Gái công xưởng - Phần II - Chương 10 phần 3

Trung tâm của đời sống trong làng là chiếc ti vi. Bọn trẻ ngồi trước ti vi cả ngày; nếu bạn đến thăm một người hàng xóm, bạn thường sẽ được dành cho chỗ gần màn hình nhất nơi bạn có thể bắt gặp một tập phim mà bạn đã xem ở đâu đó. Thể loại ưa thích của mọi người là phim truyền hình cổ trang về cuộc sống trong cung đình. Những bộ phim truyền hình dài tập này là mối liên kết chủ yếu của dân làng với lịch sử, mặc dù chúng chỉ kể về một giai đoạn nào đó trong quá khứ. Phù thủy, thần tiên, pháp thuật, nghi lễ, phép màu, án mạng, đều là những thứ bọn trẻ bị mê hoặc. Trong khi Đảng Cộng sản tuyên truyền về đạo đức, chủ nghĩa duy lý, và tiến bộ khoa học, thì hầu hết các chương trình giải trí đều đi ngược lại những điều này.

Trẻ em đứng giữa hai thế giới, ngôi làng và thế giới tưởng tượng bên trong các món đồ điện tử của chúng. Chúng có thể giúp mẹ giặt quần áo ở bờ sông rồi lại tập trung vào máy chơi xếp hình cầm tay. Thỉnh thoảng chúng trông như có vẻ vừa mới hạ cánh xuống trái đất từ hành tinh Truyền hình. Khi tôi lấy máy ảnh ra để thay phim, em họ chín tuổi của Mẫn lại gần để xem. “Phim trông như thế nào ạ?” Bé hỏi. “Trông có giống như trên truyền hình không ạ?”

Mọi người đều có họ hàng với nhau, theo những cách lòng vòng mà thậm chí tiếng Trung Quốc không có tên để đặt cho những mối quan hệ đó. Có một người đàn ông đến thăm gia đình Mẫn là con rể của em trai ông nội cô; một hôm khác, chúng tôi đến thăm chị em ruột của con dâu của anh trai của ông nội cô và cha của họ. Tôi cứ nghĩ bọn trẻ ngồi xem truyền hình liên miên trong nhà Mẫn là lũ trẻ hàng xóm, nhưng một hôm chúng tôi đi thăm bà dì của cô ở làng khác và tôi cũng thấy những đứa trẻ đó ngồi xem truyền hình: chúng là họ hàng với nhau. Một chàng trai trẻ sống bên cạnh làm việc ở một nhà máy giày tại Ôn Châu thường xuyên đến chơi nhà khiến tôi chắc mẩm rằng anh ta say mê Mẫn. Tôi đang định chia sẻ ý nghĩ này với cô thì phát hiện ra: anh ta là anh em họ của cha Mẫn.

Những người dân trong làng cư xử với tôi theo nhiều cách khác nhau. Những người đang làm việc ở thành phố bắt chuyện, hỏi tôi về Bắc Kinh và nước Mỹ, họ nhòm vào cuốn sổ ghi chép của tôi và cố gắng giải mã chữ viết tay của tôi. Những người ở làng, bao gồm cả cha mẹ Mẫn, lịch sự nhưng rụt rè - trong khi họ sẵn sàng trả lời câu hỏi của tôi, họ không bao giờ hỏi tôi điều gì cả. Không có người đàn ông lớn tuổi nào nói chuyện với tôi. Là một phụ nữ trẻ và là người ngoài, hai điều đó khiến tôi hoàn toàn không liên quan gì đến họ.

Tôi không bao giờ thấy có ai đọc báo hoặc xem tin tức thời sự buổi tối, và có rất ít dấu hiệu chứng tỏ sự hiện hữu của chính quyền. Trong hai tuần sống tại nhà Mẫn, tôi không hề gặp một viên chức nào, luật pháp dường như cũng khá lỏng lẻo. Trên toàn quốc, chính sách giới hạn hầu hết các gia đình chỉ có một hoặc hai con đã được thi hành trong hơn hai thập kỷ, tuy nhiên ở ngôi làng này trung bình mỗi gia đình có nhiều hơn hai con, cha Mẫn nói. Gia đình họ Lỗ có năm con, nhưng một gia đình khác trong làng có những sáu con, và một gia đình khác có bảy con. Người đàn ông là cha của bảy đứa con thậm chí còn là trưởng làng, một trong những vị trí cao nhất tại địa phương.

