Gái công xưởng - Phần II - Chương 10 phần 2
Vào lúc 10 giờ 12 phút, khi xe buýt đi ngang qua sông Trường Giang, Mẫn giật mình tỉnh giấc. Cô gọi to tên từng thị trấn mà chúng tôi đi ngang qua trên đường quốc lộ: Hoàng Thạch, Mai Xuyên, Hoàng Mai. ''Sắp về đến nhà rồi,” cô nói đầy hoan hỷ.
Mẹ của Mẫn, bà Trần Mỹ Dung, đang ngồi chờ bên vệ đường ở ngoại vi một thị trấn tên là Đại Kim. Bà bốn mươi hai tuổi, đôi mắt sâu màu nâu và gò má cao - một vẻ đẹp hiếm thấy ở những người dân nông thôn. Nụ cười của bà rạng rỡ phô cả hàm răng, tôi nghĩ là bà nở nụ cười không ngớt trong ngày đầu tiên Mần về thăm nhà. Hai mẹ con không ôm nhau khi gặp - đó không phải là phong tục của người Trung Quốc - nhưng Mẫn chạm vào cánh tay và sờ vào vành tai mẹ khi nói chuyện. Đã hai năm liền cô không về nhà.
Đại Kim là một thị trấn thuần nông chỉ có một con phố, nơi các cửa hiệu bán thức ăn gia súc và thuốc trừ sâu vẫn vượt trội về số lượng so với các cửa hiệu bán xe máy và điện thoại di động. Công việc kinh doanh hai bên đường phản ánh đặc tính nông thôn không bao giờ vứt bỏ thứ gì: ở Đại Kim bạn có thể trả tiền cho ai đó để sửa đồng hồ, đồng hồ đeo tay, bếp, điện thoại, hay ti vi. Ở thành phố, hiếm khi nhìn thấy những cửa hàng làm dịch vụ đó, người thành phố tin tưởng vào chất lượng của các sản phẩm mới hơn. Ở các sạp hàng ngoài trời, mặt hàng thường gặp nhất là những chiếc va li vỏ cứng, lời nhắc nhở về sự lựa chọn tốt nhất ở thị trấn này là ra đi để lập nghiệp.
Mẫn có rất nhiều ý tưởng cải tiến đối với nhà mình. Cô muốn mua một đầu đĩa DVD cho cả nhà. “Mua cả bình đun nước nóng nữa,” cô nói. “Như thế sẽ tiện nghi hơn nhiều.”
Chốc chốc mẹ Mẫn lại ngước nhìn qua đầu con gái về phía tôi. “Nơi này thật là tệ nhỉ!” Bà cười tươi nói. “Nhà chúng tôi cũng thật nghèo!”
Đến lối rẽ về làng, mẹ Mẫn gọi taxi địa phương: một động cơ xe máy kéo một thùng xe bằng sắt gắn trên hai bánh xe với những tấm ván hẹp làm ghế ngồi. Đã có năm phụ nữ ngồi trên xe, mặc quần jean bó và áo phao - những người lao động ra thành phố làm việc, giống như Mẫn, trở về nhà vào dịp Tết. Khi chiếc taxi chạy lạch cạch trên con đường bẩn, Mẫn ngoái về phía sau nhìn cảnh mọi người trở về nhà. Một người phụ nữ trẻ mặc quần da đen, đi bốt cao gót đi qua ruộng lúa; một người đàn ông trong bộ vest kẻ sọc dắt hai đứa trẻ ăn mặc rách rưới mới biết đi lẫm chẫm, mỗi đứa một bên. Một người đàn ông đi xe đạp toét miệng cười vẫy tay chào. “Đó là cha của một bạn học hồi tiểu học của em,” Mẫn nói. “Ông ấy trông già hơn xưa.”
Chúng tôi ra khỏi xe xuống một khu gồm toàn những ngôi nhà gạch hai tầng. Cha của Mẫn đi lên con đường dốc về phía chúng tôi - gương mặt ông gầy, có vẻ buồn rầu, nụ cười đầy mệt mỏi - Mẫn thấy ông cũng già đi. Căn nhà thật yên tĩnh. Em trai và em gái Mẫn đang đi thăm họ hàng, một em gái khác đang ở nhà, xem truyền hình. Cô bé thoáng ngước nhìn khi Mẫn bước vào rồi lại quay ra chăm chú xem phim.
Trong lúc ăn mì với gan và trứng luộc - mẹ Mẫn cho vào bát cô ba quả trứng luộc để mừng cô đã về nhà - Mẫn đã kịp cập nhật thông tin. Cha cô nói ông muốn mua một cái xe máy. “Bao nhiêu thế bác?” Tôi hỏi.
