhà đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác mà ông nội và ông cố nội của chúng ta đã tạo ra. Tôi không bao giờ nghĩ rằng cha tôi cuối cùng lại bị Trừng phạt vì các ông, những người anh em ruột thịt!

Ở đầu trang hai, ông ta đề cập đến tôi:

Liệu Trương Đồng Hà vẫn còn muốn viết về lịch sử của gia đình hay không? Nó có viết về những điều này không? Nếu nó không viết, thì đó là loại lịch sử gia đình kiểu gì vậy?

Lá thư này, theo như tôi được biết qua việc nói chuyện với cha tôi, là cao trào của một chuỗi thư từ trao đổi qua lại mà hầu hết nội dung đều chỉ từ một phía. Vào cuối những năm 1990, Trương Hồng viết thư cho cha tôi. Ông ta muốn cha tôi xin Đảng Cộng sản bãi bỏ những phán quyết chính trị đối với ông nội tôi, quá trình này, gọi là pingfan (bình phản), cho phép những người đã bị đấu tố trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa phục hồi lại danh dự của mình. Dường như Trương Hồng nghĩ rằng điều này sẽ có ích cho trường hợp của cha ông ta, và ông ta đề nghị cha tôi hỗ trợ. Nhưng đó là một lời yêu cầu kỳ quái. Cha tôi tin rằng, ông nội tôi đã bị Cộng sản giết chết, vậy thì giờ đây làm sao chúng tôi có thể đề nghị Đảng đã giết ông trả lại sự trong sạch cho ông? Cha tôi đáp lại một cách lịch sự rằng ông không có hứng thú với việc đó.

Trương Hồng viết lại một lá thư đầy phẫn nộ cho cha và chú tôi. Một vài năm sau, ông ta gửi thêm một lá thư khác, buộc tội gia đình cha tôi đã gây nên đau khổ cho ông ta và không để ý đến những nỗi thống khổ mà ông ta phải gánh chịu. Ông ta thề sẽ trả thù và gửi bản sao của bức thư tới các đồng nghiệp ở trường đại học mà cha và chú tôi đang giảng dạy. “Cha cho rằng Trương Hồng cảm thấy là chúng ta không quan tâm đến ông ấy, rằng chúng ta không quan tâm đến các vấn đề của gia đình,” cha tôi nói với tôi. Ông ngừng lời rồi nói thêm: “Mà có lẽ là đúng như thế.”

Trương Hồng đã dành hàng năm trời để nghiên cứu lịch sử của gia đình. Ông ta đã được đưa tới sống ở Lục Đài trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, nơi ông ta lần đầu gặp rất nhiều người họ hàng. Ông ta đã xem các tài liệu lưu trữ của Đảng Cộng sản.

Ông ta đã phỏng vấn vị giám đốc đã nghỉ hưu của mỏ than Phủ Thuận, nơi ông nội tôi đã bị giết chết. Ông ta có những bức ảnh về nhà thờ họ trước khi nó bị đốt cháy và sơ đồ mô tả bố cục của các tòa nhà.

Càng biết về Trương Hồng nhiều chừng nào, tôi càng nhận ra rằng cần phải nói chuyện với ông ta. Ông ta là nhà sử học chân chính trong gia đình tôi, dù cho ông ta có bị thần kinh vì quá khứ ám ảnh. Ông ta có tư liệu và các bức ảnh, ông ta đã thực hiện nghiên cứu. Là kẻ đến sau và là một người nghiệp dư, tôi sẽ không bao giờ biết được những gì ông ta biết. Ý nghĩ gặp ông ta khiến tôi kinh sợ.

Lá thư cuối cùng Trương Hồng gửi cho gia đình chúng tôi là vào năm 2004, khi tôi vẫn còn là phóng viên tác nghiệp tại Bắc Kinh. Lúc ấy tôi vẫn chưa về thăm quê hương, hoặc nghĩ về việc viết lịch sử gia đình. Tuy vậy trong lá thư của ông ta, Trương Hồng dường như đã biết về dự định tương lai của tôi.