MẪN DỄ DÀNG HÒA MÌNH TRỞ LẠI thế giới này, nhưng cô vẫn giữ những bí mật của mình. Cô không hề nói gì về bạn trai của mình ở nhà máy, và tôi nhận thấy rằng cô không tham gia vào câu chuyện mỗi khi thấy nó không phù hợp với mình. Cô tự lên kế hoạch đi thăm bạn bè, đôi lúc trái ý mẹ cô; cô nói gay gắt với những người họ hàng lớn tuổi hơn mà mình không ưa. Tôi chưa bao giờ thấy cô làm điều mình không muốn. Một bà thím yêu cầu Mẫn đưa cô con gái mười bốn tuổi của bà ta đến làm việc tại nhà máy, nhưng Mẫn từ chối thẳng thừng. Một buổi sáng khác, một ông bác xuất hiện sau bữa sáng và tựa như một tên lửa tầm nhiệt, nhắm vào cái áo khoác trượt tuyết mà cha cô đang mặc. Đó là quà của Mẫn tặng cha.

“Cái áo này bao nhiêu tiền thế?” Ông già hỏi. “Hai mươi nhân dân tệ à?”

“Dù bác có ba trăm hai mươi nhân dân tệ,” Mẫn cáu kỉnh nói, “bác cũng không mua được đâu. Đó là áo khoác trượt tuyết đấy.”

Mẫn có thái độ khinh khỉnh đối với nhiều người lớn tuổi trong làng. “Họ lúc nào cũng muốn biết tôi kiếm được bao nhiêu tiền hay tôi mang bao nhiêu tiền về nhà,” sau này cô kể lại với tôi. “Tôi nghĩ đây là chuyện riêng tư.”

Những thanh niên di trú thống trị cuộc sống ở làng trong kỳ nghỉ, tận hưởng quyền lực mà tiền bạc mang lại cho họ. Họ đi khắp nơi phô trương điện thoại di động và quần áo mới; họ so sánh các vị trí công việc. Họ là những người mai mối nhiệt tình nhất, cho chính bản thân họ và cho người khác, và họ biếu tiền cho những người họ hàng lớn tuổi nghèo túng. Trong quá khứ, những trách nhiệm này thuộc về các bậc cha chú của họ, nhưng giờ đây thế hệ đó đã quá nghèo khổ và bất lực trong việc hoàn thành các nghĩa vụ đó. Cha mẹ chẳng còn việc gì làm ngoài chuyện ngồi lê đôi mách về thu nhập của con cái và triển vọng hôn nhân của chúng.

“Tôi chỉ muốn công việc của con bé được suôn sẻ. Thế là đủ,” mẹ Mẫn nói, khi tôi hỏi bà về hy vọng của bà đối với Mẫn. “Chuyện tương lai là việc riêng của con bé.” Bà hy vọng rằng Mẫn và Quế Mẫn sẽ yêu người ở gần nhà. Nhưng nhìn chúng là dường như bà chấp nhận rằng mình đã không còn khả năng giúp đỡ hay hiểu các con gái của mình nữa rồi.

ĐỐI VỚI TÔI, việc khó khăn nhất khi sống ở quê Mẫn là lối sống tập thể. Không ai ở một mình bao giờ. Khi ai đó ngồi xem truyền hình, anh ta sẽ gọi mọi người xung quanh đến cùng xem; nếu Mẫn chuẩn bị nước nóng để rửa mặt, tôi cũng phải rửa mặt. Thỉnh thoảng khi tôi cố gắng đọc sách - cố tảng lờ tiếng ti vi om sòm ngay cạnh - thì bọn trẻ lại đến từng đứa một để nói chuyện với tôi với vẻ mặt đầy quan tâm.

Ở tại quê Mẫn khiến tôi nghĩ đến gia đình mình. Ngày xưa khi cha mẹ tôi còn là những đứa trẻ sống ở Trung Quốc, họ cũng lớn lên theo cách tương tự. Ở Mỹ, họ đã nuôi dạy anh trai tôi và tôi theo cách hoàn toàn khác, khuyến khích sự độc lập của chúng tôi, giải phóng chúng tôi khỏi những bổn phận gia đình. Cha mẹ tôi không mong đợi chúng tôi phải đi thăm họ hàng, họ không bao giờ bảo chúng tôi phải học gì ở trường. Và trong tất cả những năm tôi sống ở nước ngoài, cha mẹ tôi chưa một lần bắt tôi phải về thăm quê. Ở quê Mẫn, lần đầu tiên tôi nhận ra điều này, và tôi thấy biết ơn cha mẹ.