“Khoảng bảy hay tám nghìn nhân dân tệ,” Mẫn trả lời hộ cha.
“Nhiều nhỉ!” Tôi thốt lên.
Cha của Mẫn nói rằng ông có thể mua được một cái với giá thấp hơn ba nghìn nhân dân tệ.
“Thế thì không phải đồ tốt rồi,” Mẫn nói. “Bố có muốn suốt ngày phải đi sửa xe không?”
Có tiếng chuông điện thoại. Đó là một người bạn của Mẫn, gọi từ Đông Quản để xem cô đã về nhà an toàn chưa. “Mẹ em sợ chết khiếp khi nhìn thấy em,” Mẫn kể qua điện thoại. “Cha mẹ em đã già đi nhiều, nhà cửa thì bừa bộn, lạnh lẽo. Chị chẳng muốn làm gì ngoài việc ngủ.”
Chuông điện thoại lại reo. Lần này là A Kiệt, cậu ta ở lại Đông Quản đón năm mới. “Bây giờ em không nói chuyện được đâu,” cô thì thào nói. “Ở đây đông người lắm.” Vì mẹ của Mẫn không tán thành, nên Mẫn đã chọn con đường phản kháng ít nhất: cô đã nói dối với mẹ là hai người chia tay rồi. Giờ đây cô đã mang bí mật này về nhà. Mỗi lần chuông điện thoại reo, lại là một lần cô sợ bị lộ bí mật này.
Trong vài ngày tới, Quế Mẫn sẽ trở về nhà cùng với người yêu. “Em đưa bạn trai cùng về,” Quế Mẫn nhắn tin cho tôi, “mặc dù ở nhà mọi người không đồng ý cho em yêu một người ở xa.” Một hôm khác, cô lại nhắn: “Em đã lớn rồi và biết cách xử lý mọi việc. Mọi người không cần phải lo lắng cho em.” Tôi thấy có vẻ như cô đã sẵn sàng cho một trận chiến.
***
Ngay khi Mẫn về đến nhà, cô bắt đầu thực hiện chiến dịch văn minh hóa gia đình mình. Trong những buổi sáng có sương mù, cô đi quanh nhà đóng các cửa sổ; cô bảo mẹ không khí ẩm ướt không tốt cho sức khỏe. Khi cha cô châm điếu thuốc sau bữa ăn sáng, ông nhận được ngay một bài thuyết giáo: ông không nên hút thuốc, và phải súc miệng bằng nước trà, nếu không răng sẽ bị đen xỉn. Mẫn đi quanh nhà chỉ ra những cải tiến mà cô mong muốn: bình đun nước nóng, máy giặt, con đường đổ bê tông đi qua cái sân bùn lầy lội. Ở các ngôi nhà trong làng, người ta thường xuyên vứt rác, vẩy tàn thuốc, khạc nhổ ra sàn nhà; người ta cũng thường xuyên quét rác rồi hắt ra sân. Mẫn để một cái túi nilon vào góc phòng dành cho trẻ con và yêu cầu các em cô phải vứt rác vào đó. Tôi quan sát khi cô hướng dẫn lại cho mẹ mình.
Việc Quế Mẫn sắp trở về khiến cô bận tâm. Mẫn sợ rằng cha mẹ mình sẽ tỏ ra bất lịch sự đối với bạn trai của chị. Người dân nông thôn không quen tiếp xúc với người lạ, cô nói, và họ có thể vô tình làm tổn thương anh ta. Quế Mẫn trở thành chủ đề bàn tán của cả làng: chưa từng có cô gái trẻ nào lại mang người yêu ở xa như vậy về nhà giới thiệu. “Chị cháu đang về thăm nhà cùng bạn trai,” Mẫn kể với bất kỳ người hàng xóm nào mà cô gặp.
“Anh ta người ở đâu thế?” luôn là câu hỏi đầu tiên bật ra.
“Hồ Nam,” cô đáp - và cuộc trò chuyện kết thúc, vì chẳng có câu trả lời nào hay hơn nữa.
