Gái công xưởng - Phần I - Chương 07 phần 2
Việc học ở Đông Quản diễn ra ở những nơi cơ sở hạ tầng nghèo nàn. Lớp học trơ trọi, tối tăm và hay mất điện, còn máy tính bẩn thỉu và cổ lỗ sĩ như thể chúng được các nhà khảo cổ học tìm ra. Các học viên nghèo và có trình độ giáo dục không đồng đều, thậm chí cả các giáo viên cũng phải xin lỗi vì giọng địa phương rất nặng của mình. Hầu như là không có giảng viên nào có bằng cấp tử tế; rất nhiều người, giống như thầy giáo Đặng, mang theo một chuỗi những công việc thất bại phía sau lưng. Nhưng dù vậy, họ vẫn mang khí chất cách mạng.
Trong hệ thống trường học Trung Quốc thông thường, sinh viên không nói trong giờ học, thậm chí họ thường không ghi chép cho tới khi nào giáo viên bảo họ làm vậy. Họ học theo chương trình giảng dạy được quyết định bởi một hội đồng của chính phủ. Các giáo viên để sinh viên cạnh tranh ganh đua lẫn nhau hòng khiến họ học tập chăm chỉ hơn, toàn bộ hệ thống xoay quanh các kỳ thi cử - một kỳ thi để vào trường trung học cơ sở tốt, tiếp đó là trường trung học phổ thông tốt, cuối cùng là một trường đại học tốt, hoặc bất cứ trường đại học nào. Giống như kỳ khoa cử thời phong kiến, hệ thống giáo dục được thiết kế để tưởng thưởng cho số ít hằng năm, chỉ có khoảng mười một phần trăm số người đến tuổi sinh viên vào được trường đại học. Những người trượt khỏi con đường ấy được chuyển hướng sang các trường dạy nghề để học những kỹ năng có thể kiếm được việc làm như vận hành máy móc công cụ và sửa chữa ô tô, nhưng về cơ bản, chương trình học đã quá lỗi thời đến nỗi các trường học hoạt động giống như là giữ chân học viên cho đến khi họ ra ngoài làm việc hơn là giảng dạy.
Trung Quốc đang cố gắng cải cách lại hệ thống giáo dục của mình. Một số giáo viên nêu cao khẩu hiệu “giáo dục chất lượng,” nhấn mạnh vào khả năng sáng tạo và sự chủ động của sinh viên hơn là học vẹt học gạo. Nhằm mục đích ấy, những trường học giàu hơn và cấp tiến hơn đã đưa ra những môn học tự chọn như nghệ thuật và âm nhạc. Một mục tiêu nữa là làm cho nền giáo dục đại học dễ tiếp cận hơn: trong những năm gần đây, chính phủ đã tăng mạnh chỉ tiêu đại học. Nhưng giáo dục vẫn là một trong những vấn đề thủ cựu nhất trong xã hội Trung Quốc, nặng gánh với những giáo viên và nhà quản lý bảo thủ, những ràng buộc chính trị và nỗi ám ảnh xưa nay về điểm thi.
Các trường học thương mại ở Đông Quán thuộc về một thế giới khác. Không mang gánh nặng của lịch sử, họ được tự do dạy thứ mà họ muốn. Họ tập trung một cách không hề ngượng ngập vào các kỹ năng thực hành, giáo viên sử dụng tài liệu từ Internet hoặc từ kinh nghiệm của chính họ khi làm việc tại các nhà máy hay công ty. Họ không ép các học viên phải cạnh tranh với nhau và cũng không xếp hạng xếp thứ. Vì mọi sinh viên đều ở đó để nâng cao khả năng thành công trong công việc của họ, nên xếp thứ trong lớp học là điều thừa thãi. Họ bỏ qua kỹ năng viết - nền móng của nền học thuật truyền thống - mà ưu đãi nhiều cho khả năng nói trước công chúng. Biết cách nói sẽ giúp các học viên giành được công việc tốt hơn, có được báo giá thấp hơn, hoặc bán được nhiều hơn bất cứ cái gì mà họ bán. “Tất cả chúng ta đều ở trong ngành kinh doanh hết,” các giáo viên của lớp Công sở nhắc nhở những học viên của mình hết lần này đến lần khác. “Chúng ta bán cái gì? Chúng ta bán mình.”
