Gái công xưởng - Phần I - Chương 08 phần 2

Khi vươn lên trong thế giới này, Xuân Minh đã bỏ lại rất nhiều người phía sau mình. Bạn bè từ những ngày đầu ở dây chuyền sản xuất của cô đã về quê kết hôn, sinh con đẻ cái. Hầu như tất cả các nhà máy có điều kiện tốt hơn đều không nhận phụ nữ trên hai lăm tuổi làm công nhân bình thường, những phụ nữ lớn tuổi hơn thường đến làm việc ở những nhà máy nghèo nàn hoặc làm các công việc của người giúp việc như dọn dẹp nhà cửa. Đối với phụ nữ di trú, kết giao để vươn lên tầng lớp cao hơn là một phương cách để sinh tồn - cách tốt nhất để ở lại thành phố một khi tuổi trẻ đã qua đi.

Bạn bè của Xuân Minh, những người phụ nữ tuổi cuối hăm đầu băm, đều đã sống sót qua sự đào thải hàng loạt này. Hầu hết bọn họ, đều đến từ nông thôn giống cô, cũng có một số ít lớn lên ở thành phố và đi học đại học. Họ thường điều hành các nhà máy gia công một bộ phận rất nhỏ của cả một dây chuyền cung ứng khổng lồ kéo dài từ Đông Quản ra thế giới. Một phụ nữ cùng chồng sản xuất đinh tán kim loại để trang trí các túi xách, một cặp đôi khác lại sản xuất keo dùng để dính chặt gót vào phần trên của chiếc giày. Một phụ nữ hai mươi sáu tuổi đang điều hành một nhà máy sản xuất đế giày, còn một người khác chuyên về sàn gỗ, thêm một người nữa bán vật liệu xây dựng nhưng đang cân nhắc đến chuyện chuyển sang bán buôn đồ lót. Đối với Xuân Minh, mạng lưới những người bạn này chính là gia đình. Trong những chuyến công tác bán hàng, cô thường xuất hiện ở căn hộ của một người bạn mà không hề báo trước và ở lại trong mấy ngày liền; quần áo thay ra và kem đánh răng thừa của cô rải khắp cả vùng đồng bằng sông Châu Giang. Một lần khi tôi gặp Xuân Minh ở Thâm Quyến, đã năm ngày rồi cô không về nhà, nhưng trên người chỉ mang theo một cái xắc nhỏ đủ chứa một thỏi son và chiếc điện thoại di động.

Thời gian trôi đối với những người như Xuân Minh chẳng khác gì nhìn vào một trong đám ảo ảnh thị giác hiện lên hai sự vật cùng một lúc. Ở thành phố, họ có vẻ như thuộc giai cấp trung lưu. Họ sở hữu căn hộ và xe hơi, hoặc đã lên kế hoạch mua chúng sớm. Họ tham gia các buổi tập lái xe và có những kỳ nghỉ, họ đi cắt sửa móng tay và ăn kiêng, đi học nhảy điệu Latin. Lúc nào họ cũng biết về nhà hàng thịt nướng Brazil mới nhất hoặc chỗ nào bán sữa chua ngon nhất. Vào những lúc khác, làng quê dường như đã gắn chặt vào ADN của họ và không thể xóa đi nổi. Căn hộ của những người này có thể được trang trí nội thất một cách trang nhã thẩm mỹ, nhưng trong buồng tắm thì luôn luôn có bệ xí xổm. Kiến thức y tế của họ là những tri thức dân gian học từ bà nội: để hồi phục sức khỏe sau cơn ốm họ hầm gà với sâm, khi thời tiết mát hơn, họ ăn canh phổi lợn để tránh mắc phải bệnh về đường hô hấp. Họ vẫn vượt qua những khoảng cách xa bằng xe buýt và tàu hỏa, hầu như chưa ai trong số họ từng lên máy bay. Truyền thống là thứ đầu tiên trong tâm trí những người này khi họ trở về nhà trong dịp Tết, che lấp khoảng cách họ đã đi trong nhiều năm.