Nhà của gia đình họ Lữ được xây dựng vào năm 1986, năm Mẫn ra đời. Tầng dưới có phòng sinh hoạt chính, mỗi bên có một phòng ngủ, phòng trẻ em có hai chiếc giường đôi và một chiếc ti vi luôn được vặn tiếng to hết cỡ. Phòng sinh hoạt chính có một chiếc bàn ăn bằng gỗ, đằng sau nó là bàn thờ, với bài vị của tổ tiên, một bức ảnh bà nội Mẫn, và một bức trưởng thêu những chữ vàng óng ánh thể hiện sự phân chia cấp bậc của vạn vật: Thiên (Trời), Địa (Đất), Quốc (Tổ quốc), Phụ (Cha mẹ), Sư (Thầy). Trên bức tường cạnh bàn thờ dán những tấm giấy khen của hai đứa bé ít tuổi nhất trong nhà. Lữ Tú xếp thứ năm trong lớp. Lữ Xuân Thanh là học sinh “ba tốt”. Mọi thứ xung quanh ngôi nhà đều hữu dụng. Tầng trên có một hố sâu trên sàn để chứa hạt giống, những miếng thăn lợn tươi và cá ướp muối treo trên móc, một căn phòng chất đầy bông ngập đến đầu gối - thu hoạch từ vụ mùa năm nay, chưa đem bán. Một bên nhà là bếp, tường bếp ám khói đen, một bên nhà là chuồng gia súc dành cho bò, lợn nái và mấy chú lợn con. Gà quanh quẩn dưới chân và đẻ trứng bên dưới chạn đựng bát đĩa.
Điện được sử dụng một cách tằn tiện để tiết kiệm tiền, hầu hết các bữa tối chúng tôi ngồi ăn dưới ánh sáng lờ mờ. Không có hệ thống ống dẫn nước và hệ thống sưởi ấm. Trong cái lạnh lẽo ẩm ướt của mùa đông Hồ Bắc, ở trong nhà cả gia đình vẫn mặc áo khoác và đi găng tay, những bức tường và nền nhà trát xi măng ngấm nước như miếng bọt biển. Nếu ngồi quá lâu, chân tay bạn sẽ lạnh cóng, phương thuốc tốt nhất là uống một cốc nước nóng, cầm nó trong tay trong khi hơi nước sưởi ấm khuôn mặt. Bọn trẻ thường đứng xem truyền hình, nhảy lên nhảy xuống để chân khỏi tê rần.
Mẫn thích thú hưởng thụ địa vị hiện tại của cô ở trong nhà. Vào các bữa ăn, các em cô ăn nhanh chóng và rời khỏi bàn, Mẫn nán lại nói chuyện với cha mẹ và với tôi. Mẹ và các em gái cô nấu nướng, dọn dẹp và giặt giũ, còn cha cô cho lợn ăn, làm các việc lặt vặt khác trong nhà. Mẫn không giúp một tay làm việc nhà. Cô dành rất nhiều thời gian tán gẫu qua điện thoại, lên kế hoạch đi thăm những bạn bè đã trở về nhà. A Kiệt tiếp tục gọi điện với một số tin tức: cậu ta đã giúp Quế Mẫn mua vé tàu hỏa. Cậu nhớ Mẫn. Cậu mơ thấy Mẫn bỏ đi cùng một chàng trai khác.
Ba em của Mẫn vẫn ở nhà. Sa, em gái thứ ba, năm nay mười sáu tuổi; cô bé có mái tóc dài đến eo và nụ cười tươi tắn của mẹ. Cô cũng đang học trường nghề mà trước kia Mẫn đã học và dự định sẽ lên thành phố làm việc sau khi tốt nghiệp trong một vài tháng nữa. Tú, em gái thứ tư, và Xuân Thanh, em út và là cậu con trai duy nhất trong nhà, đang học trung học cơ sở. Bọn trẻ học nội trú trong thị trấn và về nhà vào cuối tuần; chúng hầu như không biết về các công việc đồng áng. Khi cha mẹ Mẫn làm thịt và vặt lông mấy con gà vào một buổi sáng, Tú chỉ đứng ở cửa bếp nhìn ra. “Bọn trẻ không chịu làm công việc này,” mẹ Mẫn nói.
Một buổi sáng khác, Sa bước ra sân với một bát thóc trên tay để gọi gà ra ăn. “Tục tục, tục tục,” cô cất tiếng gọi. Bọn gà không xuất hiện.
Tôi trỏ vào đàn gà ở thửa ruộng bậc thang phía dưới ngôi nhà. “Kia có phải gà nhà cô không?”
Cô nheo mắt. “Có vẻ là của nhà em đấy. Tục tục, tục tục...” Bọn gà vẫn tảng lờ.
Mẹ cô bước ra khỏi nhà. “Con đang làm gì thế? Đấy không phải gà nhà ta!” Mẹ Sa đi ra đuổi lũ gà. Sa cười khúc khích đi vào trong nhà.