Các giáo viên đến từ những nhánh giữa và thấp hơn của ngành công nghiệp. Thầy giáo Đặng từng làm việc cho các công xưởng ở Đông Quản trong mười năm. Thầy giáo Đoan Mộc, dạy môn hùng biện từng là nhân viên bán hàng cho một công ty điện tử, trong khi đó, một phụ nữ trẻ từng làm việc cho hãng luật giờ dạy môn Nghi thức xã giao và trang điểm. Hầu hết các giáo viên đều tầm hai mươi đến ba mươi tuổi. Cũng như những học viên của mình, họ đến Đông Quản từ nơi nào đó khác để gây dựng nên sự nghiệp của mình; khác với hầu hết những người Trung Quốc được giáo dục tốt, các giáo viên không coi thường công nhân di trú. “Những cô gái này giỏi hơn tôi rất nhiều,” thầy giáo Đoan Mộc nói với tôi sau buổi học đầu tiên của anh. “Để rời bỏ quê hương và làm việc trong nhà máy, điều đó cần rất nhiều sự tự tin.”
Thành phần lớp học ở Đông Quản chủ yếu là nữ; một cuộc điều tra với đối tượng là bốn nghìn công nhân ở gần Thâm Quyến cho thấy một phần ba trong số họ đã đăng ký học các lớp thương mại, tỷ lệ phụ nữ đi học nhiều hơn đàn ông. Các phụ nữ trẻ bắt đầu với kiến thức nền ít hơn, phản ánh truyền thống trọng nam khinh nữ của cha mẹ họ. Họ cảm thấy bức thiết cần phải vươn lên hơn: các gia đình thường gây áp lực buộc con gái phải về quê và kết hôn, nhưng một công việc tốt hơn sẽ làm cha mẹ họ im lặng và nâng cao cơ hội hôn nhân. Sự mất cân bằng giới ở Đông Quản có lẽ cũng là một nguyên nhân - trong một công xưởng hầu hết toàn là phụ nữ, học tập là một cách để không bị thua cuộc. Trong một nhà máy có một nghìn hoặc một vạn con người, rất khó để ông chủ có thể phát hiện ra bạn. Bạn phải tự phát hiện ra mình.
Khi tôi tham dự hết một khóa học của lớp Công sở, tôi nhận ra rằng mình đang là nhân chứng của một cuộc cách mạng bí mật trong ngành giáo dục Trung Quốc. Những người bị từ chối bởi hệ thống giáo dục truyền thống được trao cho cơ hội thứ hai. Các nhà máy cũng dang vươn đến lĩnh vực đào tạo con người. Những lớp học này không hề có thứ bậc và cũng không có thi cử kiểm tra, đó là điều thích hợp. Bài thi chính là thế giới bên ngoài lớp học, chính là cuộc đời.
***
Từ màu sắc quần áo, các cô gái ở lớp Công sở tiếp tục học cách sử dụng cử chỉ tay và cách đứng, ngồi, gập chân, bước đi, mang tài liệu và ngồi xổm để nhặt thứ gì đó trên sàn văn phòng. Một phụ nữ nên ngồi trên khoảng từ một phần ba đến một nửa chiếc ghế của cô ta. sử dụng điệu bộ một cách tự nhiên, không gượng ép. Đầu tháng Năm, thầy giáo Phó dành cả một buổi học giảng về phép xã giao trong khi ăn uống, và dự tiệc. Anh ta viết lên tấm bảng đen những quy tắc khi tham dự một bữa tiệc buffet.
1. Xếp hàng để lấy thức ăn.
2. Lấy thức ăn theo thứ tự.
3. Đi nhiều lượt nhưng mỗi lượt chỉ lấy một chút.
4. Chỉ lấy một ít thức ăn để chúng không trộn lẫn vào nhau.
5. Không mang đồ từ một bữa tiệc buffet về nhà.
Uống rượu đóng vai trò quan trọng trong việc thích ứng với môi trường làm việc ở Trung Quốc, mặc dù chuyện ép uống liên tục sẽ biến niềm vui thích thành nhiệm vụ khủng khiếp. Những hướng dẫn của thầy giáo Phó về chuyện sử dụng chất cồn rất chi tiết và không chút khoan dung. Theo như anh ta, uống rượu là công việc.
Thứ tự những người các bạn chạm cốc nên giống như thứ tự những người các bạn bắt tay. Các bạn phải bắt đầu với người quan trọng nhất hoặc lớn tuổi nhất và lần lượt đến những người thấp hơn.
Các bạn phải tránh không để bị say.