XUÂN MINH HIẾM KHI NÓI VỀ những ngày đầu của cô ở nhà máy. Tôi không nghĩ rằng cô thấy xấu hổ vì nó, nói một cách chính xác - đúng hơn là cô gái từng làm việc ở dây chuyền lắp ráp đồ chơi, cô gái từng viết nhật ký và khó khăn vật vã học tiếng Quảng Đông, thuộc lòng cả mười ba quy tắc đạo đức của Benjamin Franklin, đã khác xa con người cô hiện nay trở thành. Cô vẫn làm việc không mệt mỏi để nâng tầm bản thân mình lên. Trên giá sách trong căn hộ cô ở hầu như toàn bộ là những cuốn sách dạng self-help (tự nỗ lực, dùng nguồn lực tự thân để hoàn thành mục tiêu):Một trăm câu chuyện thành công Chín chìa khóa lãnh đạo dẫn đến thành công của Mary Kay cùng một loạt sách về nghi thức xã giao với tên sách bằng tiếng Anh như Tone và Crass. (Trong tất cả các cách viết nhầm chữ class(24), đây là cách tệ nhất.) Trên tường phòng khách là một tấm ảnh lớn rất đẹp chụp Xuân Minh, môi tô son hồng bóng nhoáng và cặp tóc đính đá quý trên tóc. Căn hộ là hình ảnh phản chiếu của tính cách cô - cẩn thận tinh tế, không ngừng tự xem xét nội tâm.

(24) Class nghĩa là lớp học, tầng lớp, giai cấp; còn crass là thô bỉ, đần độn.

Mọi thứ đều là cơ hội học tập. Từ những bộ phim truyền hình dài tập Hàn Quốc, Xuân Minh học được rằng phải cầm nĩa bằng tay phải và thìa trong tay trái, nhưng nĩa lại ở tay trái khi có dao ở tay phải. Cũng ở trên phim truyền hình Hàn Quốc, cô đã nhìn thấy những hộp nhựa Tupperware đựng thức ăn lần đầu tiên. Một lần tôi đưa cho cô DVD của bộ phim Roman Holiday(25) - cô đã hỏi xin tôi vài bộ phim Mỹ - và qua những sản phẩm giải trí của Hollywood cô đã đúc kết được một bài học đạo đức của những người theo chủ nghĩa Mác. “Nhà báo nghèo có thể kiếm được rất nhiều tiền nhờ câu chuyện về công chúa,” cô tổng kết lại cốt truyện với tôi. “Khi anh ta từ bỏ cơ hội để kiếm một khoản tiền lớn, giá trị đạo đức của anh ta tăng lên.” Cô không biết Audrey Hepburn là ai, nhưng dứt khoát nói rằng bà “không đẹp bằng Julia Roberts.”

(25) Một bộ phim hài lãng mạn năm 1953, do Audrey Hepburn và Gregory Peck thủ vai chính. Trong phim Audrey Hepburn đóng vai công chúa còn Gregory Peck là chàng phóng viên nghèo. Hai người đã có một ngày lãng mạn bên nhau khi chàng phóng viên đưa công chúa đến một thế giới mà nàng chưa từng biết đến.

Xuân Minh không bao giờ ngừng quan sát, ở một góc độ nào đó, cô cũng đang ghi chép về tôi theo cách mà tôi ghi chép về cô vậy. Lần đầu tiên chúng tôi hẹn gặp nhau, cô chọn địa điểm - Nhà hàng Cà phê phương Tây kiểu châu Âu - và gọi đúng những thứ tôi gọi, mì spaghetti Bologne. Cô để ý thấy tôi thường uống bia trong bữa tối, thế rồi một hôm cô bảo rằng mình đã tự tập uống riêng và giờ cô có thể uống một cốc với tôi. Cô hỏi tôi sao tôi lại thích món bíp tết của mình, đàn ông nước nào chu đáo nhất, rồi cả các bà mẹ người Mỹ nuôi dạy con mình thế nào nữa. Cô liên tục thử nghiệm một phiên bản mới của chính mình: nhuộm tóc, hoặc làm xoăn, hoặc ép thẳng. Quần áo cô lúc nào cũng rất hợp, tôi chưa bao giờ thấy cô mặc một bộ hai lần cả.