Vào một buổi sáng sau bữa ăn với cả gia đình, tôi ra ngoài đi dạo một mình trên con đường lầy lội hướng về phía thị trấn. Tôi nhìn thấy những thứ mà trước đó tôi không để ý: một tấm bảng đen liệt kê các loại học phí và giá tiêm phòng cho vật nuôi, một cửa hàng bán thuốc lá và pháo hoa, những đứa trẻ chỉ bốn tuổi cùng đang nghịch bật lửa. Ở làng bên cạnh, tôi nhìn thấy một ngôi nhà bốn tầng lát gạch trắng. Ở những vùng ven bờ biển giàu có hơn thì toàn là những làng gồm các ngôi nhà lát gạch trắng như thế này. Ở đây chỉ có duy nhất một cái, là dấu hiệu cho những thứ tương tự sắp xuất hiện tại đây. Tôi đã ra ngoài khoảng một giờ đồng hồ thì điện thoại di động của tôi đổ chuông. “Chị đang ở đâu thế?” Mẫn gặng hỏi. “Chúng em đang đợi chị về để ăn trưa.”

Tôi vội vã quay về, nhận được những lời chỉ trích đáng kinh ngạc. “Chị không ăn trưa à! Chị đã đi đâu thế?”, “Chị làm gì khi đi bộ một mình trên đường chứ?”

Nông thôn Trung Quốc không bao giờ thư giãn. Đó là nơi chốn của sự tiếp xúc xã hội liên tục và sự thương lượng, một cuộc trò chuyện đã diễn ra trong một thời gian dài và sẽ tiếp tục khi bạn đã ra đi. Ở quê của Mẫn, tôi đã hiểu tại sao những người di trú lại cảm thấy cô đơn đến vậy khi lần đầu họ lên thành phố. Nhưng tôi cũng thấy được họ đã trở nên quý trọng sự tự do mà họ tìm được ở đó như thế nào, cho tới khi cuối cùng họ không thể sống được nếu thiếu nó.

***

Trong ngày cuối cùng của năm cũ, gia đình Mẫn và gia đình các chú bác cùng đi thăm mộ tổ tiên. Mọi người len lỏi qua những ruộng lúa - bây giờ là những ao bùn đầy cuống rạ sau vụ thu hoạch - đi qua con suối nơi dân làng đang giặt quần áo, rồi đi lên núi theo con đường đi qua những vườn bông và vườn trà. Trong một khu vực được phát quang, có những cây thông bao quanh là mộ của bà nội Mẫn, người đã mất cách đây hai năm, một tấm bia đá đánh dấu mộ của hai cụ nội của Mẫn. Ngọn núi này được gọi là núi Lỗ Mộ (nơi đặt mộ của những người trong dòng họ Lỗ). “Tất cả ông bà cụ kỵ của gia đình tôi đều được chôn cất ở đây,” Mẫn nói. Mẹ cô đặt xuống những chiếc bát đựng quả chà là và kẹo lạc, là đồ cúng cho những người đã khuất. Cha Mẫn đốt tiền giấy - trên tiền có ghi “Tiền sử dụng ở trên trời và dưới đất” - rót rượu lên nền đất trước các nấm mộ. Thanh niên treo pháo hoa lên những bụi cây trà, tựa như đèn Giáng sinh treo lên những bụi cây xung quanh một ngôi nhà ngoại ô. Rồi tất cả mọi người trong gia đình quỳ xuống nền đất ẩm khấu đầu lạy tạ ba lần. Việc chôn cất, pháo hoa, đốt tiền giấy - tất cả đều trái với chính sách của nhà nước. Để xóa bỏ các tập tục “phong kiến” này, chính phủ đẩy mạnh việc hỏa táng và phạt mỗi gia đình vài ngàn nhân dân tệ cho mỗi lần chôn cất. Tất cả các gia đình trong làng của Mẫn, dù nghèo đến đâu, vẫn chịu trả tiền phạt để chôn cất người thân.