Để hòa nhập với mọi người ở Trung Quốc, các bạn phải học cách uống rượu, cũng như đàn ông phải hút thuốc lá vậy thôi.
Trước khi tham dự một bữa tiệc, các bạn nên ăn hoặc uống thuốc nếu bị dị ứng với chất cồn.
Sau đó thầy giáo Phó chuyển qua những phép xã giao trong một bữa ăn kiểu phương Tây. Anh ta viết lên bảng:
Món khai vị→bánh mì→xúp→món chính→món tráng miệng→hoa quả→thức uống nóng.
“Tôi lấy những thông tin này trên mạng Internet,” anh ta nói, “nhưng tôi chưa bao giờ dự một bữa ăn kiểu phương Tây cả. Nhưng hôm nay chúng ta rất may mắn vì có nhà báo Trương, cô ấy lớn lên ở Mỹ.” Anh ta chỉ tay về phía tôi. Tôi đứng lên và bước lên phía trước căn phòng. Bước vào một căn phòng như thể bạn sở hữu nó.
Tôi nói cho cả lớp biết ở thời điểm nào trong chuỗi trên thì ta có thể gọi một ly rượu. Sau đó tôi giải thích đôi khi ta không có cả món khai vị và xúp. Tôi còn nói thêm rằng có vẻ như là có rất nhiều thức ăn, và đúng là như vậy, đó là lý do tại sao rất nhiều người Mỹ mắc bệnh béo phì. Các học viên chép lại mọi thứ ấy.
“Có ai muốn hỏi gì không?”
Thầy giáo Phó giơ tay lên. “Tôi luôn băn khoăn một điều: món khai vị là những món gì?”
Tôi giải thích về các loại salad và đồ biển khác nhau.
Thầy giáo Phó lại giơ tay lần nữa và yêu cầu tôi giải thích rõ hơn quy tắc sử dụng bộ dao nĩa. Tôi vẽ sơ đồ cách bày dao nĩa lên tấm bảng. Tồi giải thích đâu là thìa dùng ăn xúp và thìa dùng ăn món tráng miệng, cái nĩa nào để ăn salad và cái nĩa nào để dùng cho món chính. Tôi diễn tả lại cách cắt một miếng bít tết, về cách bạn phải cầm dao tay phải và nĩa tay trái rồi cuối cùng chuyển nĩa sang tay kia như thế nào.
“Nghe có vẻ phức tạp không?” Tôi hỏi cả lớp.
“Có!”
“Nếu các bạn không biết phải làm thế nào,” tôi nói, “chỉ cần nhìn những người bên cạnh và làm hệt như họ.”
“Và nếu các bạn làm sai điều gì đó,” tôi vốn định nói, “thì cũng chẳng sao cả.” Nhưng tôi đã kịp thời kìm mình lại. Chìa khóa dẫn đến thành công chính là cách cư xử đúng mực - đó là điểm mấu chốt của lớp học này. Sự thoải mái tự nhiên là dành cho người Mỹ. Buổi học hôm đó kết thúc với màn thực tập uống rượu. “Nếu quản lý của bạn hơi ngà ngà say, có thể bạn sẽ phải thay thế anh ta,” thầy giáo Phó nói, với vẻ long trọng của một người đang nói về việc cần phải hạ cánh một chiếc 747 trong trường hợp khẩn cấp. Anh ta nói lướt qua quy tắc của trò chơi đoán ngón tay và trò đập tay - những trò tiêu khiển khi uống rượu ở Trung Quốc - rồi sau đó anh chia các học viên thành những nhóm nhỏ để thực hành.
HAI TUẦN SAU KHI BẮT ĐẦU khóa học, một cô gái bước đến chỗ tôi ngồi ở cuối phòng học. Tôi chưa thấy cô phát biểu trong lớp, và cô đỏ mặt khi giới thiệu về bản thân. Tôi có cảm giác mình vừa mới trở thành một phần trong kế hoạch phát triển bản thân của ai đó.
Cô gái tên là Giang Hải Yến. Cô có gương mặt rộng xinh xắn với vẻ mơ màng, những đường nét mềm mại mơ hồ và mái tóc nhuộm màu hạt dẻ buộc đuôi ngựa. Mười sáu tuổi, cô đang làm việc ở dây chuyền lắp ráp nhà máy VTech vì cha mẹ cô không thể trả tiền học phí cho cả cô và anh trai cô được. “Em nghĩ rằng trong hai bọn em, em sẽ dễ dàng trụ được trong thế giới lao động hơn, bởi vì thị lực của anh ấy kém lắm,” cô kể với tôi trong bữa tối không lâu sau khi chúng tỏi gặp nhau. “Vì vậy em nói dối bố mẹ và bảo với bố mẹ là em không muốn đi học nữa.” Giờ anh trai cô đang học thiết kế trong trường đại học.
