Gái công xưởng - Phần II - Chương 11 phần 1

11. Nhà sử học
trong gia tộc tôi

Vào mùa xuân năm 2005 tôi về thăm quê nhà nơi tổ tiên của
tôi từng sống. Người Trung Quốc gọi dây là huijia (hồi gia), quay
về nhà, cho dù bạn đến một nơi bạn chưa từng đến bao giờ. Cha tôi sáu mươi tuổi
khi ông lần đầu quay về Lục Đài. Tôi đã sống ở Trung Quốc bảy năm, trong suốt
thời gian đó tôi cố gắng cưỡng lại lực kéo của quê hương. Nhưng có điều gì đó
từ chuyến đi cùng Mẫn về thăm nhà khiến tôi muốn đến thăm nơi bắt nguồn của gia
đình mình. Đã chín mươi năm kể từ khi ông nội tôi rời Lục Đài, và tôi không
chắc rằng làm thế nào mà cái chết của ông lại diễn ra tại nơi này. Tôi thậm chí
còn không biết nên nghĩ thế nào về hồi gia: quay về nhà là bổn phận
hay là quyền lợi, liệu nó có ý nghĩa gì không sau một khoảng thời gian dài như
thế.

Đường về Lục Đài một bên là hàng cây bu lô lá óng ánh màu
bạc, tựa như khung cảnh trong tiểu thuyết của Tolstoy, một bên là những cánh
đồng đất đen đã được bón phân trải dài đến tận đường chân trời. Còn hai mươi
ngày nữa là đến vụ gieo hạt mùa xuân. Từ cửa sổ ô tô tôi nhìn thấy nông dân
dùng bò cày ải lật đất, một số người đốt những đống vỏ ngô trên cánh đồng,
những đốm lửa rực sáng trên suốt cánh đồng. Đây là vùng thảo nguyên Mãn Châu đã
thu hút những vị tổ tiên đầu tiên của tôi đến lập nghiệp tại nơi này, nhưng tôi
không thể mường tượng được cái thế giới từ thời nhà Thanh ấy. Thay vào đó tôi
nghĩ đến những cuốn truyện kiểu Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên
tôi đã từng yêu thích khi còn nhỏ - đó là hình ảnh đã xuất hiện trong đầu tôi,
nhưng nó sai lệch hoàn toàn về cốt lõi. Những người nông dân Trung Hoa thời nhà
Thanh không bao giờ viết những cuốn sách như vậy. Thậm chí ngay cả thời nay,
hầu hết những người Trung Quốc đều không tin rằng lịch sử của một gia tộc tiên
phong đi khai khẩn đất hoang lại đáng được kể lại.

Con đường hẹp dần lại, đi qua một vũng bùn, và đột ngột bị
chặn lại ở chỗ một cây chổi đặt ngang đường trên lưng hai cái ghế. Một bà già
đòi tiền mãi lộ. Đây là chuyện thường gặp ở vùng nông thôn - một trạm thu phí
tạm thời, hoạt động dưới quyền lực to lớn của đói nghèo và sự ương ngạnh.

“Hãy để chúng tôi qua đi,” người lái xe nài nỉ. “Chúng tôi
đã vất vả cả ngày trời rồi.”

Bà già vẫn không hề mềm lòng. “Tôi bị què chân đây này,” bà
ta nói. “Tôi cũng phải chịu đau đớn đấy chứ.” Tôi đưa cho bà ta một nhân dân
tệ, tương đương với mười hai xu Mỹ, và cái chổi được nhấc lên.

Những ngôi nhà đầu tiên của Lục Đài nằm rải rác xuất hiện
trong tầm mắt. Tôi chỉ biết mỗi một cái tên, Trương Lập Cách. Khi cha mẹ tôi về
thăm quê năm 1995, họ đã tình cờ gặp người họ hàng xa này và được ông ta mời về
thăm nhà.

“Cho hỏi ông Trương Lập Cách còn ở đây không?” Tôi hỏi một
thanh niên đang đứng bên vệ đường. Câu hỏi này có nghĩa là: Ông ấy còn sống
không?