Ở nhà, cha Mẫn cẩn thận viết lời chúc phúc cho Táo quân trên một miếng giấy đỏ hình vuông. Ở cửa trước, ông dán các câu đối để chúc mừng nhân dịp năm mới. Mẫn đã mua những câu đối này ở thị trấn mà không buồn để tâm đến nội dung, nhưng nội dung thì rất thích hợp:

Rồng chơi bốn biển mang lộc đến

Phượng bay ngàn dặm tới cùng vui

Buổi tối hôm đó, cả gia đình cùng đốt pháo hoa và xem chương trình truyền hình đặc biệt nhân dịp năm mới. Suốt cả đêm vang tiếng phác hoa - một tiếng rít lanh lảnh, im lặng một lúc, rồi tiếng nổ nghèn nghẹt. Đèn trong phòng ngủ sáng cả đêm, trong ba đêm đầu tiên của năm mới cũng như vậy. Không ai còn nhớ ý nghĩa của tục lệ này, nhưng nó vẫn được tuân theo. Những ngôi nhà trong làng bừng sáng trong đêm, rải rác khắp thung lũng, ánh đèn xanh lạnh lẽo gợi nhớ đến những con tàu chở hàng cho các nhà máy ở Đông Quản.

TRONG NGÀY ĐẦU TIÊN của năm mới, lũ trẻ dậy sớm và lần lượt soi gương. Mẫn buộc tóc đuôi ngựa và cặp lên tóc mái một cái kẹp tóc có hình Barbie màu xanh nõn chuối; ba cô gái lớn trong nhà bôi son bóng Maybelline màu hồng. Ngày đầu tiên của năm, theo tục lệ, sẽ là ngày đi thăm hỏi quanh làng. Trẻ con chạy từ nhà này sang nhà kia để xin kẹo, trong khi những đứa lớn hơn ngồi uống nước nóng pha đường và nói chuyện với người lớn. Trước khi vào từng nhà hàng xóm, Mẫn sẽ hỏi Sa xem phải xưng hô với những người lớn trong nhà đó như thế nào. Cô đã quên mất phải xưng hô thế nào với nhiều người dân trong làng. Tại nhà một bà dì của mẹ Mẫn, ba cô con gái lớn hội ý một lúc, rồi Quế Mẫn lấy ra một trăm nhân dân tệ đưa cho bà già, họ cũng tặng tiền cho một ông trẻ bị què chân. Theo tục lệ vào dịp năm mới, những người lớn sẽ đưa cho bọn trẻ hong bao (hồng bao) - phong bì màu đỏ bên trong có tiền - nhưng giờ đây tiền lại được trao tặng theo hướng ngược lại.

Những người di trú trong làng đã tự xây dựng nên tục lệ của riêng họ. Trong ngày đầu tiên của năm mới, thời điểm duy nhất tất cả cùng về nhà, thanh niên tụ tập ở đền thờ Phật trên núi. Tôi đi cùng Mẫn, Quế Mẫn và Sa khi họ bắt đầu lên đường vào buổi sáng hôm đó dưới cơn mưa phùn nhè nhẹ. Tại một lối rẽ trên đường, một đám đông nhỏ đứng chờ họ. Đây là những thanh niên thuộc diện bảnh chọe ở trong làng: một vài người đã lập gia đình, một số thì chưa, mọi người mặc áo khoác da màu đen, quần bò, bình thản đứng hút thuốc nhìn ba chị em và tôi đi lên trên dốc. Các chàng trai ôm pháo bông trĩu tay. Một chàng thanh niên giắt bốn điếu thuốc lá vào một bên đầu bằng gọng kính mắt - sự bối rối của người giàu.

Ngôi đền là một tòa nhà màu kem có mái ngói màu đen uốn lượn một cách duyên dáng ở các góc. Trước khi vào đền, các chàng trai đốt hàng tràng pháo hoa nổ điếc cả tai. Ở căn phòng đầu tiên, có một tấm bảng gỗ dùng để liệt kê danh sách những người đã quyên góp tiền cho việc trùng tu ngôi đền. Mẫn tìm thấy tên của cha cô và tất cả các chú bác trong một nhóm những người mang họ Lỗ ở mục quyên góp năm mươi nhân dân tệ.

