Gái công xưởng - Phần II - Chương 10 phần 1

Phần Hai: Làng quê

10. Làng quê

Sau khi Mẫn bị mất điện thoại mùa hè năm 2004, cô gây dựng
lại cuộc đời từ đầu. Cô gọi cho anh họ - số điện thoại duy nhất mà cô thuộc -
anh ta nối lại liên lạc cho cô với chị gái, với cả tôi nữa. Mẫn trở lại thị
trường tuyển dụng lao động và tìm được việc ở phòng nhân sự của một nhà máy sản
xuất túi xách của Hồng Kông. Công việc này được trả tám trăm nhân dân tệ một
tháng, không phải làm thêm giờ và được nghỉ ngày Chủ nhật. Cô mười tám tuổi,
đây là nhà máy thứ tư mà cô đến làm việc trong vòng một năm.

Tôi đến thăm Mẫn ở ký túc xá mới, ngăn nắp và mới được quét
vôi trắng toát, trên tường dán đầy tranh ảnh của các minh tinh màn bạc Trung
Quốc. Trong khi tôi và cô cùng ăn mì ở tiệm mì gần đó, tôi hỏi thăm tình hình
bạn cô.

“Ý chị là bạn trai của em à?” Cô hỏi thẳng, không dùng lối
nói vòng vo của người Trung Quốc. “Từ khi anh ấy về quê, em không có tin tức gì
của anh ấy hết.”

“Cô không nhắn tin cho cậu ấy à?” Tôi hỏi.

“Em quên mất số điện thoại của anh ta rồi.”

“Thế thì cô không thể liên lạc với cậu ta, và cậu ta cũng
không thể liên lạc với cô à?”

Cô gật đầu. “Có lẽ em sẽ gặp anh ấy ở quê vào dịp năm mới.”

Tôi hỏi Mẫn về hai người bạn của cô ở nhà máy cũ, những
người mà chúng tôi đã cùng đến thăm. “Một người tìm được việc ở một nhà máy tại
Trường Bình nhưng em không biết là nhà máy nào,” Mẫn nói. “Người kia về nhà để
đính hôn, nhưng em không biết quê của chị ấy ở đâu.” Ở quê, mọi người đều biết
nhau cả và có nhiều cách để giữ liên lạc với nhau. Nhưng bạn bè của Mẫn ở thành
phố đều không quen nhau, nên chỉ trong phút chốc, cô mất gần hết liên lạc với
những người mình biết. “Bây giờ em chẳng có bạn bè gì nữa,” cô nói.

Vì vậy cô bắt đầu lại từ đầu. Ở nhà máy mới, cô gặp A Kiệt.
Cậu ta hơn Mẫn ba tuổi, gầy như que củi, chân tay nguều ngoào, gương mặt nhỏ
nhắn đẹp trai với nụ cười rụt rè; khi nói chuyện với người lạ, cậu ta ngượng đỏ
mặt tới tận mang tai. Cậu ta làm trợ lý ở nhà máy và đáp ứng được hầu hết các
yêu cầu về người yêu của Mẫn: tốt bụng, không hút thuốc, không uống rượu hay cờ
bạc, cao hơn một mét bảy. Gần như ngay lập tức, A Kiệt bắt đầu thúc giục Mẫn
lấy cậu ta. Cô bảo cậu ta trước tiên phải dành dụm được ít tiền đã, thực ra là
cô chưa muốn nghĩ đến hôn nhân. “Em muốn để dành ít tiền làm vốn để buôn bán
nhỏ. Nếu lấy chồng sớm, thì em phải ở nhà,” cô kể với tôi. “Thà ra ngoài làm
việc cả đời còn hơn là ở nhà.”

Cô kể với cha mẹ về người yêu mới. “Cậu ta là người ở đâu?”

“Anh ấy làm cùng nhà máy với con,” Mẫn ngập ngừng nói.

“Cậu ta quê ở dâu?” Bố mẹ cô hỏi lại.

Anh chàng không phải quê ở tỉnh Hồ Bắc, đó là điều cha mẹ
Mẫn lo ngại. Ở đất nước Trung Quốc truyền thống, một cô gái trẻ lấy chồng thì
thành người làng chồng, nhưng quê chồng vẫn phải gần nhà để cô có thể về thăm
nhà những dịp lễ tết. Giờ đây việc ra thành phố có thể khiến cho hai người ở
hai làng quê cách xa nhau hàng nghìn cây số gặp gỡ và kết hôn. Đối với cha mẹ
của cô gái trẻ mà nói, đó là một thảm họa: không quen phải đi xa, họ lo lắng
rằng con gái mình lấy chồng xa sẽ gần như biến mất khỏi cuộc đời họ.