VÀO NGÀY THỨ HAI SAU KHI VỀ ĐẾN NHÀ, Mẫn đưa ba em ruột và hai em họ đến thị xã gần nhất là Vũ Huyệt, cách nơi đây một giờ đi xe buýt. Cải thiện nhà cửa vẫn là điều luẩn quẩn trong tâm trí Mẫn: cô muốn mua bình đun nước nóng và máy sấy tóc. “Bọn trẻ chẳng bao giờ được đi đâu,” cô nói với tôi. “Chúng ta hãy đưa chúng ra thành phố vui chơi một lúc.” Điểm dừng chân đầu tiên là một tiệm cà phê Internet nơi Mẫn gặp một người bạn thời trung học tên là Hồ Đào. Cậu ta có gương mặt hẹp với cằm nhọn và một hàng ria mép nhỏ hình vuông nằm ở gần môi trên, giống như một cái tem dán sai chỗ. Cậu ta mặc áo khoác vải bò màu xám, đi đôi giày đen mõm nhọn, mắt lúc nào cũng quắc lên đầy căng thẳng giận dữ; cậu ta trông có vẻ như đang cố gắng học đòi phong cách của một tay anh chị. Hồ Đào đang làm việc trong nhà hàng của người chú trên thành phố, nhưng cậu ta đang hy vọng sẽ ra ngoài kiếm việc.
“Anh ta thích em,” Mẫn nói, không để cho Hồ Đào nghe được, “nhưng chúng em chưa bao giờ có quan hệ tình cảm gì với nhau. Hơn nữa em có bạn trai rồi. Anh ta trông cũng không được đứng đắn lắm nhỉ?”
Chợ hôm nay đông nghịt người đi mua sắm chuẩn bị cho dịp năm mới. Các quầy hàng bán những cuộn giấy đỏ viết câu đối với những lời chúc phúc cho năm mới, cùng với những poster có hình Mao Chủ tịch anh hùng và những khẩu hiệu gần như mang tính tôn giáo: Người là nhà giải phóng vĩ đại của dân tộc. Mẫn dẫn bọn trẻ đi qua các quầy hàng mua sắm đồ đạc cho nhà mình: tất cho cha, khăn mặt cho khách, dầu gội đầu. Cô mặc cả rất ghê và mua được bình đun nước nóng với giá 11 đô la Mỹ, máy sấy tóc với giá 3,3 đô la Mỹ. Cô mua những chiếc cốc nhựa dùng một lần, vệ sinh hơn nhiều so với những chiếc chén sứ mà cả gia đình dùng chung và hiếm khi được rửa. Ở siêu thị, bọn trẻ chất đầy xe hàng của cô với bánh gạo ngọt và bánh quy.
Vũ Huyệt có những thứ mà bạn không còn nhìn thấy ở những thành phố hiện đại ven biển, ví dụ như kho chứa thóc và cửa hàng cung cấp thóc của quân đội - đều là di tích của một thời bao cấp khi nhân dân phụ thuộc vào chính phủ trong việc phân phối thóc gạo theo định mức. Một cửa hàng quảng cáo cho Old Fogey - một nhãn hiệu com-lê đàn ông. Mẫn đã đến Vũ Huyệt hai năm trước. Lần trở lại này khiến cô hết sức thất vọng. “Thành phố này chẳng có gì tốt cả,” cô nói. “Nó không phát triển bằng những nơi khác.”
Hồ Đào biến mất một lúc rồi lại xuất hiện sau bữa trưa để đưa lũ trẻ đi trượt băng. Cậu lại có thêm một phụ kiện khác của dân anh chị - điếu thuốc giắt sau vành tai, khiến cậu ta trông càng thiếu đứng đắn hơn nữa. Ở một quầy bán hoa quả, cậu ta dừng lại trò chuyện với một phụ nữ trẻ có đôi mắt đen kẻ đậm và mái tóc tẩy màu đã bị ngả sang màu da cam. Cô ta đi đằng trước với Hồ Đào, trong khi Mẫn và bọn trẻ lẽo đẽo theo sau. Không ai thèm để ý đến việc giới thiệu cả.
Sân trượt băng chật ních người, bên trong tối thui, chỉ có ánh sáng chớp nhoáng từ cái đèn disco tròn nhấp nháy. Bây giờ là ba giờ chiều. Mẫn đi dọc theo bờ tường, lần mò đường đi và cố gắng không để mất dấu lũ trẻ. Trong khu vực quầy bar dưới ánh sáng mờ ảo ở một đầu của sân trượt băng, Hồ Đào ngồi trên một cái ghế cao và cô gái kia ngồi bên cạnh anh ta. “Em nghĩ là chúng ta nên đi thôi,” Mẫn nói với tôi. Chúng tôi tập hợp lũ trẻ và đi ra ngoài, quay lại lối mà chúng tôi đã vào. Ở chân một quả đồi nhỏ, Hồ Đào lại xuất hiện trước mặt chúng tôi, một mình. Cậu ta đã lựa chọn, không còn dính dáng đến cô gái có mái tóc màu da cam.