“Ông ấy không còn nữa,” người thanh niên đáp, “nhưng bà vợ
ông ấy vẫn còn đấy.” Cậu ta chỉ đường cho tôi. Hai phụ nữ trẻ ở độ tuổi hai
mươi mở cửa; họ mang vẻ đẹp của miền Bắc Trung Quốc, vai rộng và xương to, gò
má ửng đỏ vì gió. Họ đưa tôi lên đồi đến thăm ngôi nhà của bà bác.

Thẩm Tịnh Chi tám mươi ba tuổi, bà sống cạnh khu thái ấp của
gia đình chúng tôi khi còn trẻ. Ngay khi hiểu ra tôi là ai, bà bắt đầu nói một
cách dữ dội với tôi bằng chất giọng địa phương nằng nặng, lợi bà lặng lẽ siết
lại trong khoảng lặng giữa các từ. Gương mặt của bà gầy và đầy nếp nhăn, tựa như
da dê, với đôi mắt kèm nhèm. Tôi không hề hiểu bất cứ thứ gì bà nói. Một người
họ hàng ít tuổi hơn, người đàn ông trạc ngũ tuần có gương mặt vuông đẹp trai,
dịch từ tiếng địa phương sang tiếng phổ thông.

“Những bức tường ở chỗ này. Ta sống ở bên kia bức tường,” bà
già kể, đôi tay xương xẩu phác ra một khu hợp viện đã biến mất từ sáu mươi năm
trước. “Mặc dù gia đình cô là gia đình quan lớn, họ luôn luôn hồ hởi khi nhìn
thấy chúng tôi, dù cho chúng tôi có địa vị thấp kém hoặc quần áo rách rưới.”

Tôi hỏi liệu bà có nhớ ông nội tôi, hay anh của ông, hay cha
của họ hay không. Mỗi khi tôi đọc lên một cái tên, bà lắng nghe rồi lắc đầu.
“Bọn họ luôn ở Bắc Kinh,” bà nói.

Nhưng người đàn ông ít tuổi hơn, có cái tên là Thẩm Chân
Pháp, biết mọi thứ. Ông biết rằng cha tôi sống ở Mỹ và từng làm việc trong một
trường đại học tại Hồng Kông, tôi có họ hàng ở Cáp Nhĩ Tân. Ông ấy biết một
người họ hàng tên là Trương Hồng và nói rằng sẽ lấy số điện thoại của ông ta
cho tôi. Ông biết về ông nội tôi. “Ông ấy là một người xuất sắc,” Thẩm Chân
Pháp nói. “Ông muốn làm điều gì đó cho đất nước Trung Quốc, vì vậy ông đã chết
ở mỏ Phủ Thuận.”

Tôi hỏi Thẩm Chân Pháp làm sao ông biết nhiều như vậy về gia
đình tôi.

“Khi cha tôi còn sống, ông nói rất nhiều về những chuyện
lịch sử đó,” ông đáp. “Cha tôi đã từng làm việc cho gia đình cô. Ông chăn lợn
và cừu.”

Thẩm Chân Pháp cũng nhớ chuyến về thăm của cha tôi. Một thập
kỷ trước, sự kiện đó dường như còn được nâng tầm ảnh hưởng lên nhiều. “Ông ấy
đi cùng một người nữa, tôi nghĩ là người của chính phủ. Ông ấy có đôi vai rộng.
Có đúng thế không?”

“Không hẳn thế,” tôi nói. Cha tôi người mảnh khảnh, ông ấy
có đôi vai của một bác sĩ phẫu thuật Trung Quốc.

“Vai rộng,” Thẩm Chân Pháp khẳng định, “và mắt to. Đúng
không?”

Đúng là như vậy - cha tôi có đôi mắt to.

“Sau khi cha cô đến, nhà thờ họ bị thiêu hủy.”

Bà lão nói rằng các viên chức nhà nước đã đến và lấy đi cuốn
gia phả, cuốn sổ ghi chép lịch sử gia tộc tôi từ cách đây ba trăm năm. Bà bị ám
ảnh bởi sự mất mát này. “Không có gia phả,” bà nói, “thật nguy hiểm vì những
người họ hàng ở các thế hệ khác nhau có thể sơ suất mà lấy phải nhau.”