Khi Mẫn gặp chàng trai mà cô ưng ý, quan điểm của cô là biết
càng ít về xuất thân của anh ta càng lốt. “Gia đình anh có nghèo không?” Một
lần cô hỏi A Kiệt. “Nghèo lắm,” cậu ta đáp. Đó là tất cả những gì cô biết, và
thế là đủ đối với cô. “Tôi không muốn biết về gia cảnh nhà họ, cũng không mong
họ biết về gia cảnh nhà tôi,” cô kể với tôi. “Rốt cuộc thì chúng tôi phải tự
lực cánh sinh chứ.”

MÙA THU NĂM ĐÓ, cuộc sống của Mẫn xem ra đã ổn định hơn. Hầu
hết thời gian rảnh rỗi cô ở bên A Kiệt. Chị gái cô, Quế Mẫn, đã chuyển đến Đông
Quản làm việc tại bộ phận chuyển hàng ở nhà máy của Mẫn. Hai chị em chung nhau
một phòng trong ký túc xá và cùng ăn trưa với nhau hằng ngày. Mùa đông tới, cả
hai đều lên kế hoạch về thăm nhà. A Kiệt cố gắng vận động Mẫn đưa cậu ta về
giới thiệu với gia đình, nhưng cô không đồng ý; trước sự phản đối của bố mẹ, cô
cảm thấy thật khó xử. Sự dàn xếp của Quế Mẫn đối với bạn trai, quê ở tỉnh
Hồ Nam, khó khăn hơn nhiều. Trong một thời gian dài cô khẳng định sẽ không
về nhà, rồi đột nhiên lại thay đổi ý kiến, dự định sẽ mang bạn trai về giới
thiệu với gia đình. Cha mẹ cũng không tán thành chàng trai này, nhưng Quế Mẫn
hơn Mẫn ba tuổi và sẵn sàng phản kháng lại cha mẹ.

Một buổi chiều Chủ nhật tháng Một, Mẫn và tôi đi dạo trong
công viên gần nhà máy nơi cô làm việc, cùng ngồi trên bức tường thấp cạnh sân
bóng rổ. Cô mặc bộ đồ mới mua dành cho chuyến đi - chiếc quần bò đầu tiên trong
đời, áo khoác bò, và đôi bốt thấp gót. Trong ánh nắng chiều nhàn nhạt, chúng
tôi ngồi ăn cam và lên kế hoạch; cô mời tôi về thăm quê vào dịp năm mới. Ngày
hôm đó, Mẫn toàn nói chuyện về quê nhà. Rau quả ở nông thôn ngon hơn ở thành
phố, cô nói. Nếu một cái nấm dại dễ dàng bị bóp nát thì đó là nấm độc, nhưng
một cái nấm chắc khỏe thì ăn được. Khi con lợn đói, nó sẽ đứng bằng hai chân sau
kêu eng éc đòi ăn. Vào đầu năm mới gà hay bị bắt trộm, vì vậy cần phải trông
chừng thật kỹ. Công thức dưỡng da mặt tốt nhất là bột ngọc trai nghiền nhỏ trộn
với lòng trắng của trứng gà mới đẻ. Cuộc sống ở làng quê thật yên bình, nhưng
có khi cả năm trời bạn hầu như chẳng kiếm được đồng nào.

“Có bao giờ chị nghĩ đến việc về nông thôn sống không?” Mẫn
hỏi tôi.

“Về nông thôn Trung Quốc ấy à?” Tôi hỏi. “Không.”

“Chắc là vì ở đó cô đơn quá nhỉ,” cô nói.