Cậu ta hỏi Mẫn về chỗ làm của cô. Nhà máy nơi cô làm sản xuất túi xách và có năm nghìn nhân công, cô kể. Công nhân làm ở dây chuyền lắp ráp được trả tám trăm nhân dân tệ một tháng.
“Tôi lại muốn ra ngoài kiếm việc,” cậu ta nói. “Mọi việc ở nhà không được tốt lắm.”
“Nhà máy cũ của anh thì thế nào?” Cô hỏi. Cậu ta đã từng có thời gian làm việc ở Đông Quản.
“Tệ lắm. Khi nào bạn quay lại chỗ làm?”
“Ngày mùng năm,” Mẫn nói - rồi cô đưa ra điều kiện. “Bạn giúp chúng tôi mua được vé tàu, rồi bạn có thể đi cùng. Nhà máy vẫn đang tuyển thêm công nhân đấy.”
Sau khi mỗi người rẽ một ngả, Mẫn có vẻ đắc thắng. “Anh ta sẽ mua vé quay lại Đông Quản cho chúng ta,” cô nói. Hồ Đào sẽ sử dụng các mối liên hệ ở địa phương để mua được vé, Mẫn sẽ đưa anh ta ra thành phố và tìm cho anh ta một công việc ở nhà máy. Trong ngày thứ hai ở nhà, cô đã tính toán đến việc quan trọng nhất: làm thế nào để ra di.
***
Bảy thế hệ nhà họ Lỗ đã sống ở làng Liệt Mã Hồi Đầu. Nhà họ Lỗ gồm chín mươi gia đình, hầu hết đều mang họ Lỗ, sống trong những ngôi nhà gạch cạnh ruộng lúa mọc thấp lè tè, những con dường ở giữa các ruộng lúa thỉnh thoảng lại điểm xuyết miếu thờ, nơi dân làng thắp hương cho tổ tiên của mình. Những thửa ruộng bậc thang bắt đầu từ đáy thung lũng, xếp chồng trên những ngọn đồi màu xanh xám như hộp đựng trang sức nhiều ngăn kéo đang mở. Chỉ có một điều bất thường đối với ngôi làng là sự ngông cuồng trong cái tên của làng - Liệt Mã Hồi Đầu, “con ngựa bất kham đang quay đầu lại”. Tên này lấy từ hình dáng của một ngọn núi gần đó. Bao thế hệ đã sống và chết ở đây mà không đi xa nhà quá hai mươi dặm. Có một câu ca ngợi sự cách ly: “Sống cả đời mà không cần đi xa nhà là cả một gia tài.”
Vào đầu những năm 1990, các cặp vợ chồng trẻ bắt đầu hướng ra thành phố kiếm việc làm, chống lại mong muốn của những người lớn tuổi. Khi người chú độc thân của Mẫn chuyển đến Vũ Huyệt mở cửa hàng, cả gia đình phản đối. “Chúng tôi cảm thấy những người chưa lập gia đình không nên ra ngoài làm việc vì họ sẽ học những thói hư tật xấu,” cha Mẫn kể với tôi. Trong thập niên vừa qua, việc di trú đã trở thành phổ biến. Những đứa trẻ trong làng ra đi trong thời gian học trung học hoặc thậm chí khi còn đang học tiểu học; cả trai lẫn gái đều đi, mặc dù một vài gia đình thích để con trai ở gần nhà hơn. Cha mẹ Mẫn đều đã từng làm việc trong một nhà máy giày tại Ôn Châu ở bờ biển phía Đông, nhưng đã quay về nhà mà chẳng dành dụm được chút gì. Một vài người di trú trước Mẫn vài thế hệ đã quay trở về làng gây dựng một số công việc buôn bán nhỏ. Chưa có người nào thuộc thế hệ trẻ quay trở về: một vài người đã lập gia đình và tiếp tục làm việc xa nhà, một vài người mua căn hộ ở thị xã Vũ Huyệt gần quê.
Việc di trú đã trở thành nguồn thu nhập chính của làng. Mẫn và chị của cô năm ngoái đã gửi về nhà 600 đô la Mỹ, so với 240 đô la Mỹ mà cha mẹ cô kiếm được nhờ việc bán lợn và bông. Tiền này dùng để trả tiền học cho các em, và nó đem lại tiếng nói cho những người chị trong gia đình. Khi Quế Mẫn lần đầu đi làm, cô đã thuyết phục cha mẹ để cho Mẫn học hết trung học cơ sở. Trình độ học vấn của hai chị em là chuyện bất bình thường trong làng. “Chúng tôi đối xử với con gái cũng như con trai,” mẹ Mẫn kể cho tôi vào một buổi sáng khi bà ngồi bên cạnh cửa sổ phòng ngủ khâu một chiếc dép đi trong nhà bằng nhung kiểu cũ. Bà và chồng đều đã tốt nghiệp trung học cơ sở, là điều hiếm thấy đối với những người dân nông thôn cùng thế hệ với họ.