Trong đám thanh niên, chỉ có mình Mẫn đi tới bàn thờ ở căn phòng trong cùng của ngôi đền. Cô bỏ tiền vào hòm công đức và hỏi một vị ni cô trung niên liệu cô có thể cầu may mắn cho việc hôn nhân được không. Vị ni cô gật đầu. Mẫn quỳ xuống khấn rằng cô sẽ gặp được người đàn ông định mệnh của đời mình. Vị ni cô đi đến bên Mẫn, đặt một bàn tay lên vai cô. “Kiếm thêm được nhiều tiền,” bà nói. “Tìm được người bạn đời ưng ý.”

Đây là lần đầu tiên Mẫn cầu khấn may mắn cho chuyện hôn nhân. Cô không chắc chắn về mức độ tin tưởng của mình, nhưng việc đó cũng không vấn đề gì cả. “Thậm chí nếu ta không tin,” cô nói, “ta cũng phải tôn trọng điều đó.” Vị ni cô đưa cho Mẫn một mảnh vải đỏ - cô phải giữ gìn cẩn thận mảnh vải và nó sẽ bảo vệ cho cô. Nếu Mẫn gặp may mắn, cô nên quay trở lại ngôi đền trong vòng một năm và cảm tạ Quán Âm, vị Phật Bà nhân từ, là người bảo hộ cho thủy thủ trên biển, phụ nữ vô sinh, và những người trong khắp thiên hạ đang phải gánh chịu nỗi đau khổ.

***

Năm mới qua đi, Mãn từ bỏ những kế hoạch cải thiện cuộc sống trong nhà. Bình đun nước nóng cạn khô, mọi người bắt đầu dùng lại những chiếc chén sứ. Túi nilon đựng rác bị bỏ quên trong xó nhà, cho tới một ngày nó biến mất. Sự tập trung của Mẫn chuyển sang chuyến ra đi sắp tới của cô.

Trong một ngày có tuyết rơi, cô đi một tiếng đồng hồ bằng xe ôm và xe buýt đến thăm hai chị em gái là bạn của cô từ thời học trung học cơ sở. Cả hai chị em, đang làm việc tại vùng ven biển, đều đã về nhà; cha mẹ họ ở nhà làm ruộng và chăm sóc đứa em trai thiểu năng trí tuệ. Khi Mẫn đến nhà họ, cô ngạc nhiên khi thấy một bé gái khoảng hơn một tuổi, vừa mới biết đi. Cô bế đứa bé lên và giải thích tình huống này cho tôi, tựa như một thám tử kỳ cựu tình cờ xuất hiện tại hiện trường nơi xảy ra vụ án. “Đứa con trai bị chậm phát triển, nên họ muốn có thêm một đứa con trai khác. Nhưng họ lại có thêm một đứa con gái. Tất nhiên, họ vẫn rất yêu con bé,” Mẫn nói có vẻ tỏ ý bảo vệ cho gia đình hai cô bạn khi cô nâng đứa trẻ lên lên xuống xuống.

“Cháu làm việc ở đâu thế?” Mẹ của hai cô bạn hỏi Mẫn.

“Ở Đông Quản, trong văn phòng ạ,” Mẫn nói.

“Chị làm gì cơ?” Cô bé ít tuổi hơn hỏi.

“Thư ký,” Mẫn nói.

“Tốt quá!” Bà mẹ nói.

Mẫn quay sang cô chị, Trình Mỹ Lâm, cô này hai mươi tuổi, có gương mặt thanh tú xinh đẹp. “Thế còn chị?”

“Không tốt lắm,” Mỹ Lâm nói. “Tôi làm ở một nhà hàng.”

“Phục vụ bàn à?” Mẫn hỏi. Mỹ Lâm ngoảnh đi không trả lời. Em gái cô, Trình Lợi, làm ở bộ phận đồ gia dụng trong một siêu thị ở Hà Nam. Điều này đặt hai chị em vào vị trí cuối cùng trong hệ thống phân loại những người di trú của Mẫn. Công việc dịch vụ thật mệt mỏi và mang lại sự hổ thẹn khi phải hầu hạ những người giàu có.

Trong bữa trưa, Trình Lợi kể cho Mẫn nghe về công việc của cô. Cô làm việc mười ba giờ một ngày và chỉ có hai ngày nghỉ trong tháng, hai ngày này còn bị trừ vào lương.

“Đến nhà máy của tớ làm đi,” Mẫn đột nhiên nói. “Nhà máy chỗ tớ làm sản xuất túi xách. Công nhân được nhận bảy hoặc tám trăm nhân dân tệ một tháng, được nghỉ ngày Chủ nhật.”