Trước khi tôi đến Đông Quản, hầu hết người Trung Quốc mà tôi quen đều thuộc về tầng lớp được giáo dục đầy đủ, và họ cảm nhận một cách sắc sảo những khác biệt giữa chúng tôi. Họ muốn biết xem tôi nghĩ mình là người Mỹ hay người Trung Quốc, họ luôn ngạc nhiên, thậm chí còn không hài lòng khi nhận ra tôi không thể đọc tiếng Trung Quốc một cách thông thạo, hoặc tôi hẹn hò với những người đàn ông Mỹ. Họ thuyết giáo với tôi về dân chủ và cuộc chiến tranh Iraq, cũng như sự bất lực của báo chí nước ngoài trong việc tìm hiểu Trung Quốc. Đất nước của họ đã trải qua 150 năm lệ thuộc vào phương Tây, đoạn lịch sử rắc rối này lúc nào cũng nổi lên giữa chúng tôi bất cứ khi nào chúng tôi nói chuyện. Đó là thế giới của ông nội tôi, của tất cả họ hàng gia đình tôi, thế giới mà nhiều người Trung Quốc vẫn còn sống trong ấy.

Xuân Minh và bạn bè cô không hề quan tâm chút nào đến chuyện đó. Họ không quan tâm đến chuyện tiếng Trung của tôi thật tồi tệ và tôi không biết tên của những nhà văn Trung Quốc nổi tiếng, họ không bao giờ hỏi xem quan điểm của tôi về dân chủ như thế nào. Họ sinh ra trong hoàn cảnh thiếu nhiều điều kiện thuận lợi nhưng đồng thời cũng không có cả gánh nặng của đất nước đè lên những người được giáo dục đầy đủ, đặc biệt là đàn ông. Khi tôi gặp một trong những người bạn nam của Xuân Minh, những mối ưu tư này thường nổi rõ lên bề mặt. Có lần, một người bạn làm bác sĩ phẫu thuật của cô, tên anh ta là A Cường, hỏi tôi làm gì, tôi bảo anh ta mình đang viết một cuốn sách về những người phụ nữ di trú.

Nanfengchuang (Nam phương song - cửa sổ phương Nam)có rất nhiều bài về vấn đề đó,” anh nhắc đến một tờ tạp chí tin tức của Trung Quốc. “Cô chỉ cần dùng lại các bài viết của họ và tiết kiệm cho mình được vô khối thời gian.”

Xuân Minh cười phá lên. “Những người khác nhau có cách nhìn của riêng họ,” cô nói. “Có thể chị ấy nhìn sự việc theo cách khác những người khác, đó mới là điều mà chị ấy muốn viết.”

Tôi cảm thấy mình muốn đứng phắt dậy và cổ vũ cô.

Xuân Minh quay sang phía tôi. “Đúng vậy không?”

“Đúng thế.”

A Cường vẫn khăng khăng. “Cô nên viết về những vấn đề của hiến pháp Trung Quốc,” anh ta nói với tôi. “Chúng ta có một hiến pháp tốt đẹp đến thế, nhưng khi xuống đến cơ quan chính quyền cấp thấp nhất, những công chức đã làm trái nó.”

“Điều đó quá xa vời với những gì chị ấy đang viết!” Xuân Minh cáu kỉnh thốt lên. Cô lấy điện thoại di động ra và bắt đầu đọc tin nhắn, một dấu hiệu cho thấy cuộc đối thoại đã kết thúc.

Xuân Minh hiểu tôi một cách bản năng. Theo một ý nghĩa nào đó, cô cũng đang có những dự định giống với tôi: quan sát cuộc đời từ một góc nhìn khác và viết câu chuyện của riêng mình. Cô đã cất giữ tất cả những cuốn nhật ký từng viết từ khi rời nhà ra di. “Một ngày nào đó, nếu tôi có tiền của, tôi sẽ viết,” cô nói với tôi. “Tôi sẽ chỉ viết về những thứ đơn giản nhất, bình dị nhất thôi.”

***

Một buổi tối Chủ nhật tháng Mười hai năm 2004, Xuân Minh mời tôi đến một nhà hàng Hồ Nam cùng các bạn cô: một y tá tên là A Ninh, có nước da rất trắng và chất giọng kim hấp dẫn, còn có hai chàng trai trẻ làm quản lý trong một nhà máy. Xuân Minh trông rất sành điệu trong chiếc áo len đen và quần kẻ ca rô ống rộng, cô mang một chiếc túi Fendi nhái. Hai người đàn ông mặc áo bảo hộ lao động của nhà máy.

Ngay khi tôi vừa ngồi xuống, một trong hai người đàn ông trẻ tuổi quay sang tôi hỏi. “Theo ý chị thì đâu là sự khác biệt giữa Kerry và Bush?”

“Anh ta đang cố làm chị nói ra chị bầu cho ai đấy,” Xuân Minh nói.