Liệu Trương Đồng Hà vẫn còn muốn viết về lịch sử của gia đình hay không? Nó có viết về những điều này không?

***

Người Trung Quốc ngày nay có một mối quan hệ phức tạp với quá khứ của họ. Bề ngoài, họ tự hào về quá khứ của mình - người Mỹ nên nhớ rằng Trung Quốc có năm nghìn năm lịch sử - tuy nhiên họ vẫn e ngại việc tìm hiểu sâu xa hơn mức độ một bộ phim truyền hình về thời nhà Thanh. Tại sao một nền văn minh lớn đến như vậy lại sụp đổ quá nhanh chóng khi phải đối đầu với phương Tây? Điều gì đã khiến mọi người sẵn sàng trở nên thù địch với nhau - ở nơi làm việc, ở làng quê, trong gia đình - trong suốt các phong trào chính trị những năm 1950 và 1960? Và làm sao họ có thể trở lại cuộc sống bình thường sau tất cả những chuyện đó, tựa hồ như chẳng có chuyện gì xảy ra?

Câu hỏi cuối cùng là dễ trả lời nhất: thông qua sự quên lãng. Vào năm 1980, Đặng Tiểu Bình đã chỉ đạo rằng chính sử của ba mươi năm vừa qua nên được ghi chép “sơ sài thay vì chi tiết” vì mục đích đoàn kết dân tộc. Vì vậy Cách mạng Văn hóa thường được đổ cho một nhúm các lãnh đạo có tư tưởng cực đoan và vụ biểu tình tại Thiên An Môn là tác phẩm của một vài kẻ khủng bố lôi kéo và thao túng đám đông quần chúng. “Hãy để điều đó cho lịch sử quyết định,” người ta nói vậy khi bàn đến các vấn đề này - tựa như đang nói về chuyện xa xưa thay vì những sự kiện mà bản thân họ đã từng chứng kiến và tham dự vào.

Quên lãng là lựa chọn cá nhân - một thỏa thuận ngầm giữa nhiều người đối với việc để quá khứ sang một bên. Đối với những người trong gia tộc tôi đã rời bỏ đất nước Trung Quốc, tốt hơn là tiếp tục sống thay vì than khóc cho tương lai đầy hứa hẹn đã bị tước mất của ông nội tôi. Đối với những người trong gia tộc còn ở lại, tốt hơn hết là nói về Lưu Thiếu Kỳ thay vì truy vấn xem tại sao những năm tháng tươi đẹp nhất trong cuộc đời họ đã bị đem làm vật hy sinh. Việc này là dễ dàng nhất đối với những người di cư. Thoát khỏi cái bẫy của gia tộc, lịch sử, quá khứ cũng đơn giản như là thay tên đổi họ hoặc nói thật to một từ. “Thương mại quốc tế” nói như thế nào nhỉ?

Quá khứ dường như chỉ toàn những câu chuyện đau buồn. Một người đàn ông bị ám sát ở ga tàu hỏa sau chiến tranh. Một người phụ nữ bị đánh đến chết tại quê hương. Một người phụ nữ đến đền thờ và rút được quẻ bói “đại hung”. Quá nhiều đau khổ xứng đáng được ghi chép trong sử sách vào một ngày nào đó - nhưng bản năng chống lại sự tự vấn nội tâm đã ăn sâu vào trong nền văn hóa này.

Ở HUYỆN LỴ nằm gần Lục Đài, tôi đến thăm một ông già chín mươi hai tuổi tên là Quách Đức Huy. Ông có đôi mắt sáng, đôi lông mày bờm xờm, rái tai dày và dài tròn trịa như dấu hỏi: ở Trung Quốc tai to là dấu hiệu của sự may mắn. Ông Quách Huy Huệ đã từng là viên chức cảnh sát trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Mãn Châu và sau đó là chuyên viên lập pháp của Quốc dân Đảng, và ông ta biết gia tộc chúng tôi. Một viên chức địa phương đi cùng tôi và anh ta giải thích cho ông già rằng tôi là cháu gái của Trương Sân Phu. Lanh lợi như một đứa trẻ, ông hỏi: “Cháu là con gái của Trương Lập Dự hay Trương Lập Cương?”