Sau chuyến viếng thăm của cha mẹ tôi, các viên chức nhà nước
tháp tùng họ đã quay lại ngôi làng, lấy đi cuốn gia phả, và gửi cho cha tôi ở
nước Mỹ. Tôi nói với bà lão rằng tôi có thể gửi cho bà một bản sao.

“Không cần đâu,” một trong số mấy người đàn bà trẻ tuổi hơn
trả lời thay. “Bây giờ không còn người nhà họ Trương nào ở đây nữa.”

TÔI TỪNG HÌNH DUNG RẰNG sẽ có một ngôi làng gồm toàn những
người có cùng cái mũi và đôi mắt giống mình, và tôi từng nghĩ rằng mọi người sẽ
đều có cùng một họ với mình. Nhưng tất cả bọn họ đã ra đi từ lâu lắm rồi. Ngôi
mộ của ông cố nội tôi, nằm trên một sườn đồi nhìn xuống ngôi làng, đã bị đào
lên và phá hủy trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Nhà thờ của dòng họ đã bị thiêu
hủy, nhưng ông Thẩm vẫn đề nghị đưa tôi bằng xe máy đến nơi xưa kia là ngôi từ
đường. Khi chúng tôi chuẩn bị đi, bà lão đứng dậy và nắm lấy tay tôi, có vẻ xúc
động. Bà vẫn nghĩ về cách xưng hô đúng đắn giữa những người ở các thế hệ.
“Nhưng ta sẽ gọi cô là gì?” Bà hỏi. “Và cô sẽ gọi ta là gì đây?” Tôi nắm tay bà
nói lời từ biệt.

Chúng tôi đi nhanh xuyên qua ngôi làng trên chiếc xe máy của
ông Thẩm. Những ngôi nhà của Lục Đài nằm giữa những ngọn đồi uốn lượn, các ngôi
nhà nằm cách xa nhau và quay ra các hướng khác nhau, tựa như một nắm xúc xắc
được quăng xuống thung lũng này. Bên cạnh những nếp nhà tranh cũ kỹ xây bằng
gạch và bùn là những ngôi nhà mới hơn được lát gạch men trắng; nhiều thanh niên
trẻ tuổi trong làng đã ra ngoài làm việc hoặc chuyển ra thành phổ”. “Làng đã
thay đổi nhiều trong những năm gần đầy,” ông Thẩm nói.

Những ngôi nhà thưa thớt dần. Chúng tôi leo lên con dốc dẫn
đến một cánh đồng mà vỏ ngô vẫn còn ngập đến tận mắt cá chân kể từ vụ thu hoạch
năm ngoái. Những bức tường đã từng bao quanh nhà thờ họ vẫn còn đó, ở ba phía
của cánh đồng - phần dưới xây bằng đá, phần trên xây bằng bùn. Những gì còn lại
của những bức tường này cao khoảng 1,2 mét. Nằm ngoài bức tường, trải dài đến
tận đường chân trời, là những cánh đồng ngô.

Khu vực này giống như một phế tích cổ - Karakorum, thủ đô
của Mông cổ vào thế kỷ thứ mười ba - chứ không phải là thứ vừa mới được xây
dựng chỉ cách đây chừng một thế kỷ. Nơi này cũng không lâu đời hơn ngôi nhà xây
vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ ở San Francisco, nơi anh trai tôi
sống. Có lẽ là vì mặt đất bị che phủ quá nhiều, và có quá nhiều người ra đi,
nên có cảm tưởng rằng nó đã có từ thật lâu đời.

Tôi chỉ vào những chiếc vỏ ngô. “Ai đã trồng ngô ở đây thế?”

“Chúng tôi cho một gia đình hàng xóm canh tác trên mảnh đất
này,” ông Thẩm nói một cách lo lắng, tựa như tôi có thể đột nhiên đòi quyền
thừa kế đối với mảnh đất này. Chúng tôi đứng im lặng nhìn mảnh đất có gió thổi
qua xào xạc. “Đã từng có ba mảnh sân trong,” ông Thẩm nói. “Những người lớn
tuổi kể lại rằng khi trời mưa cô có thể đi từ đầu đến cuối mà không bị ướt.” Đó
là cách ông mô tả nơi này đã từng rộng lớn như thế nào.