“Tôi bầu cho Kerry,” tôi miễn cưỡng nói. Tôi không thực sự muốn cuộc nói chuyện đi theo chiều hướng này.

“Chị có nghĩ Trung Quốc đã sẵn sàng cho dân chủ không?” Anh ta hỏi. Anh ta không nghĩ như vậy. “Nếu chúng tôi có thể bầu cử,” anh ta nói tiếp, “tôi sẽ bầu cho Tưởng Giới Thạch. Tôi nghĩ ông ta là một nhà lãnh đạo giỏi.” Tiếp sau đó là: “Chị cảm thấy mình Trung Quốc hơn hay Mỹ hơn không?”

Ba chai bia Thanh Đảo xuất hiện trên bàn ăn. Người đối thoại với tôi tỏ ra thích thú rõ rệt: điều duy nhất hay hơn dồn ép tôi với chính trị là dồn ép tôi với cả bia lẫn chính trị. “Tối nay phải say đấy nhé,” anh ta tuyên bố.

Xuân Minh lên tiếng giải vây cho tôi. “Tôi nghĩ cứ ép uổng nhau uống thì thật ngu ngốc,” cô nói.

A Ninh nhanh chóng đổi chủ đề câu chuyện. Cô vừa mới đăng ký tham gia một lớp nhảy hiện đại ở câu lạc bộ sức khỏe.

“Tôi cũng muốn học nhảy!” Xuân Minh nói. “Tôi muốn học điệu cha cha cha.”

“Tôi muốn học yoga,” A Ninh lại nói.

Nói đoạn, cô quay sang tôi. “Chị có biết pha đồ uống không?”

“Đồ uống loại gì?” Tôi hỏi.

“Kiểu như cocktail ấy,” cô nói.

Tôi nói mình chỉ biết vài loại cơ bản.

“Tôi thực sự muốn học cách pha chế đồ uống,” A Ninh nói. “Thậm chí tôi sẽ làm việc không công ở một quán bar chỉ để học thôi.”

“Vừa mới rồi tôi đi dự tiệc với khách hàng ở một khách sạn,” Xuân Minh nói. “Có nhiều người nước ngoài ở đấy lắm, và chúng tôi uống rượu ngâm lạnh trong ly. Tôi cầm ly rượu ở phần trên, nhưng có người bảo tôi rằng ta phải cầm nó ở dưới chân.” Đôi mắt cô mở to, theo cách chúng vẫn thế khi cô ngạc nhiên hay hứng thú về điều gì đó. “Thật là nhiều quy tắc! Nhưng học các thứ ấy cũng hay, vì trong đời thế nào chẳng có lúc ta phải tham gia các bữa tiệc kiểu thế chứ.”

Chàng trai trẻ cố gắng trở lại cuộc nói chuyện bằng cách hỏi Xuân Minh làm việc gì. “Công ty tôi là công ty có vốn đầu tư nước ngoài,” cô nhạt giọng nói. Tôi không nghĩ cả hai người đàn ông nói thêm tiếng nào suốt nửa sau của bữa ăn. Sau khi ăn xong, Xuân Minh và A Ninh đẩy cả hai người bọn họ vào một chiếc taxi. Họ sống ở một khu vực xa trung tâm thành phố, điều này có nghĩa là phải ngồi xe mất một tiếng mới về đến nhà.

Chúng tôi bắt một chiếc taxi khác để đến xem một câu lạc bộ sức khỏe có tổ chức lớp dạy yoga. Xuân Minh ngả người ra sau ghế và thở hắt ra một tiếng. Anh chàng đó là người cùng quê Hồ Nam với cô, Xuân Minh kể với tôi, anh ta được một người bạn muốn ghép đôi cho họ giới thiệu. Anh chàng này đã gọi điện cho cô buổi chiều hôm đó và nói anh ta chỉ ở thành phố một ngày. “Anh ta cùng huyện với tôi, nếu không tôi đã chẳng mời anh ta đi ăn tối,” cô nói.

“Anh ta thật trẻ con!” A Ninh lên tiếng.

“Anh ta không chấp nhận dược,” Xuân Minh đồng tình. “Anh ta chẳng biết nói cái gì. Và lại còn nhỏ hơn tôi ba tuổi nữa chứ.”

Tôi không nói gì hết - lúc đó tôi cảm thấy hơi tiếc cho chàng trai kia. Đồng thời tôi cũng nhận ra rằng tôi vừa mới lần đầu tiên tham gia một cuộc hẹn hò sắp đặt kiểu Trung Quốc.