Trình Lợi nhìn mẹ cô, mẹ cô nói, “Để xem cha con nói gì đã.”

Cũng trong ngôi làng đó, Mẫn tới thăm nhà một bạn học khác, hiện đang vắng nhà, Mãn được người hàng xóm kể lại rằng bạn cô đã lấy một người đàn ông gấp đôi tuổi cô và giờ dây ở nhà chăm sóc đứa con gái mới sinh. Bà hàng xóm đứng trước cửa oang oang kể chuyện. “Ông chồng nó thấp. Ông ta còn già và xấu nữa. Cha mẹ nó phản đối cuộc hôn nhân.”

Mẫn băn khoăn trước tin tức này. “Cô ấy có vẻ rất có triển vọng,” cô kể cho tôi trên đường quay về. “Em nghĩ cô ấy sẽ làm người di trú một thời gian dài. Em thật sự nghĩ cô ấy sẽ đi đây đi đó.”

ĐÊM TRƯỚC KHI Mẫn và chị gái chuẩn bị lên đường, cả gia đình cùng ngồi xem truyền hình. Bạn trai của Quế Mẫn ra ngoài đi vệ sinh, đột nhiên không khí trong phòng thay đổi hẳn. Quế Mẫn và mẹ cô bắt đầu thì thầm nói chuyện bằng giọng gay gắt, từ ngữ tuôn ra ào ạt - như thể một cuộc tranh luận chưa thốt nên lời đã hình thành trong im lặng bao ngày nay.

Mẹ Mẫn chỉ trích Quế Mẫn vì đã có quan hệ yêu đương với một người đàn ông quê không ở tỉnh Hồ Bắc. “Nếu con lấy nó,” bà nói, cất cao giọng, “có thể mẹ sẽ không bao giờ gặp được con nữa.”

Quế Mẫn cãi lại mẹ trong giận dữ. “Ai cũng có khoảng trời riêng,” cô nói. “Nếu mẹ muốn con chia tay anh ấy, con sẽ lập tức làm ngay. Và con sẽ chẳng lấy ai nữa.” Mẹ cô bắt đầu khóc.

Anh bạn trai quay lại, và như thể anh ta mang sự yên tĩnh trở lại. Ngay lập tức những lời lẽ giận dữ biến mất, không ai nói gì nữa. Quế Mẫn nhìn chằm chằm vào màn hình ti vi. Mẹ của họ đứng dậy đi vào phòng. “Vào với mẹ đi con,” bố Mẫn bảo cô. Cô đứng dậy, mắt mở to lấp lánh đầy kích động, rồi đi ra. Quế Mẫn bắt đầu sắp xếp đồ đạc. Cha họ tiếp tục xem truyền hình như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Mẫn cố gắng thuyết phục mẹ cô. “Ai cũng phải tìm ra con đường riêng của mình,” cô nói. “Nếu Quế Mẫn không hạnh phúc với anh ta, chị ấy sẽ quay lại với gia đình. Nếu chị ấy hạnh phúc, mẹ sẽ thấy hạnh phúc hơn nhiều.”

Quế Mẫn và mẹ cô không nói chuyện với nhau trong suốt buổi tối hôm đó. Nhưng họ vẫn ngủ trên cùng một giường, đảo đầu đuôi, như họ vẫn ngủ trong suốt thời gian cô ở nhà. Sáng sớm ngày hôm sau, mẹ cô giúp cô chuẩn bị lên đường. Hai người bọn họ vẫn nói chuyện bình thường, tựa như cuộc cãi vã đêm qua chưa từng xảy ra. Anh bạn trai của Quế Mẫn cũng cư xử bình thường. Quế Mẫn và bạn trai của cô đi trên con đường lầy lội bùn đất về phía đường cái, Quế Mẫn chào tạm biệt mà không nhìn vào mắt mẹ cô. “Chúng con sẽ về thăm vào dịp nghỉ lễ tháng Mười,” anh bạn trai nói với bố mẹ Quế Mẫn khi chia tay. Họ gật đầu mỉm cười, như thể anh ta vẫn được chào đón.