“Rất nhiều người trong làng không đồng ý với tôi,” bà tiếp tục. “Họ nói con gái không cần phải học hành gì nhiều, vì đằng nào chúng cũng đi lấy chồng. Nhưng tôi tin rằng có học có hơn.”
Thứ tự ra đời là yếu tố quyết định ảnh hưởng đến vận mệnh. Quế Mẫn, người con cả, rời nhà tìm việc sau khi học hết trung học cơ sở. Mẫn, người con thứ hai, học gần hết hai năm ở trường dạy nghề, và Sa sẽ tốt nghiệp trước khi ra đi hội tụ cùng hai chị. Hai người con nhỏ nhất, niềm hy vọng của bà mẹ, sẽ học tiếp phổ thông trung học và đại học vì bây giờ đã có đủ tiền cho việc đó. “Đó là lý tưởng của tôi,” mẹ Mẫn nói, “nhưng nó còn phụ thuộc vào bọn trẻ và việc bọn chúng có làm việc, học hành chăm chỉ hay không.”
Một vài anh chị em họ của Mẫn đã bắt đầu ra ngoài kiếm việc khi mới mười hai tuổi. Trong số hai mươi bảy học sinh cùng lớp sáu với cô, mười người đã đi làm ngay thay vì học tiếp trung học cơ sở. Một vài bậc cha mẹ dường như coi con cái mình như những cỗ máy in tiền: nhà hàng xóm của Mẫn yêu cầu mỗi cô trong số bốn cô con gái phải gửi về nhà mười nghìn nhân dân tệ một năm. Một người khác trong làng còn lập tài khoản tại ngân hàng để lương của ba cô con gái của ông ta, đang làm việc tại một nhà máy sản xuất áo len, sẽ trực tiếp đến thẳng tay ông.
Những cặp vợ chồng di trú cũng gặp phải những vấn đề tiến thoái lưỡng nan riêng. Một người chú của Mẫn làm thợ nề ở Đông Quản cùng với vợ nhưng để hai đứa con trai đang trong độ tuổi thiếu niên ở quê đi học tại trường làng, hy vọng rằng một ngày nào đó chúng sẽ học đại học. Nhưng hai đứa trở nên ngỗ nghịch vì không có ai rèn giũa. “Mặc dù con trai tôi mới mười bốn tuổi, cả ngày nó chỉ chơi bời với bọn con gái,” chú của Mẫn phàn nàn vào một lần ăn tối tại gia đình Mẫn. “Nhưng làm sao tôi có thể kiểm soát nó được? Tôi ở Đông Quản, vợ tôi cũng thế.” Con trai ông ta đứng ở góc phòng đằng kia lắng nghe. “Khi tôi bằng tuổi nó,” cha cậu ta tiếp tục, “con trai và con gái thậm chí còn không nói chuyện với nhau. Nhưng bọn trẻ bây giờ sống trong một thế giới khác rồi.”
Chỉ có một người trong làng ở độ tuổi của Mẫn mong muốn đi học đại học: Lỗ Tắc Hoàn, bạn thời thơ ấu của Mẫn. Khi Mẫn ra ngoài làm việc tại Đông Quản, Lỗ Tắc Hoàn bị suy nhược thần kinh do áp lực từ việc học ôn thi đại học. Mẫn đến thăm cô vào ngày thứ ba sau khi về nhà, Lỗ Tắc Hoàn đang ngồi trước ti vi, mặc một chiếc áo khoác vải nilon có thêu dòng chữ 450 Fifth Avenue, New York trên nắp túi trước. Giờ đây cô hiếm khi ra khỏi nhà, để tránh nghe những lời xì xào bàn tán về mình. Khi Mẫn rủ cô ra ngoài đi dạo, một vài người hàng xóm nhòm ngó Lỗ Tắc Hoàn và ngập ngừng gọi tên cô ta, bởi vì họ đã không nhìn thấy cô trong một thời gian dài.