“Ông từng đến nhà cháu chơi,” ông nói. “Nhà cháu ở Bắc Kinh, quận Tây Thành, Phấn Tử Hồ Đồng, số hai mươi lăm.” Ông đọc một mạch địa chỉ, tựa như lúc này chúng tôi có thể bắt một chiếc taxi và đi đến đó. Sau đó tôi phát hiện ra rằng ông chỉ nhớ sai ba số nhà so với địa chỉ thực - không tồi chút nào sau hơn nửa thế kỷ. Ông nhớ lại chuyến thăm nhà của gia đình tôi vào năm 1947, lần cuối cùng ông gặp bà nội và ông họ của tôi. Ông và ông họ của tôi đã làm bạn từ những năm 1930 ở vùng Lục Đài, nơi ông làm quan chức cảnh sát còn ông họ của tôi làm thị trưởng. “Ông ấy rất thân thiện và được mọi người yêu mến. Đó là lý do tại sao ông ấy không hề gặp phải vấn đề gì cả sau thời kỳ cách mạng.”

“Ông cháu có quay lại trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa,” tôi nói. “Ông có gặp ông ấy không ạ?”

Ông già lắc đầu. “Sau đó ta không gặp lại ông ấy nữa.”

Vào năm 1954, ông Quách bị buộc tội làm gián điệp cho Đài Loan trong chiến dịch “Thanh trừ các thế lực phản cách mạng”. Ở tỉnh Cam Túc miền Tây Bắc, ông bị cầm tù trong một nhà kho tọa lạc sau nhà máy sản xuất ô tô. Ông dành cả ngày đọc báo, chăm nom các cây táo và đào - ông ở đó trong hai mươi năm.

Khi quay trở lại thành phố vào năm 1975, ông đã ở độ tuổi về hưu. “Bây giờ nhà nước chăm sóc ta,” ông nói. Tôi hỏi ông già bí mật sự trường thọ của ông. “Ta ăn thịt, nhưng ta không ăn thịt mỡ,” ông nói. “Hồi chưa đến tám mươi tuổi, hằng ngày ta đều chạy bộ nửa tiếng đồng hồ. Bây giờ ngày nào ta cũng đi bộ. Nhưng vấn đề quan trọng nhất là suy nghĩ. Suy nghĩ phải phóng khoáng. Khi điều gì đã là quá khứ, đừng lo lắng gì về nó nữa. Cháu phải luôn nghĩ về mặt tích cực của vấn đề.”

***

Mùa thu năm đó, tôi trở lại quê nhà. Ngô đang chín trên cánh đồng và cao hơn đầu người, một tháng tới sẽ là thời điểm thu hoạch. Tôi đã quay lại bởi vì nghĩ rằng điều không hoàn toàn chính xác là không còn người họ Trương nào ở đó nữa. Sau chuyến viếng thăm của tôi, một người họ hàng tên Trương Đồng Hiến sống ở thị trấn gần đó đã nghe tin về tôi và liên lạc với tôi. Anh ta gặp tôi ở chợ của thị trấn gần làng. Đồng Hiến có gương mặt dài đẹp trai và mặc một bộ com-lê màu đen sọc nhỏ trang trọng - tựa như một nhà truyền giáo ở phương Tây thời xưa, ngoại trừ cặp kính màu và chiếc xe máy màu đỏ. Anh dạy ở trường tiểu học.