VÀO NGÀY MÙNG NĂM Tết, Mẫn ra đi. Bạn cùng lớp Hồ Đào của cô, như đã hứa, mua vé tàu khởi hành lúc 3 giờ 20 phút đi Đông Quản cho chúng tôi. Đó là tàu chậm, chạy trong mười sáu tiếng đồng hồ, không có số ghế được gán sẵn, nhưng anh ta đã rất may mắn là mua được vé trong thời điểm hỗn loạn sau kỳ nghỉ. Chúng tôi tạm biệt cha mẹ Mẫn và leo lên xe máy của một ông chú, người sẽ đưa chúng tôi vào thị trấn. “Ôm chặt vào” là tất cả những gì mà mẹ cô nói khi chia tay.

Mẫn đến nhà ga sớm hơn một tiếng đồng hồ cùng hai người bạn đến tiễn cô. Tàu hỏa lúc đến sẽ chật ních những người và sẽ rất vất vả để lên được tàu, trong phòng chờ không khí đầy căng thẳng và chờ đợi, tựa như những giây phút cuối cùng trước khi cuộc đua bắt đầu. Không có dấu hiệu gì cho thấy sự xuất hiện của Hồ Đào. Mỗi lần Mẫn gọi cho anh ta, cô lại nghe thấy câu trả lời tự động rằng điện thoại di động của anh ta đang tắt.

Lúc 2 giờ 45 phút, có thông báo về số sân ga và phòng chờ nhanh chóng trở nên vắng vẻ. Mẫn ra ngoài đi tìm Hồ Đào. Cô quay lại một mình và bàn bạc với cô bạn, Lưu Lợi Á. Có lẽ hai chúng tôi cứ nên lên tàu trước đã, sau đó sẽ mua vé sau. Lưu Lợi Á tỏ ra nghi hoặc. “Họ sẽ đuổi hai người xuống ngay,” cô ta nói.

Sau ba giờ một chút, Hồ Đào xuất hiện với vẻ mặt lơ đãng đầy căng thẳng và hàng ria nhỏ vẫn lơ lửng trên môi. Mẫn và các bạn cô nhảy bổ vào anh ta.

“Anh đã ở đâu thế hả?”

“Anh có biết là ba giờ rồi không?”

Anh ta không biết. Điện thoại của anh ta tắt máy và anh ta lại không đeo đồng hồ.

“Tại sao anh lại tắt điện thoại? Chúng tôi đã gọi bao nhiêu lần mà không liên lạc được với anh.”

Anh ta nói là điện thoại hết pin.

“Lẽ ra tôi phải cho anh mấy cái tát mới đúng!” Mẫn nói. Hồ Đào trông có vẻ ngạc nhiên khi anh ta đưa vé tàu cho Mẫn.

Chúng tôi hòa vào đám đông đang đứng đợi để được đi qua cánh cửa bằng kim loại vào sân ga. Cảnh sát đi qua đi lại la hét với hành khách rằng không được chen lấn xô đẩy. Mẫn và tôi nằm trong số những người đầu tiên được đi qua cửa, nhưng Hồ Đào bị rớt lại đằng sau. “Không cần phải lo lắng gì cho anh ta,” Mẫn nói. Khi tàu đến, mọi người cố gắng trèo lên nhưng hầu hết các cánh cửa đều đóng. Khi cửa vừa mở, đám đông tràn lên. Tay chân vươn ra từ phía trong các toa tàu, cố gắng làm kìm hãm đám đông đang chen lấn xô đẩy. Các hành khách cố gắng ngăn người lên tàu, có lẽ vì toa tàu đã chật hoặc họ muốn để dành chỗ cho bạn bè. Có ai đó bị đá vào bụng, giọng vang lên giận dữ. Tình trạng này kéo dài mười phút, chẳng thấy bóng dáng cảnh sát đâu. Vào giây phút quyết định này, họ lại biến mất.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng nhận thấy một cánh cửa mở cách đấy một số toa tàu, và len lỏi đi về hướng đó. Toa tàu chật ních người, nhưng trong vòng một tiếng đồng hồ cả Mẫn và tôi đã chen lấn vào ngồi được ở mép ghế. Hồ Đào đã nhập bọn cùng chúng tôi, Mẫn cho anh ta ngồi chỗ của cô và ngồi trong lòng anh ta trong khi họ cùng nghe nhạc bằng chiếc máy nghe nhạc MP3 của cô. Đây có vẻ là một sự thân mật hiếm hoi, cuối cùng Mẫn sang chỗ tôi. “Anh ta là người bạn trai cũ của em,” cô nói.

“Sao kia? Hồ Đào ấy à?”