***

Đối với những người mà cuộc đời là những chuyến đi đến vùng
miền xa lạ, có một điểm cố định trong cái vũ trụ dịch chuyển đó: ngôi làng quê
hương của họ. Nghề nông giờ đây mang lại rất ít lợi nhuận kinh tế. Những thửa
ruộng của gia đình, trung bình thường nhỏ hơn một mẫu, quá nhỏ để có thể kiếm
lời trên đó. Nhưng trên khắp đất nước Trung Quốc, nông nghiệp gia đình vẫn được
duy trì, vì đó là điều mà mọi người luôn thực hiện. Ruộng đất là sự đảm bảo hơn
là một nguồn thu nhập - đảm bảo rằng con người vẫn có cái để ăn mà sống chứ
không đến nỗi chết đói. Mối liên kết với nông nghiệp gia đình đã giữ vững sự ổn
định cho Trung Quốc trong thời đại của sự di cư hàng loạt từ nông thôn ra thành
phố. Những khu nhà ổ chuột không mọc lên như nấm ở các thành phố của Trung Quốc
như đa phần các nước đang phát triển khác, vì những người di trú nếu có gặp
thất bại thì vẫn luôn có thể trở về nhà và ở nhà luôn có người thân chào đón.
Thanh thiếu niên có thể lên thành phố kiếm việc, để bố mẹ ở nhà coi sóc mảnh
ruộng. Người chồng đang lao động ở thành phố có thể có người vợ ở nhà cày cấy
trồng trọt, hoặc đôi khi là ngược lại. Một cặp vợ chồng có thể cùng lên thành
phố kiếm ăn, để con ở nhà cho ông bà trông nom. Ở thành phố, một người di trú
trông có vẻ tuyệt vọng, nhưng hầu hết những người di trú này đều có một mảnh
ruộng ở quê hương để có thể quay về.

Về quê đón Tết âm lịch vào cuối mùa đông là sự kiện trung
tâm trong kế hoạch cả năm của người di trú - trong sáu tuần lễ trước và sau
Tết, có gần 200 triệu người lên tàu về quê. Khi năm mới sắp đến, chuyến về quê
trở thành mối bận tâm chính trong thế giới công xưởng. Sự nhảy việc ngừng lại
vì công nhân tập trung tiết kiệm tiền để về quê cho thật oách. Các cặp tình
nhân bắt đầu thương lượng chuyện tế nhị với nhau: Họ sẽ về thăm gia đình của ai
và tình trạng của mối quan hệ của họ là gì? Việc dự trù này có thể gây ra nhiều
sự đau buồn và những người di trú không hạnh phúc với số phận của mình có thể
quyết định không về quê nữa. Kỳ nghỉ Tết âm lịch là bản lề cho cả một năm - là
thời điểm để bỏ việc, nghỉ ngơi, đính hôn, bắt đầu lại từ đầu.

Việc về quê thường là cũng mệt mỏi không kém gì chuyến đi
đầu tiên tới thành phố. Hệ thống đường sắt của Trung Quốc là phần cuối cùng của
mạng lưới giao thông hoạt động vẫn gần giống như hồi còn kinh tế kế hoạch hóa
tập trung. Ngày nay ở Trung Quốc, di chuyển bằng máy bay hoặc ô tô thì tốt hơn,
cả hai loại hình giao thông này đáp ứng với nhu cầu của thị trường. Ngành hàng
không đã phát triển dịch vụ và cắt giảm chi phí, đường cao tốc liên tục được mở
rộng và nâng cấp để đáp ứng nhu cầu của ngành công nghiệp và số lượng xe hơi
ngày càng tăng. Nhưng đường sắt vẫn là lãnh địa của người nghèo.

Trong những dịp lễ tết, một người bình thường gần như không
thể mua được vé tàu với giá phải chăng. Những đại lý của ngành đường sắt để
dành vé cho những người có mối quan hệ thân thiết hoặc bán cho bọn phe vé,
những kẻ bán với giá cắt cổ. Vì việc bán vé tàu chưa được vi tính hóa, những
người bán vé không biết được ghế nào còn trống trong cả chuyến đi; trừ phi hành
khách khởi hành từ ga đầu tiên thì mới có thể lấy được một ghế có đánh số cụ
thế. Vé chỉ được bán ra vài ngày trước chuyến đi, cung cấp cho đám đông đầy lo
lắng cắm trại qua đêm ở các nhà ga. Trên những chuyến tàu kéo dài nhiều giờ
hoặc nhiều ngày, nhà vệ sinh tắc nghẽn, vòi nước không chảy, còn hành khách
ngồi xổm trên những lối đi tay ôm lấy đầu. Các hành khách hiếm khi phàn nàn, và
họ vẫn vui đùa trong những điều kiện kinh khủng nhất. Họ dành hầu hết sức lực
để trông nom mọi thứ họ mang theo. Đây là một lý do khác khiến cho các chuyến
tàu vào năm mới luôn luôn đông đúc: không người di trú nào có thể về quê mà lại
không mang theo quà.