Đồng Hiến đưa tôi quay trở lại nhà anh, nơi anh và vợ trồng trọt hai mẫu ngô, hai con gái của họ đi học ở thành phố. Tôi ngồi xuống kháng(29), loại giường truyền thống phổ biến ở các làng quê phía Bắc Trung Quốc, và anh đặt cuốn sách vào tay tôi. Đó là phả hệ của gia tộc tôi, được biên soạn dưới sự chỉ đạo của ông cố nội tôi vào năm Dân quốc thứ mười hai, năm 1923. Cuốn sách được buộc dây ở ngoài. Nó có các vết ố nước ở bìa, mép các trang giấy mềm và xơ ra. “Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, cha tôi đã bọc nó bằng nilon và chôn xuống đất,” Đồng Hiến kể lại.

(29) Kháng (kang): một loại bục hình chữ nhật xây trên nền đất dùng làm chỗ ngủ, thường thấy ở các làng phía Bắc Trung Quốc. Kháng gồm ba phần: một bếp lò, giường và một ống khói. Hơi nóng từ lò được dẫn qua các ống khói nằm dưới chiếc giường và khói thoát ra ở miệng ống. Bề mặt của giường kháng là đất nung và chiếc chiếu rơm to được đặt lên trên để làm giảm sức nóng và tránh bị bẩn. Một tấm chăn bông chăn dày là lớp phủ thứ hai, tiếp theo là chăn nhồi bông và ga trải giường.

Cuốn phả hệ truy nguyên gia tộc tôi đến mười một đời tới những vị tổ tiên đã chuyển tới Mãn Châu. Một phiên bản cập nhật, từ năm 1993, đã mở rộng phạm vi thêm ba thế hệ nữa. Đồng Hiến đã tham gia vào việc chỉnh lý này, đó là phiên bản của cuốn phả hệ đã bị lấy đi khỏi quê và đưa cho cha tôi.

Tôi hỏi Đồng Hiến mục đích của việc biên soạn cuốn phả hệ này là gì.

“Nó dùng để xử lý các mối quan hệ trong gia tộc.” Anh ta nhỏ giọng đáp.

“Một vài người” - anh đọc tên một làng - “lấy người trong họ. Đây là điều mà cô không nên ghi vào làm gì.”

“Họ không biết họ là họ hàng à?” Tôi hỏi.

“Họ không rõ lắm về điều đó,” anh trả lời, “và họ không được giáo dục tử tế. Điều này là lý do tại sao phải giáo dục cho thế hệ trẻ.”

Anh rút ra một chiếc hộp các tông. Trong chiếc hộp có những bức ảnh, thư từ, bản vẽ thái ấp của gia tộc tôi và ngôi đền mà anh đã vẽ lại dựa trên việc thu thập các lời mô tả của những người già trong làng. Bản vẽ thể hiện các căn phòng ở trung tâm là chỗ ngủ của mọi người trong gia tộc, các kho ở hai bên là nơi ở của người hầu. Các ký hiệu được đánh dấu chỉ ra chỗ của bồn rửa mặt, các bài vị bằng đá, và các khẩu súng Mauser được đặt ở bốn góc sân - quá chi tiết, được biên soạn hết sức cẩn thận và góp nhặt từng chút một. Đồng Hiến còn đưa cho tôi một tài liệu hai mươi ba trang về lịch sử gia đình mà anh đã viết lại, tổng kết tất cả những gì anh biết được.

Cũng vào ngày hôm đó tôi hiểu được định mệnh của cha bác Lập Giao, Trương Phượng Ân. Ngay sau khi các cuộc tấn công chính trị bắt dầu, bác Lập Giao đã đưa cha quay lại Lục Đài để được an toàn - ông tin rằng ngôi làng là một nơi ẩn náu truyền thống. Đó là một tính toán sai lầm. Hồng vệ binh đang tiến đến vùng nông thôn Trung Quốc, và họ đem theo các sách lược tàn bạo của đấu tranh giai cấp. Cha của bác Lập Giao đã thoát được các cuộc tấn công này trong thời kỳ cải cách ruộng đất những năm 1940. Giờ đây ông sẽ hiểu rằng đôi khi những người biết bạn lâu nhất lại là những người có lý do để ghét bạn nhất.