Có lẽ không thể viết về lịch sử của một nơi nhỏ bé trên đất
nước Trung Quốc, bởi vì tất cả những người có tài hoặc có tham vọng đều đã ra
đi cả. Lịch sử diễn ra ở một nơi khác. Khi cuối cùng tôi đã quay trở về quê
hương, chẳng còn ai ở đó đón tôi - chỉ có một bà lão với một ít ký ức và một
người đàn ông có cha từng chăn lợn và cừu cho gia tộc tôi. Gia tộc tôi đã phân
tán ở trên khắp xứ Mãn Châu, trên toàn thế giới. Với những người còn ở lại, chỉ
còn một vài mảnh quá khứ còn sót lại. Những thứ đó không đủ để kể một câu
chuyện. Những điều mà ông Thẩm kể lại toàn là những điều tôi đã biết, tức là
ông cũng chỉ biết những điều về lịch sử gia tộc giống như tôi mà thỏi.

Tôi cũng không cảm thấy buồn. Tôi đã chờ đợi một thời gian
dài để tới được nơi này, và giờ đây tôi đã hiểu ra một điều. Tân Phát
Nguyên, một nơi tốt đẹp
: giờ đây tôi là hiện thân của từ này. Một gia tộc
không phải chỉ là một mảnh đất. Nó chính là những con người thuộc về gia tộc
đó, là những sự kiện tạo nên cuộc đời họ. Thỉnh thoảng những sự kiện này sẽ
được gom lại - đó là vai trò của tôi hiện giờ. Gia tộc tôi là cả một câu
chuyện, không phải là một địa điểm, và ở tại Lục Đài này tôi có thể thấy được
mục đích của việc viết ra câu chuyện này.

Tôi chỉ mới ở trong làng một tiếng đồng hồ, nhưng đã đến lúc
phải đi. Thẩm Chân Pháp đưa tôi quay trở lại nơi xe taxi đang đợi. “Sau này khi
cô quay trở lại đây,” ông nói, “cô cứ đến thẳng nhà tôi.” Những lời không nói
ra trong lời mời của ông là: Bởi vì cô chẳng còn gia đình quyến thuộc ở
đây nữa.

***

Chẳng còn người nhà họ Trương ở đây nữa, người phụ nữ
trẻ tuổi ở quê hương tổ tiên tôi đã nói như vậy. Người họ hàng gần nhất của tôi
ở Trung Quốc là gia đình của bác Lập Giao, người bác họ đã lớn lên cùng cha
tôi. Vào mùa hè năm đó, ba tháng sau chuyến đi của tôi tới Lục Đài, tôi đến gặp
họ lần đầu tiên ở Cáp Nhĩ Tân, một thành phố Mãn Châu cách biên giới nước Nga
khoảng ba trăm kilômét.

Họ đã ở lại đằng sau và chịu nhiều đau khổ, và có phần là vì
chúng tôi. Việc sở hữu đất đai trong quá khứ của gia đình tôi đã khiến bác Lập
Giao trở thành kẻ thù giai cấp và vợ chồng bác cùng với hai người con trai bị
kết án đi lao động tại nông thôn trong cả một thập kỷ. Việc gia đình cha tôi
đến Đài Loan còn làm mọi việc trở nên tồi tệ hơn - trong thời kỳ Cách mạng Văn
hóa, mối liên hệ gia đình đó khiến gia đình bác Lập Giao bị coi là gián điệp.