Ở nhà, những người dân di trú quay trở lại với nhịp sống
chậm rãi của nông thôn. Tôn ti trật tự thống trị đời sống ở làng quê: những
người lớn tuổi, những người trụ cột đưa ra quyết định trong gia đình họ, sẽ lựa
chọn điều gì là tốt nhất cho cả gia đình. Một gia đình cùng ăn và cùng lao
động, ban đêm trẻ con thường ngủ với bố mẹ trên một chiếc giường rộng. Những
đứa trẻ lớn dạy dỗ những đứa nhỏ, và đứa nhỏ nghe lời. Khách khứa đến không báo
trước và ở lại nhiều ngày; những thói quen cộng đồng về việc ăn, ngủ, và ngày
nay là xem truyền hình thẩm thấu vào họ dễ dàng. Không có gì là bí mật riêng tư
ở làng quê cả.

Ở thành phố, lối sống này đã mất. Những gia đình nhỏ sống
trong những căn hộ cao tầng cạnh những người hàng xóm không phải là họ hàng của
mình. Mọi người phải xây dựng quan hệ với những người mình không biết. Những
người di trú sống một cách thoải mái giữa những người lạ, họ phải cạnh tranh để
kiếm việc làm, họ hẹn hò với những người mình thích. Mặc dù họ nhớ lại thời thơ
ấu ở làng quê với xiết bao trìu mến, thực tế là làng quê không thể gọi họ quay
về.

Đó không phải là một câu chuyện mới mẻ. Nỗi đau của một kẻ
lữ thứ quay về nhà là chủ đề cổ điển trong văn học Trung Quốc. Một trong những
bài thơ đầu tiên mà một học sinh phải học, từ thế kỷ thứ tám, là về một người
đàn ông trở về quê hương sau cả một đời lưu lạc, rồi thấy rằng ông ta không còn
thuộc về nơi đây nữa.

Xa quê khi còn trẻ, quay lại khi đã già,

Giọng quê không thay đổi nhưng thái dương đã điểm bạc.

Lũ trẻ nhìn thấy nhưng chẳng biết tôi là ai,

Cười phá lên, chúng hỏi người lạ này từ đâu đến(28).

(28) Đây là bài thơ Về quê mà
ngẫu hứng viết lên (Hồi hương ngẫu thư) của Hạ Tri Chương đời
Đường, qua bản dịch của Nguyễn Ngọc Hùng:

Trẻ đi, già trở lại
nhà

Giọng quê không đổi,
sương pha mái đầu.

Trẻ con nhìn lạ không
chào

Hỏi rằng khách lạ chốn
nào đến chơi?

***

Trong chuyến đi Mẫn mang theo một cái áo trượt tuyết, một
hộp thuốc Đông y có thành phần chính là da lừa, một cái ví Dooney & Bourke
màu hồng sản xuất tại nhà máy nơi cô làm việc, bột sữa Nestlé, một hộp bánh
quy, hai áo sơ mi nam, một hộp kẹo hình trái tim bằng nhựa, và một nghìn nhân
dân tệ - tương đương một trăm hai mươi đô la Mỹ, một tháng lương được gói chặt
thành một cục hình vuông, về tư trang cô chỉ mang điện thoại di động, máy nghe
nhạc MP3, và gương trang điểm; mọi thứ khác cô mang theo đều là quà tặng. Đó là
tháng Hai năm 2005, một tuần trước Tết âm lịch.

Chuyến xe buýt tới Quảng Châu mà chúng tôi lên trong chốc
lát đã chật kín. Một tấm biển dán trên cửa kính viết rằng: CHÀO MỪNG QUÝ KHÁCH
ĐẾN VỚI XE BUÝT CAO CẤP. VÌ GẦN ĐÂY HÀNH KHÁCH ĐÃ BỊ MẤT CẮP NHIỀU ĐỒ VẬT CÓ GIÁ
TRỊ, ĐỀ NGHỊ QUÝ KHÁCH KHÔNG NGỦ TRONG SUỐT CHUYẾN ĐI VÀ NÂNG CAO CẢNH GIÁC.
Hầu hết hành khách đều tranh thủ ngủ ngay lập tức. Xe lướt nhanh qua các nhà
máy ở hai bên đường cao tốc, nhưng tâm trí Mẫn đang ở rất xa. “Khi em còn nhỏ,
chúng em đi bộ nửa tiếng để đến trường tiểu học,” cô kể. “Có vài đứa đến từ
những ngôi làng ở cách đấy vài ngọn núi. Hồi đó vẫn còn lợn lòi và sói. Chị sẽ
không thấy lũ sói nhưng có thể nghe thấy tiếng tru của chúng. Bây giờ thì không
còn nghe thấy tiếng sói tru nữa.”