Việc di trú tìm việc đã trở nên thông thường đến mức việc học hành có vẻ như là một vụ cá cược mang tính rủi ro hơn. Vũ Kiện Hán, bạn học của Mẫn ở làng khác, đến chơi và ở lại nhiều ngày. Cậu ta mặc quần vải đen, sơ mi trắng, đeo cà vạt kẻ sọc - ngày nào cũng một bộ đồ đầy tham vọng như vậy, thậm chí ngay cả khi cậu ta giúp bố Mẫn lợp lại mái nhà xi. Cậu ta đã tham gia kỳ thi tuyển vào đại học, nhưng anh trai cậu ta từ chối chi trả tiền học phí. “Anh ấy nói là bây giờ thậm chí sinh viên đại học cũng phải chật vật kiếm việc. Anh ấy cho rằng tôi nên đi làm ngay thay vì đi học đại học,” Vũ Kiện Hán nói vào một buổi sáng khi cậu đang quét phân gà và xác pháo hoa vương vãi trên con đường bẩn thỉu trước cửa gia đình Lỗ. “Đó là quan điểm của anh ấy. Tôi có quan điểm khác.” Vũ Kiện Hán làm việc ở Bắc Kinh, nhưng cậu ta từ chối nóì vè công việc của mình.
Mẫn và chị gái của cô nhận được sự kính trọng của dân làng vì họ đã thăng tiến lên các công việc văn phòng. Chẳng có ai khác từng tới Đông Quản, mặc dầu những nơi ưa thích khác của mọi người cũng xa tương đương: các nhà máy giày ở Ôn Châu, cách nơi đây 22 giờ đồng hồ đi xe buýt, các tiệm làm tóc ở Cáp Nhĩ Tân, cách 28 giờ đồng hồ đi tàu hỏa. “Đó là tín ngưỡng nơi đây,” Mẫn nói. “Bạn càng đi xa nhà, công việc càng trở nên vinh quang.”
***
Hai ngày trước năm mới, Mẫn tức giận với mẹ cô. Một trong những người chú của Mẫn mời cả gia đình đến ăn bữa cơm tất niên, một sự kiện chủ chốt của dịp Tết - nhưng rồi điện thoại reo với một lời mời hấp dẫn hơn. Một bà cô trẻ đẹp đang điều hành một tiệm làm tóc ở Vũ Huyệt vừa mới về nhà và mời Mẫn đi mua sắm ở thành phố.
“Sao lại phải ra ngoài khi trời đang mưa?” Đó là tất cả những gì mẹ cô nói. Bà hoàn toàn không hài lòng trước cơn giận dữ của Mẫn.
Mẫn vẫn giữ vững lập trường. “Là em làm chú bực mình, chứ không phải mẹ, vì thế mẹ chẳng liên quan gì đến chuyện này cả” cô suy luận.
Cô của Mẫn, Hoàng Thái Hà, đến nhà đón chúng tôi. Cô ta hai mươi lăm tuổi, mặc một chiếc áo khoác có thắt lưng hợp thời trang, quần bằng vải xa tanh bóng nhoáng, và đi đôi giày chạy thể thao. Điều đầu tiên cô ta làm là lôi chiếc điện thoại di động màu đỏ thẫm mở ra như hộp phấn trang điểm và chuyền tay cho mọi người cùng trầm trồ tán thưởng. Trên chuyến xe buýt ra thành phố, cô và Mẫn bàn luận về các bí quyết nhuộm tóc và hát theo những bài hát nhạc pop trong máy nghe nhạc MP3 của Mẫn. Cô của Mẫn biết hết lời của các bài hát.
Ba mươi sáu kế sách tình yêu
Giống như trò chơi
Tôi muốn điều khiển từ xa được bản thân mình.
Ba mươi sáu kế sách tình yêu
Bạn phải duy trì sự quyến rũ
Để ghi điểm và không bị loại khỏi cuộc chơi.
Mẫn kể với cô của mình là cô muốn cha mình xây một phòng tắm trong nhà. “Cha có thể đặt máy giặt trong đó, nhà mình sẽ có một chỗ để tắm rửa,” Mẫn nói. “Thậm chí còn có thể lát gạch để nó trở thành một phòng tắm thật sự.”
“Cả bình nóng lạnh nữa,” cô của Mẫn chêm vào.
“Cả bình nóng lạnh nữa,” Mẫn lặp lại, “vì vậy chúng ta có thể tắm vào mùa đông mà không bị lạnh.”