Là một cậu bé tám tuổi, Đồng Hiến đã chứng kiến mọi chuyện.

Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, bác Lập Giao bị quy chụp chính trị xấu xa và bị đưa về nông thôn. Ông Phượng Ân quay trở lại Lục Đài sống trong nhà của cô cháu họ.

Vào năm 1969, hai đội công tác tới Kỳ Tháp Mộc. Đó là mùa hè. Họ ra lệnh đưa ông Phượng Ân đến. Có câu tục ngữ rằng, Mỡ dâng đến miệng mèo(30). Ông Phượng Ân là mỡ, đội công tác kia là những con mèo.

(30) Tiếng Anh trong nguyên bản: When you throw a meat bun at a dog, it is gone forever (Khi bạn ném miếng thịt cho chó, là mất luôn miếng thịt).

Đêm hôm đó, ông treo cổ tự tử trên cây.

Trước đó, ông đã bị đấu tố. Họ giải ông đi khắp làng, trên đầu ông phải đội mũ chóp nhọn. Một trong những người đấu tố ông chính là Trương Lập Cách.

Tôi biết cái tên này. Trương Lập Cách là người họ hàng mà cha mẹ tôi đã gặp khi họ về thăm làng năm 1995. Họ đã làm khách trong nhà ông ta và tỏ ra kính trọng ông ta, vì ông ta là người duy nhất của gia tộc còn sống tại đó. Vậy là người đàn ông này đã tố cáo cha của bác Lập Giao và góp phần đẩy ông vào chỗ chết.

Trương Lập Cách rất lười biếng. Cả đời ông ta chẳng chịu làm gì cả. Ông Phượng Ân đã giúp ông ta tổ chức đám cưới mà ông ta không phải trả chi phí gì. Rồi trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, Trương Lập Cách lại buộc tội ông. Bạn làm ơn cho ai đó và đây là cách hắn trả ơn bạn. Trương Lập Cách và những người khác hô to các khẩu hiệu: Đả đảo Trương Phượng Ân! Đả đảo bọn địa chủ!

Lúc đó tôi đang đứng bên rìa đám đông và tôi nhìn thấy cảnh tượng đó. Tôi òa khóc. Ông Trương Phượng Ân thường đến nhà chúng tôi, và tôi mến ông ấy. Chúng tôi gọi ông là chú Sáu.

Tôi thấy ông bò trên sân trường học bằng tay và đầu gối. Điều tồi tệ nhất tôi thấy là việc đó xảy ra ngay trước mắt nhân dân Lục Đài. Ông bị đánh đến mức lưng nhuộm toàn máu đỏ. Đó là ngày tồi tệ nhất.

Lúc đó tôi chỉ là một đứa trẻ. Nhưng không người lớn nào đứng đó dám đứng ra nói điều gì. Nếu bạn nói, bạn sẽ gặp rắc rối.

Trước khi tôi đi, Đồng Hiến nói rằng anh có một thứ muốn cho tôi xem. Anh đưa tôi đi bằng xe máy đến một ngôi nhà xây bằng gạch đơn sơ của một người nông dân là người bà con xa trong họ. Ở chân cửa trước có hai khối cẩm thạch lớn khác thường - những viên đá ở nhà thờ họ của chúng tôi. Khi tòa nhà bị phá hủy trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, ông lão sống ở đây đã bỏ trốn và mang những thứ này về nhà. Chôn vùi trong đám bùn của sân nhà người nông dân là tất cả những gì còn lại của ngôi nhà gia tộc - hai tảng đá, trơn nhẵn và trắng tinh tựa như các cây cột trong một đền thờ Hy Lạp. Mỗi tảng đá được khắc chữ shou (thọ), có nghĩa là “sống lâu”.

***

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3