Ở CÂU LẠC BỘ SỨC KHỎE, lớp dạy nhảy đã kết thúc, lớp yoga chỉ có hai buổi một tuần và không có huấn luyện viên nào ở đó. A Ninh bỗng nhiên nhận ra chúng tôi đang ở gần câu lạc bộ Kết bạn. “Không hiểu tối nay có hoạt động gì không nhỉ. Đi xem nào!” Chúng tôi đi dọc xuống phố và lên cầu thang để vào câu lạc bộ. Phòng chính vắng hiu vắng hắt: không có hoạt động kết bạn nào tối nay cả. Xuân Minh và A Ninh ngồi xuống và bắt đầu lật qua những gáy bìa của các thành viên nam trong câu lạc bộ. “Có bao nhiêu là phụ nữ đẹp, vậy mà hãy nhìn đám đàn ông này đi!” Xuân Minh thốt lên.

Cô lật rất nhanh. “Tôi nhìn ảnh trước,” cô nói. “Chị không thể chỉ nhìn ảnh mà bảo người nào tốt ở điểm nào. Nhưng ảnh rất hữu ích để lọc ra những người thực sự tệ hại.” Cô chỉ vào một người đàn ông béo lùn với gương mặt khắc khổ bất hạnh, đứng bên cạnh một hàng rào giả. “Chỉ có những người ở tầng lớp thấp nhất mới vẫn còn chụp ảnh trong hiệu. Cái kiểu như vậy tôi làm từ mười năm trước rồi! Chụp ảnh trong công viên hay ở khung cảnh thiên nhiên đẹp hơn nhiều.”

Có vẻ như A Ninh đã hẹn hò với một tỷ lệ đáng kể các thành viên nam trong câu lạc bộ. Cô chỉ cho tôi tấm ảnh một người đàn ông dựa lưng vào cái cây. “Anh ta trông có vẻ cao ráo, nhưng thực ra không phải vậy đâu. Chẳng qua chỉ vì anh ta đứng bên cạnh cái cây này thôi.”

Cô lật qua một tấm ảnh khác. “Thằng cha này trông mặt thì có vẻ tử tế, nhưng thực ra anh ta chẳng tốt đẹp gì đâu.”

Lật. “Ông này bốn mươi tám tuổi rồi. Tôi bảo ông ta: kể cả cháu chấp nhận được chú thì bố mẹ cháu cũng không chịu đâu.”

Lật. “Người này có vấn đề tâm lý đấy. “

A Ninh vừa mới ly dị nên rất hăng hái tìm bạn trai. Cô đã hẹn hò với hơn hai mươi người đàn ông trong câu lạc bộ và có lần còn đi tới bốn cuộc hẹn hò do người khác sắp xếp trong cùng một ngày. “Tôi gặp một gã nói gã ta sống rất hạnh phúc trong căn phòng tám mét vuông đi thuê,” A Ninh kể với tôi. “Tôi nói: Ồ, thật hả? Anh sống hạnh phúc trong căn phòng tám mét vuông của anh à?” Một cuộc hẹn được sắp xếp với một thầy giáo cũng thất bại nặng nề. “Khi anh ta nhai xong kẹo cao su, anh ta nghịch nó trên mấy ngón tay. Tôi không thể chấp nhận nổi. Người này là một thầy giáo! Anh ta dạy lũ trẻ con cơ mà!”

“Mỗi lần sau khi gặp một gã như thế,” A Ninh thốt lên, “Tôi thấy mình muốn khóc.”

“Sau khi gặp một tên như thế,” Xuân Minh nói, “Tôi thấy buồn nôn.” Cô nhặt một tấm bìa lên - NỮ 74 - cho tôi xem ảnh của cô. Một tấm ảnh đen trắng theo kiểu hơi mờ mờ rất tinh tế chụp Xuân Minh trông rất nữ tính với mái lóc tỉa - có lẽ là quá tinh tế, vì chỉ có hai người đàn ông gọi điện cho cô sau khi xem ảnh. Điều kiện ban đầu cô đặt ra cho bạn đời của mình là: TỬ TẾ, TRUNG THỰC, HÀI HƯỚC, CÓ CĂN HỘ. Cô là người duy nhất tôi thấy có nhắc đến tính hài hước.