Hành động hy sinh kiểu Nho giáo ấy ẩn chứa một ý chí rất khủng khiếp thì mới thực hiện được. Qua một người họ hàng đang làm việc ở VTech, Giang Hải Yến tìm được công việc lắp ráp những linh kiện điện tử nhỏ xíu tạo thành một chiếc điện thoại không dây. Trong ngày đào tạo thứ ba, cấp trên yêu cầu một người tình nguyện làm việc ở bộ phận sản xuất. Giang Hải Yến không hề biết bộ phận sản xuất là gì, nhưng cô đã táo bạo giơ tay lên, và đoán rằng dù là cái gì thì cũng còn tốt hơn sự nhàm chán, tẻ ngắt của công việc lắp ráp linh kiện. Ở bộ phận sản xuất, cô nói dối và bảo với cấp trên mới của mình rằng cô từng là thư ký trong một nhà máy khác ở Đông Quản.
“Cô làm thư ký được bao lâu rồi?” Cấp trên mới của cô hỏi.
“Một năm,” Giang Hải Yến nói.
“Vậy tại sao cô lại vào làm công nhân bình thường ở nhà máy này?” Anh ta chất vấn.
Dưới áp lực, cô nhận ra khả năng hùng biện của mình. “Tôi muốn phát triển bản thân trong lĩnh vực này,” Giang Hải Yến trả lời. Anh ta liền giao cho cô việc kiểm tra các máy điện thoại thành phẩm xem có lỗi không; sau một tháng, cô được thuyên chuyển đến nhà kho để lưu giữ các bản ghi về nguyên vật liệu trong nhà máy. Câu chuyện của cô cũng giống như tất cả những câu chuyện của dân di trú khác tôi từng nghe: nhờ khả năng ăn nói và nói dối, cô đã vươn lên.
Vì mới mười sáu tuổi, Giang Hải Yến đã mượn chứng minh thư của một người họ hàng để vào làm trong nhà máy. “Mọi người ở nhà máy biết em với cái tên Trần Hoa,” cô nói. “Chỉ có chị họ em và vài người bạn tốt mới biết em là Giang Hải Yến.”
“Em có thấy không quen khi bị gọi bằng tên của ai đấy khác không?” Tôi hỏi.
“Không, giờ cảm giác giống như nó là tên của em rồi,” cô nói. “Trong nhà máy, em là Trần Hoa. Khi người ta gọi em là Giang Hải Yến, em phải nghĩ mất một giây trước khi nhận ra đó là mình mà!”
Giang Hải Yến rất chủ động. Cô đã tham gia một khóa học máy tính, và tập luyện trong hành lang khu nhà ở tập thể của mình để giữ dáng. Cô mang theo một cuốn sách giao tiếp tiếng Anh bỏ túi để học trong lúc rảnh rỗi - It's nice to meet you. It's been donkey's years. Khi chúng tôi tạm biệt nhau sau bữa tối, cô trở về nhà tập thể để đọc một cuốn sách về hoạt động đẩy mạnh tiêu thụ đang mượn của thư viện nhà máy. Giấc mơ của cô là được trở thành thư ký trong một văn phòng.
MỘT CHỦ ĐỀ KHÔNG BAO GIỜ XUẤT HIỆN trong lớp học này là đạo đức. Các học viên học để biết thế giới văn phòng hoạt động như thế nào và họ dùng kiến thức đó để gian lận hòng giành được công việc mà họ không đủ tiêu chuẩn. Nếu mánh lới này thành công - nó thường xuyên thành công - điều chắc chắn sẽ xảy ra tiếp theo đó là một cuộc gọi hoảng loạn cho thầy giáo cũ: Tôi nên làm gì bây giờ? Trên đường đến thăm vài trường học vào sáng Chủ nhật nọ, tôi ngồi chung xe taxi với thầy giáo Đặng khi điện thoại di động của anh ta đổ chuông.