Cô của Mẫn tính toán là việc sửa sang này sẽ tốn khoảng năm nghìn nhân dân tệ, tương đương sáu trăm đô la Mỹ. “Khi đã sống ở thành phố một thời gian, suy nghĩ của con người ta sẽ thay đổi,” cô của Mẫn nói với tôi. “Bạn thường xuyên nghĩ đến việc làm thế nào để cải thiện chất lượng cuộc sống ở nông thôn.” Cô cùng chồng làm việc ở Vũ Huyệt, thuê một căn hộ ở đó, còn cô con gái bốn tuổi của hai người thì sống ở quê với bà nội. Họ dự định sẽ mang con lên thành phố ngay khi tiết kiệm đủ tiền mua một căn hộ. Vợ chồng cô đã không yêu cầu làng cấp ruộng khi họ lấy nhau; bố mẹ chồng cô vẫn đang cày cấy thửa ruộng rộng một phần ba mẫu, và thế là đủ đối với họ. “Làng quê là nhà,” cô của Mẫn nói. “Nhưng tôi không còn thấy thoải mái khi sống ở đó nữa.”
BUỔI CHIỀU HÔM ĐÓ, Quế Mẫn về nhà cùng bạn trai. Cô cao hơn Mẫn nửa cái đầu, có gương mặt thanh tú xinh đẹp và một tư thế đĩnh đạc bẩm sinh của người con cả trong một gia đình đông anh em. Khi bạn trai của cô bước vào nhà, anh ta chạy về phía cha của Quế Mẫn đang bước ra. Cậu ta cúi đầu, nói “Chào bác”, và đưa cho ông một điếu thuốc lá. Thế là xong: không cần giới thiệu, không trò chuyện, chỉ có thuốc lá - tấm danh thiếp và loại tiền tệ lưu hành trong thế giới của những người đàn ông Trung Quốc.
Trong bữa tối, cha mẹ Mẫn không nói chuyện nhiều với bạn trai của con gái. Có thể là vì ngại ngùng, hoặc là sự phản đối ngầm. Nhưng đó chính là những gì Mẫn lo sợ: họ không thể hiện sự kính trọng đúng mực đối với một người khách ở xa đến. Chàng trai, người hiểu tiếng địa phương cũng không khá gì hơn tôi, ngồi một cách lịch sự và không nói lời nào. Khi rượu nhà tự cất được rót ra, Mẫn thực hiện nhiệm vụ của mình. Cô quay sang người đàn ông mà bản thân cô coi là “anh rể”. “Xin chào mừng anh đến thăm gia đình,” cô nói, nâng cao ly rượu của mình.
***
Hầu hết những ngày sống ở làng bắt đầu bằng một cuộc điện thoại lúc rạng đông phá vỡ sự tĩnh lặng: có ai đó vừa mới về nhà. Cha mẹ Mẫn dậy sớm và di chuyển khắp nhà, đóng sầm cửa nọ cửa kia và nói chuyện oang oang trong khi những người khác đang ngủ. Ý tứ với người khác không phải là phong cách sống của làng: mọi người đều sinh hoạt theo nhóm, vì vậy họ đã thành thạo việc tảng lờ người khác.
Hầu như mọi việc đều làm theo tập thể gia đình. Trẻ em cùng thức dậy, đứng thành hàng ở mép sân, đánh răng và khạc nhổ sang sân nhà hàng xóm. Các bữa ăn đều ăn cùng nhau - rau, cơm, và luôn luôn là thịt lợn, vì một gia đình thường giết thịt một con lợn vào mùa thu và ăn thịt nó trong suốt cả mùa đông. Giờ tắm rửa cũng là một hoạt động theo nhóm: vào buổi tối, những người phụ nữ trong nhà sẽ đun một chậu nước nóng. Lần lượt, họ sẽ rửa vùng kín và chân mà không hề thay nước. Rồi những người đàn ông lại để tiếp nước nóng vào chậu và cũng làm như vậy. Những người trong gia đình tắm xà phòng cũng khá thường xuyên, nhưng thường thì việc này hoàn toàn khác so với việc cách nhiều ngày họ mới gội đầu một lần. Rốt cuộc là mọi bộ phận của cơ thể sẽ được rửa ráy sạch sẽ, nhưng hiếm khi vào cùng một lúc.
Khách khứa đến thăm ở lại chơi cả ngày, vài người ở lại mấy ngày liền. Một em họ chín tuổi của Mẫn nằm ngủ giữa chúng tôi trong nhiều đêm, rồi hai em họ đằng nhà mẹ của Mẫn đến, rồi lại đến hai anh chị họ đằng nhà bố. Vũ Kiện Hán, chàng trai mặc áo sơ mi và đeo cà vạt kẻ sọc, ở lại lâu nhất, cậu ta thích Mẫn, nhưng cô thì lại tảng lờ cậu ta. Mẹ Mẫn chuyển sang ngủ cùng các con gái, để phòng của bà cho chồng và các cậu con trai. Vào ban đêm Mẫn, mẹ cô, và tôi ngủ xoay ngược đầu đuôi trên một chiếc giường đôi, đắp một chiếc chăn lông vịt, nằm bất động như những con búp bê.