Khi tôi tới thăm, cả gia đình tập trung trong căn hộ ba
phòng ngủ của con gái bác Lập Giao. Ba người con của bác Lập Giao cùng thế hệ
với tôi nhưng đều đã ở độ tuổi ngũ tuần. Người anh cả cao và chắc nịch, đeo đôi
kính gọng đen dày cộp gợi tôi nhớ đến Giang Trạch Dân, người anh thứ hai gầy
hơn một chút, xương quai hàm hẹp dần thành một điểm nhọn ở cằm. Tôi nhận ra
những đặc điểm đó - gương mặt của cha tôi. Hai anh em họ gặp tôi mà chỉ mặc áo
may ô và nói chuyện như những người công nhân, đệm vào những từ tamade
(tha mụ đích)
, một từ đệm đa năng, có nghĩa là “fucking” trong tiếng Anh.
Họ đang học trung học cơ sở khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu, và trong suốt thập
kỷ đó họ bị đưa đi cải tạo ở nông thôn. Khi họ lần đầu quay trở lại thành phố,
người anh kiếm được việc ở một nhà máy sản xuất lò xo còn người em làm việc ở
một nhà máy xẻ gỗ. Ân Kiều, cô em út, thuộc về một giai cấp khác. Chị đã tốt
nghiệp trung học cơ sở vào năm 1971, sau giai đoạn triệt để của Cách mạng Văn
hóa, nên không phải đi về nông thôn như các anh mình. Chị còn lấy được bằng phổ
thông trung học, và bây giờ chị giữ một chức vụ quản lý cấp cao ở trường đại
học. Giống như nhiều gia đình Trung Quốc khác, thứ tự ra đời đã xác định số
phận của các con bác Lập Giao.

Vợ của bác Lập Giao, bà Chu Thư Lan, đưa tôi vào một phòng
ngủ. Một ông già nằm trên giường, bất động, một con mắt hé mở. Mặt ông sưng
húp, đầu hói nhẵn thín và các cơ thịt trên mặt và cổ của ông mềm và trần trụi
như thể một quả trứng luộc kỹ vừa mới bóc. Bụng ông nhấp nhô như một cái gò nhỏ
dưới tấm ga trải giường bằng vải bông. Đó là bác Lập Giao.

“Ông ấy không nhận ra ai cả,” vợ bác Lập Giao nói.

“Ông ấy không biết gì nữa đâu,” vợ của người con trai thứ
nói. Chị ta vỗ nhẹ vào mặt ông già. “Bố có nhận ra con không?” Chị ta nói to.

Lông mày phía trên con mắt đang mở của ông khẽ nhích động.
Cả hai người đàn bà phá lên cười. Họ đối xử với ông như thể một đứa trẻ dại khờ
- giờ đây ông chỉ còn là một trách nhiệm đối với họ. Họ làm mọi thứ cho ông,
cho ông ăn thức ăn mềm, giặt ga trải giường cho ông và giám sát mức độ bình ôxy
của ông. Ông đã như thế này kể từ lần bị đột quỵ vào năm kia và đã suýt chết.

Tôi hỏi Ân Kiều liệu họ có thể thuê ai đó để giúp chăm sóc
ông ấy. “Nếu bố chị không được gia đình chăm sóc,” chị ta nói thẳng thừng, “ông
ấy đã chết rồi.”

Trong suốt cả một ngày dài mà tôi ở cùng với gia đình, ông
lão nằm trên giường. Đối với tôi thì như thế thật đáng buồn, nhưng trên thực tế
cuộc đời ông đã thắng lợi. Bác Lập Giao đã bảo vệ cả gia đình không bị ảnh
hưởng gì qua cuộc Cách mạng Văn hóa. Vào những năm 1980, ông đã giúp các con mình
xin được việc ở trường đại học nông nghiệp nơi ông làm việc, cả ba người bây
giờ vẫn đang làm việc ở đấy. Đó là thành tựu của bác Lập Giao, ở tuổi tám mươi
chín, định mệnh của ông là ra đi một cách thanh thản trên giường.

BÀN ĂN BÀY ĐẦY những món ăn trưa. Ân Kiều đã chuẩn bị chunbing
(xuân bính)
, món ăn miền Bắc ưa thích của tôi làm từ vỏ bánh xèo với nhân
là thịt trộn rau húng mà mẹ tôi luôn làm vào dịp sinh nhật tôi. Tôi kể cho họ
về chuyến thăm Lục Đài của mình - họ rất ấn tượng về việc tôi đã đến nơi đó.

“Chưa có ai trong số chúng tôi từng quay về quê hương,” Ân
Kiều nói. Cha của họ có hai người chị gái mà họ chỉ gặp đúng một lần khi còn
nhỏ. Không thành viên nào của gia đình còn ở lại làng, tôi nói, nhưng có một
người hàng xóm cho tôi số điện thoại của Trương Hồng.