“Bạn khỏe không?” Anh ta nói. “Phối hợp năng lực sản xuất hả? Ok. Lấy ví dụ một nhà máy có ba khu vực sản xuất, mỗi khu vực có thể sản xuất được mười nghìn cái ti vi một tháng. Đó là năng lực sản xuất. Nếu một trong ba khu vực sản xuất ấy đã hoạt động hết công suất, nhưng nó vẫn phải hoàn thành gấp một đơn đặt hàng, nó có thể phối hợp với một khu vực khác để mượn năng lực của cái kia. Câu hỏi tiếp theo là gì nào?”
Sau khi gác máy, anh ta kể với tôi là một học viên cũ vừa bắt đầu đi làm và không hiểu công việc của mình, nhưng cũng không muốn để lộ sự kém cỏi của mình với các đồng nghiệp mới. “Tôi có những học viên đến một hai năm sau vẫn còn gọi điện xin lời khuyên,” anh ta nói. Các giáo viên không nói rõ với học viên rằng họ nên không thành thực; đó là một sự thật đã được chấp nhận của cuộc sống. Khi đã quen thân với thầy giáo Đặng hơn, tôi hỏi anh ta về điều đó.
“Trong các cuộc phỏng vấn tuyển người,” tôi nói, “các cô gái thường được hỏi họ có kinh nghiệm không. Họ nói có, nhưng sự thực là không.”
Tôi đang định tiếp cận chủ đề này một cách thận trọng, thì thầy giáo Đặng đã xổ toẹt ra luôn. “Đúng thế, và câu hỏi tiếp theo là: “Cô đã làm công việc gì?” Chúng tôi dạy họ những chi tiết nhỏ về nhà máy để họ có thể trả lời những câu hỏi này sao cho có sức thuyết phục.”
“Nhưng họ đang nói dối,” tôi nói.
“Đúng thế.”
“Thế nếu họ không muốn thì sao?”
“Tùy họ thôi,” thầy giáo Đặng nói. “Nhưng những người quá thành thật sẽ bị loại ra khỏi cái xã hội này.” Sau này tôi tìm hiểu được, không phải từ thầy giáo Đặng mà từ các học viên của anh ta, rằng trường Trí Đồng bán bằng cấp giả. Đó là một cuốn sách nhỏ có bìa bọc bằng màng nhựa co giãn, giống như những cuốn album ảnh rẻ tiền mà vài cô gái vẫn mang theo mình. Một chứng chỉ giả của trường cao đẳng dạy nghề giá sáu mươi nhân dân tệ - khoảng 7,5 đô la - trong khi bằng của trường trung cấp dạy nghề chỉ bằng nửa giá đó. Giáo dục chính quy không có giá trị ở Đông Quản, nhưng cho đến khi ấy tôi vẫn còn chưa nhận ra nó rẻ mạt đến nhường nào.
***
Một buổi tối đầu tháng Sáu, Trần Anh đến lớp trong chiếc váy vàng dài cùng chiếc áo rất hợp. Cô là người phụ nữ trẻ đã nói ở buổi giới thiệu thông tin đầu tiên; cho đến thời điểm ấy, cô vẫn mặc quần jean và đi giày đế mềm giống những cô gái khác. Kiểu cách ăn mặc là một lời tuyên bố rằng giờ cô đã là một người khác. Cô đã nghỉ việc ở nhà máy, đến chợ việc làm ba ngày một tuần, với hy vọng sẽ được nhận vào làm văn thư hoặc trợ lý bộ phận kinh doanh. “Như thầy giáo Đặng đã nói: không cần thiết phải nôn nóng,” cô nói với tôi. “Thực tình thì tôi khá thích đi phỏng vấn.” Buổi học tiếp theo, Trần Anh thậm chí còn ăn mặc cầu kỳ hơn: váy màu vàng chanh tỉa đăng ten gần như trong suốt, tất trắng, giày cao gót. Trước khi buổi học bắt đầu, tôi đã quan sát khi một phụ nữ trẻ từ lớp khác bước đến chỗ Trần Anh và tự giới thiệu. Trần Anh đứng lên bắt tay đối phương và hai người họ nói chuyện một lúc.