“Căn hộ không phải là yêu cầu tuyệt đối,” cô nói. “Chúng tôi có thể mua chung một căn hộ. Tôi chỉ có ý rằng tôi sẽ thích hơn nếu anh ta có một căn hộ.” Nhưng cô tuyệt đối không hẹn hò với ai thấp hơn một mét bảy, vì một người đàn ông thấp không đem lại cho cô cảm giác an toàn.

SAU KHI CHÚNG TÔI RỜI CÂU LẠC BỘ, A Ninh kể chi tiết hơn về người đàn ông mắc bệnh tâm thần. “Tôi hẹn hò với gã ta một lần và gã kể với tôi mình đã phải vào viện hai tuần vì có xu hướng tự tử,” cô nói. “Đầu tiên tôi có cảm giác mình nên giúp gã, vì tôi là một y tá. Nhưng sau đó tôi quyết định mình không nên dính vào chuyện này.”

Người đàn ông đó vẫn tiếp tục gửi tin nhắn vào điện thoại di động của cô những lúc rảnh rỗi. “Tôi thực sự không hiểu tại sao một người mắc bệnh tâm thần lại có thể là giám đốc tài chính của một khách sạn năm sao được,” A Ninh nói.

“Gã nói dối cậu đấy, thế thôi,” Xuân Minh nói.

Chúng tôi đi vào tiệm sữa chua đá TCBY, ở đây Xuân Minh băn khoăn mãi rồi cuối cùng mới quyết định gọi một món mứt trộn sữa chua đá với bánh kem việt quất. Cô chỉ cho A Ninh rằng, người đang có kinh không được ăn thứ gì lạnh, vì vậy bạn cô đã gọi một cốc sữa dâu nóng. Nó có màu hồng của hóa chất, trông giống như chất thải công nghiệp vậy.

Chuyến thăm câu lạc bộ Kết bạn cũng không phải vô ích. Cuối tuần này có một hoạt động mới gọi là Hẹn hò Tám phút, A Ninh giải thích những gì cô đã nghe được về kiểu hẹn hò cấp tốc này. Xuân Minh rất hứng thú tham gia. Cô thích thử nghiệm những thứ mới và là người lạc quan từ trong bản tính. Những phẩm chất ấy đã giúp cô trụ vững ở Đông Quản, cho dù chúng là điều may mà cũng không may khi hẹn hò.

“Vấn đề là,” A Ninh nói, “đôi khi tám phút cũng là quá lâu.”

***

Cuộc sống trong thành phố thay đổi những gì người phụ nữ trẻ đến từ nông thôn mong đợi ở hôn nhân. Những cuộc điều tra cho thấy di trú khiến phụ nữ nông thôn có nhiều khả năng tự gặp người chồng của mình hơn, kết hôn muộn hơn, muốn có ít con hơn, sinh nở trong bệnh viện, tìm kiếm sự bình đẳng trong hôn nhân, và coi ly dị như một lựa chọn có thể chấp nhận được. Hơn 60% phụ nữ di trú trong một cuộc điều tra đã chỉ ra cả “xây dựng một gia đình hạnh phúc” và “có đồng bạn trong nỗ lực xây dựng sự nghiệp” là mục đích của hôn nhân, trong khi ít hơn 10% chọn “có ai đó để dựa dẫm trong đời”.

Trong xã hội truyền thống, một phụ nữ trẻ sẽ sống với gia đình nhà chồng sau khi cô kết hôn và phục tùng các quy tắc của mẹ chồng. Cô sẽ sinh con trong gia đình nhà bố mẹ chồng, tượng trưng cho quyền sở hữu của gia đình chồng với đứa bé. Nhưng sự di trú đã giải phóng thế hệ trẻ hơn khỏi những nghĩa vụ ấy: các cặp vợ chồng ở thành phố thường tự chi trả cho đám cưới của mình, một phụ nữ di trú thường sẽ tạm trở về nhà mình khi sắp sinh nở hơn là nhà của gia đình chồng cô.

Trong một thời gian dài, các học giả tin rằng phần lớn phụ nữ di trú cuối cùng cũng trở về làng quê của mình để kết hôn, sinh con đẻ cái và làm việc trên đồng ruộng. Rất nhiều người di trú trong những năm 1980 và 1990 đã đi theo con đường này, nhưng vận mệnh của lớp người di trú mới hơn đang thay đổi. Nhiều phụ nữ trẻ đang kết hôn với những người di trú khác và xây dựng gia đình ở những thành phố thu dưỡng họ. Nếu họ có trở về tỉnh nhà, họ thường chuyển đến một thành phố cấp tỉnh hơn là trở về ngôi làng nơi họ sinh ra. Và hôn nhân không nhất thiết đánh dấu sự chấm dứt cuộc đời di trú: các cặp vợ chồng trẻ thường trở về quê làm đám cưới rồi lại cùng nhau ra đi.