Năm kia cô đã hẹn hò với Hồ Đào, khi anh ta sống ở Đông Quản - anh ta chính là người mà cô bị thất lạc sau khi mất điện thoại di động. Hồ Đào gọi cho cô trong ngày đầu tiên khi cô về nhà, suy nghĩ về việc nối lại mối quan hệ đã mất. Bí mật này đã được giữ kín đến mức tôi không hề biết, giờ đây tôi cố gắng ghép các sự việc rời rạc lại với nhau.

“Anh ta có biết cô đang có bạn trai không?” Tôi hỏi.

“Không.”

“Cô có định nói với anh ta không?”

“Em muốn anh ta tìm được việc ở nhà máy trước đã,” Mẫn nói. “Sau đó em sẽ nói với anh ta và anh ta sẽ phải tự xoay xở. Chúng em có thể chỉ là bạn mà.” Cô cười phá lên trước sự ngượng ngập của mình. “Anh ta không ổn bằng bạn trai hiện tại của em nhỉ? Bạn trai em là người đáng tin cậy hơn.”

Còn có nhiều bí mật nữa. Quế Mẫn không quay lại Đông Quản như cha mẹ cô nghĩ. Buổi sáng hôm đó cô lên tàu đi tới Trường Sa, thành phố nơi bạn trai cô sống, họ sẽ chuyển đến sống cùng nhau và anh ta sẽ giúp cô tìm việc ở đó. “Em là người duy nhất biết chuyện này,” Mẫn nói. “Chị không được kể với mẹ em đâu đấy. Bà sẽ càng tức giận hơn thôi.” Cô quay lại đi xuống dọc theo lối đi. Sau đó tôi nhìn thấy cô ngồi trong lòng Hồ Đào trong khi anh ta lùa tay vào nghịch tóc cô. Cô nhìn tôi qua làn tóc lòa xòa và bàn tay, nụ cười của cô đầy vui sướng và xấu hổ.

Vào buổi tối hôm đó, tôi nhận được tin nhắn từ Quế Mẫn. Tôi kể cho cô nghe rằng chúng tôi đang ngồi trên tàu hỏa và hy vọng mọi việc với cha mẹ cô sẽ ổn. “Cám ơn chị, em không bao giờ lo lắng,” cô trả lời. “Em chỉ đang đi trên con đường riêng của mình thôi.''

Tám giờ sáng hôm sau, tàu tới Đông Quản. Ở miền Nam thời tiết ấm áp, Mẫn cởi áo len phàn nàn về sự nóng nực, quên đi nỗi thống khổ do cái lạnh trong suốt thời gian ở quê. Cô và Hồ Đào ra khỏi nhà ga để bắt xe buýt về nhà máy. Cô sẽ tắm gội, những việc cô đã không làm trong nhiều ngày vì ở nhà không có nước máy. Rồi cô sẽ ngủ một giấc dài. Cô chưa có kế hoạch giải quyết tình trạng tiến thoái lưỡng nan giữa hai người bạn trai, nhưng cuối cùng thì việc đó sẽ được quyết định cho cô. Buổi sáng hôm đó, Mẫn sẽ giới thiệu bạn trai cô và Hồ Đào với nhau, mỗi người điên tiết lên vì biết được sự tồn tại của người kia. Bạn trai của cô sẽ bảo: “Nếu hắn không cuốn gói trong vòng ba ngày, tôi sẽ gọi người và cho hắn một trận.” Mẫn sẽ cho Hồ Đào vay ba trăm nhân dân tệ. Và anh ta sẽ biến mất khỏi cuộc đời cô, có lẽ là vĩnh viễn.

Nhưng giờ đây trên chuyến xe buýt lèn chặt những người di trú quay về thành phố, ý nghĩ của Mẫn đang ở nơi khác. Ở nhà chẳng có gì làm ngoài việc xem truyền hình, cô nói. Cô làm tôi nhớ lại những thứ ít ỏi mà thị xã Vũ Huyệt lân cận có thể đáp ứng. Cô dường như đang rà soát lại tất cả những gì cô đã nhìn thấy ở nhà, cố gắng tìm hiểu xem mình đang đứng ở đâu. Khi những nhà máy của Đông Quản lọt vào tầm mắt qua cửa sổ xe buýt, cô nhìn từng cái từng cái một lướt qua mà không nói gì. “Quê hương cũng tốt,” cuối cùng cô nói, “nhưng chỉ có thể ở lại vài ngày mà thôi.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3