Các anh chị em họ của tôi nhìn nhau. “Cô biết gì về Trương
Hồng không?” Người anh cả hỏi.

“Em nghĩ là anh ta rất giận gia đình em vì một lý do nào
đó,” tôi cẩn trọng nói. Cha tôi đã từng đề cập đến người họ hàng “điên khùng”
này.

“Ông ta có vấn đề về thần kinh!” Vợ của người con thứ thốt
lên.

Trương Hồng là người em họ đầu tiên của cha tôi. Bác Lập
Giao và cha tôi là hậu duệ của con cái người vợ cả của ông cố nội tôi, còn
Trương Hồng là hậu duệ của con cái người vợ thứ ba. Ông ta phải chịu nhiều đau
khổ vì mối liên hệ này. Năm 1957, cha ông ta bị coi là phần tử cánh hữu và mất
việc ở trường đại học tại Thẩm Dương. Suốt cuộc Cách mạng Văn hóa, cả gia đình
đã bị đưa xuống nông thôn trong cả một thập kỷ. Sau khi họ quay về thành phố,
cha của Trương Hồng đã bỏ ra hàng năm trời viết thư và đưa đơn kháng cáo để rửa
sạch tội lỗi của mình. Ông muốn Đảng Cộng sản tuyên bố rằng mình chưa bao giờ
là phần tử cánh hữu. Ông đã đề nghị, và đã thắng, về việc yêu cầu trường đại
học đền bù số lượng bị mất. Sau khi cha của Trương Hồng mất, Trương Hồng tiếp
tục việc kiện tụng. Ông ta không chỉ nghiên cứu vụ kiện của cha mình mà còn
nghiên cứu cả lịch sử của ông nội tôi và của gia đình ông nội; ông ta dành toàn
bộ thời gian rỗi để đọc báo cũ và sao lưu tài liệu. “Bất cứ nơi nào ông ta tới,
ông ta đều mang theo hai túi đựng đầy tài liệu,” vợ của bác Lập Giao kể lại với
tôi.

Tôi đã gặp loại người này - mọi phóng viên ở Trung Quốc đều
đã từng gặp. Ông ta là một người khiếu kiện, khiếu nại, chỉ chăm chăm vào việc
sửa chữa một oan sai đến nỗi mà những nỗ lực này chiếm cả cuộc đời và đưa ông
ta vào một vũ trụ riêng biệt nơi ông ta sống cô đơn. Ở Trung Quốc, sự tập trung
đầy ám ảnh ấy là cần thiết để chiến đấu với một hệ thống pháp luật được thiết
kế nhằm chôn vùi bạn trong sự quan liêu và chậm trễ. Nếu nhìn từ xa, một người
như vậy quả là đáng ngưỡng mộ, nhưng không thể chịu đựng nổi nếu đến gần. Ông
ta nói hàng giờ về “Vụ kiện 7 tháng 3” hay “Quyết định 14 tháng 12” - người ta
có xu hướng tập trung vào những ngày tháng cụ thể mà các phán quyết được đưa
ra. Nhưng những con số cứ bao trùm lên cuộc nói chuyện, chúng lặp đi lặp lại,
người đi khiếu kiện lần theo những mốc thời gian của những oan khiên mà ý nghĩa
của chúng chỉ có mình ông ta biết. Bạn muốn thông cảm với ông ta, nhưng cuối
cùng bạn chỉ cảm thấy trơ cứng vì những tài liệu và đơn kiện, sự kiện và ngày
tháng.

Lần lượt, Trương Hồng phá vỡ mối liên hệ với mọi thành viên
trong gia tộc. Ông ta gửi một lá thư đầy giận dữ cho bác Lập Giao và sau đó
không còn đến thăm nữa. Ông ta cãi nhau với bà bác của tôi ở Bắc Kinh. Ông ta
viết những lá thư đầy độc địa cho cha và chú tôi, Ân Kiều đã giữ và trao lại
cho tôi đầy miễn cưỡng - chị ngượng ngùng vì lời lẽ trong thư đầy vẻ thù địch.