Nhà ga ở Quảng Châu cực kỳ đông đúc; hằng năm vào thời điểm
này, khoảng bốn triệu rưởi người dừng chân tại nhà ga này trên đường về nhà và
trên đường quay trở lại thành phố. Quảng trường đổ bê tông trước cửa nhà ga
được hàng rào cảnh sát cách ly thành từng khu. Cảnh sát ở khắp nơi, hét lên
những mệnh lệnh qua loa phóng thanh khiến mỗi từ của họ là một âm thanh chói
tai. Khi mọi người đi vào phòng đợi lớn của nhà ga, một cách bản năng họ trở
nên đi vội vã như chạy: là một người Trung Quốc khiến họ biết rằng không bao
giờ có thứ gì là đủ. Mẫn và tôi có ghế đã được xếp số sẵn, nhờ có một người họ
hàng của cô đi cùng chúng tôi một đoạn đường, nhưng chúng tôi cũng bắt đầu
chạy. Trong đám đông chen lấn xô đẩy, chúng tôi chen lên hai chiếc ghế cứng
trên tàu tốc hành qua đêm khởi hành lúc 7 giờ 32 phút đi Vũ Xuơng.

Cuộc sống trên tàu là cuộc sống cộng đồng, giây phút tàu
chúng tôi rời khỏi nhà ga, hành khách cư xử như thể họ đã về nhà. Họ bỏ giày và
cởi áo, chỉ mặc độc có áo lót; họ ăn quýt và cắn hạt guazi (qua tử), một
loại hạt dưa mặn. Điện thoại di động réo liên tục, nhạc chuông vui vẻ và ầm ĩ:
“Happy Birthday”, “Dixie.” Một người đàn ông ở phía bên kia lối đi trải báo
trên sàn tàu dưới ghế ngồi, cuộn mình trong khoảng không gian chật hẹp đó cho
tới khi chỉ còn phần chân dưới thò ra. Hành khách chen chúc trên các lối đi,
ngồi trên các bồn kim loại cạnh nhà tắm và lèn kín các khoảng trống giữa các
toa tàu, ngồi thành từng hàng trong những bộ đồ sẫm màu trông như đàn quạ đậu
trên dây điện.

Những chiếc xe đẩy bằng kim loại lăn bánh qua, khiến đám
đông cứ vài phút lại phải di chuyển một lần. Các xe này bán chân gà, bia ủ ấm
và xúc xích xiên que. Những người bán hàng cất tiếng rao: Sữa nóng, sữa
nóng đây, rất tốt cho sức khỏe.
Chỉ có những người có tiền mới mua đồ
ăn trên tàu. Đa số mang đồ ăn theo - trứng luộc kỹ, bánh xốp và trà xanh đựng
trong bình vặn chặt nắp có màu vẩn đục đến mức tảo mọc lên được. Vào lúc 10 giờ
45 phút, người quét dọn đi qua. Chúng tôi mới lên tàu được ba tiếng đồng hồ,
nhưng bà ta đã quét ra được cả đống rác gồm vỏ lạc, vỏ cam, cùng các vỏ chai
rỗng. Hành khách Trung Quốc là những người có tốc độ xả rác nhanh nhất thế
giới.

Với Mẫn, thời gian trôi qua thật quá chậm. Đây mới là chuyến
viễn du thứ hai trong cuộc đời cô. Cô ngó ra ngoài cửa sổ, xem đồng hồ, nghịch
nghịch cái điện thoại. Cô thường xuyên thông báo cho tôi - Chúng ta còn phải
ngồi tàu chín tiếng nữa - cho tới khi tôi phải bảo cô thôi đi. Cô mở hộp ăn vài
cái bánh quy - “Không sao,” cô bảo, “còn nhiều lắm mà” - rồi biến đi thăm anh
họ. Cô quay trở lại với một chiếc cánh gà mặn gói trong giấy bóng kính, cùng
một vài thông tin: một thủ đoạn hay gặp của bọn trộm cắp là làm sao nhãng hành
khách với một chiếc ví “nhặt được”, đồng thời thó luôn ví của anh ta.

Vừa mới qua nửa đêm, tôi nhận được tin nhắn chào mừng đã đến
Hồ Bắc, quê hương của Mẫn. Chúng tôi ngủ chập chờn. Vào lúc ba giờ sáng, một
gia đình ở phía bên kia lối đi đột nhiên tỉnh giấc, và giống như lò xo được
thả, tiếng cười nói của họ vang khắp toa xe như thể đang là giữa buổi chiều
vậy. Vào lúc 6 giờ 57 phút, chúng tôi đến ga, tạm biệt anh họ của Mẫn, rồi bắt
xe buýt về nhà.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3