Thời gian ở chung với Xuân Minh và các bạn cô đã thuyết phục tôi rằng hiểu biết từ trước đến nay - hầu hết phụ nữ di trú cuối cùng cũng trở về với đồng ruộng - là sai sót. Mọi người trong nhóm họ đều đã xa quê nhiều năm, sự thực rõ ràng là họ sẽ không bao giờ trở về đó. Nhưng vì việc đổi hộ khẩu rất rắc rối và đắt đỏ, nên họ cũng không được coi là cư dân Đông Quản. Các học giả nghiên cứu những người di trú trở về thực hiện điều tra ở các làng quê nông thôn, nơi họ chỉ có thể kết luận rằng, một người giống như Xuân Minh đang tạm thời vắng nhà. Họ không thể thấy rằng cô đã định cư ở một nơi nào đó khác.

***

Xuân Minh đã có hai cuộc hẹn hò ở câu lạc bộ Kết bạn. Lần đầu tiên, một người đàn ông đi taxi từ phía bên kia thành phố Đông Quản tới. Cô đi xuống để gặp anh ta trên vỉa hè bên ngoài khu căn hộ của mình. Họ nhìn nhau một lúc lâu.

“Chào em,” anh ta nói.

“Chào anh,” cô đáp.

“Anh thấy em thật xinh đẹp,” anh ta nói.

“Chỉ là bạn thôi nhé,” cô nói. Chiếc taxi vẫn chưa đi, vậy là người đàn ông trở lại trong xe và đi mất hút.

Cuộc hẹn thứ hai diễn ra ở một nhà hàng sữa đậu nành gần căn hộ của Xuân Minh. Người đàn ông bị lạc và đến muộn nửa tiếng, vì vậy cô bắt đầu ăn một mình. Đã chín giờ sáng. Khi đối tượng hẹn hò của Xuân Minh xuất hiên, anh ta lấy làm khó chịu vì Xuân Minh đã bắt đầu ăn mà không có anh ta. Anh ta cố giành quyền ra lệnh và gọi cho cô một bát xúp, nhưng cô đã từ chối.

“Anh ta gọi xúp nóng và sữa đậu nành lạnh,” Xuân Minh kể với tôi. “Chị có tưởng tượng được không? Một chất lỏng nóng và một chất lỏng lạnh: đấy là bữa sáng của anh ta đấy.”

Sau màn dinh dưỡng bằng chất lỏng, tay kia đề nghị họ đi dạo cùng nhau. “Chín giờ sáng và anh ta muốn đi dạo bộ!”

Xuân Minh bảo anh ta rằng cô phải làm mấy việc, nhưng tay kia không hiểu ẩn ý. “Cứ chỉ là bạn thôi đã nhé,” Xuân Minh nói. Cuối cùng anh ta cũng hiểu ra. Sau vụ đó Xuân Minh đã bỏ cuộc ở câu lạc bộ Kết bạn. Cô đặt niềm tin nhiều hơn vào chuyện gặp gỡ qua mạng Internet, phương thức mà cô tin rằng sẽ đưa đến những người đàn ông ở tầng lớp cao hơn.

Một hôm khi tôi đến thăm căn hộ của cô, Xuân Minh cho tôi xem dịch vụ chat QQ hoạt động như thế nào. Khi bạn vào mạng, bạn có thể kéo xuống một danh sách tất cả những người đang trên mạng trong lúc đó, chọn ra những đặc điểm như quê ở tỉnh nào, hộ khẩu thành phố nào, tuổi tác và giới tính. Cô cảnh báo tôi rằng người ta nói rất nhiều về sex. “Có những thứ chúng tôi không thể nói trong thế giới thực,” cô giải thích, “vì vậy chúng tôi nói chúng ra ở trên mạng.”

Cô lên mạng được vài phút thì có một người đàn ông tiếp cận. Anh ta là bạn của một người bạn và đã được giới thiệu cho cô như một người có tiềm năng làm bạn trai.

Anh đang làm việc à?

Phải, còn em?

Không, em ở nhà.

Em ở đâu?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3