“Ông ta buộc tội ông nội cô đã gây nên việc cha ông ta bị
coi là phần tử phái hữu,” Ân Kiều nói. “Một triệu người đã bị coi là phần tử
phái hữu. Tất cả chỉ tại vì họ đã biết ông nội cô hay sao? Thậm chí đến cả Chủ
tịch Lưu Thiếu Kỳ cũng không được bảo vệ nữa là một người dân thường như vậy.”
Gò má chị bừng đỏ khi nói chuyện.

“Ông ta đến gặp cha tôi nhiều lần,” người anh cả nói. “Cha
tôi luôn thuyết phục ông ta rằng: “Đã có quá nhiều người phải chịu đau khổ, đâu
chỉ có mỗi mình anh. Anh phải bỏ qua mọi việc và nhìn về tương lai.” Nhưng ông
ta không thể.”

Trương Hồng phủ một bóng đen lên ngày hôm đó. Khi gia đình
họ nói về ông ta, luôn là những lời lẽ thô bạo - ông ta có vấn đề về thần kinh!
- nhưng vẫn có cả sự kính sợ trong đó. Có thể những mối hận mà ông ta bày tỏ là
những gì mà họ vẫn giữ sâu kín trong lòng, có lẽ họ đã cố nén lại những suy
nghĩ đó để có thể sống tiếp một cách bình thường. Có lẽ họ cũng ngờ rằng ông ta
đúng.

“Ông ấy cảm thấy ông ấy xứng đáng được nhận thứ gì đó từ cha
và chú cô,” Ân Kiều nói với tôi, hết lần này đến lần khác. “Ông ấy đã chịu đựng
quá nhiều đau khổ trong suốt ngần ấy năm chỉ vì quan hệ họ hàng với ông nội cô,
và giờ đây ông ấy thấy rằng gia đình cô nợ ông ấy điều gì đó. Nhưng gặp được cô
là chúng tôi đã thấy mừng rồi.”

Lắng nghe họ nói chuyện, tôi nhận ra rằng thật ngạc nhiên
khi không có nhiều người như Trương Hồng ở Trung Quốc. Hầu hết những người bạn
gặp ở một độ tuổi nhất định đã mất đi nhiều năm trời vì các chiến dịch chính
trị, nhiều người vẫn đang phải trả giá cho sức khỏe kém, hoặc thất học, hoặc
các thành viên trong gia đình không còn. Nhưng đáng ngạc nhiên là sự thiếu vắng
của nỗi cay đắng. Khi bạn hỏi về những trải nghiệm cá nhân, mọi người có xu
hướng lùi lại thành một giọng mang tính tập thể. Có rất nhiều người
phải đau khổ
- như thể điều đó hợp lý hóa mọi việc. Các anh em họ của
tôi luôn viện dẫn Lưu Thiếu Kỳ, người từng là Chủ tịch nước của Trung Quốc và
là người kế thừa chính thức của Mao. Ông đã phải chịu đựng hai năm bị đánh đập
và đấu tố. Mặc dù ông có địa vị cao nhưng ông đã chết trong một nhà tù ở tỉnh
Hà Nam vào năm 1969. Tầm quan trọng của người đàn ông này, và kết cục bi thảm
của ông, đã ảnh hưởng sâu sắc đến những người họ hàng của tôi. Dường như họ coi
ông là một vị Chúa Jesus của Trung Quốc, với một đức tin hư vô ngoan cố: Bởi vì
Ngài còn qua đời theo lối đó, chuyện của ngươi phỏng có nghĩa lý gì kia chứ?

Trương Hồng lại khác. Ông ta giận dữ vì những gì mình đã mất
và không thể bỏ qua điều đó, ông ta cư xử như thể những nỗi đau đớn của cá nhân
là quan trọng. Ông ta dám coi nỗi đau đớn của mình ngang với nỗi đau đớn của
Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ. Câu chuyện của Trương Hồng có tính chất quan trọng
và ông ta kiên quyết kể nó. Trước đó tôi luôn luôn tự hỏi rằng tại sao không có
nhiều người giận dữ trước những tổn thương mà Cách mạng Văn hóa đã gây ra. Thì
đây là một người như vậy, và ông ấy là người trong gia tộc.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3