Trước đó, tôi chưa bao giờ thấy người, dân di trú làm vậy, bắt tay và nói chuyện với một người lạ. Thậm chí cả người Trung Quốc ở thành thị cũng không thực hiện được hành động đơn giản ấy một cách thoải mái. Người Trung Quốc rất kém xử lý với người lạ: nếu ai đó không nằm trong vòng quen biết gồm gia đình, bạn học hay đồng nghiệp của họ, phản ứng thông thường là lờ anh ta đi. Những người bạn Trung Quốc của tôi ở Bắc Kinh không bao giờ hy vọng gì ở những bữa tiệc - họ dính chặt với nhóm bạn mà họ đi cùng, khóa chặt vào vị trí như một phi đội máy bay chiến đấu bay vào vùng chiến sự theo đội hình mà họ biết.
Lớp học Công sở buộc các học viên phải phá vỡ rào cản của nhóm. Trong khóa học, mọi học viên đều phải phát biểu tự giới thiệu bản thân. Các bài phát biểu lúc nào cũng bắt đầu giống nhau:Tôi cũng như các bạn. Đó là một cách ngồ ngộ để một cô gái bắt đầu câu chuyện của riêng mình, và thậm chí câu chuyện ấy còn không phải là sự thật. Nhưng có lẽ chỉ bằng cách dựng lên rằng cô ta là một phần của cả nhóm, thì một cô gái trẻ mới đủ dũng khí để đứng tách ra khỏi nó. Ngày hôm ấy, khi Trần Anh đứng lên và bắt tay với một người lạ, cô làm tôi gợi nhớ đến, hơn hết thảy, một người Mỹ.
CÁC HỌC VIÊN ĐÃ MẤT ĐI nỗi sợ nói trước đám đông của mình và đua nhau trả lời câu hỏi. Họ chủ động chào giáo viên, chào tôi. Họ ồn ào và thích tán gẫu, bây giờ tất cả họ đã là bạn. Nhưng thời điểm họ phải rời cộng đồng này đã tới. Giờ mỗi khi các cô gái gặp nhau, câu hỏi đầu tiên là: “Cậu đến chợ việc làm chưa?” Những cô đã kể chuyện về trải nghiệm của mình ở đó giống như những người du hành mới trở về từ miền đất xa lạ nơi những người bản địa tra vấn liên tục và không thương xót:
Cô ta hỏi tôi: “Nếu cô cố bán hàng cho một vị khách và người ta từ chối, cô sẽ làm gì?”
Tôi chẳng biết trả lời ra sao cả. Tôi nói: “Chuyện như vậy là bình thường mà.”
Trong buổi phỏng vấn, họ hỏi tôi, “Nếu ba chiếc điện thoại đổ chuông cùng một lúc? Cô sẽ làm gì?”
Tôi nói, “Tôi sẽ trả lời từng chiếc một, tìm ra cuộc gọi nào quan trọng nhất, và xử lý nó trước tiên.”
Một cô gái trẻ có mái tóc cắt như con trai diễn tả lại buổi phỏng vấn của mình tại một công ty viễn thông tên là Kỹ thuật Hoa Vi(23).
(23) Tập đoàn Hoa Vi (Huawei) này đã có trụ sở tại Việt Nam.
Tôi muốn làm việc ở Hoa Vi, vì vậy tôi đã đến buổi tuyển dụng của họ. Cả đám người đang ngồi trong phòng, người phụ trách tuyển dụng sẽ chỉ vào ai đấy và hỏi. Sau đó cô ta sẽ nói: “Được rồi, cô có thể đi ra.”
Cuối cùng chỉ còn lại ba người đàn ông và tôi. Người phụ trách nhìn tôi và nói, “Cô không thích hợp với công việc này. Cô có thể đi.”
Tôi thầm nhủ: “Thật là mất mặt! Nhưng người phụ trách này thậm chí còn chẳng biết tôi. Làm sao chị ta biết được tôi có thích hợp hay không?” Vì vậy tôi vẫn ngồi nguyên đấy và không đi ra.
Sau đó người phụ trách hỏi một trong mấy người đàn ông: “Kể cho tôi nghe về khoảnh khắc đáng tự hào nhất của anh.”
Anh ta rất bồn chồn lo lắng. Anh ta trả lời rằng anh ta vẫn đang đi tìm việc và chưa có thành tựu nào đáng để tự hào cả.
Tôi khẽ bảo anh ta: “Anh có thể nghĩ đến điều gì đó đáng tự hào anh đã làm ở trường học.” Người phụ trách nghe thấy và đưa mắt nhìn tôi.
Cuối cùng cả ba người đàn ông đều bị loại. Chỉ còn lại mình tôi. Người phụ trách nhìn tôi và nói: “Ba người đó đều là đối thủ cạnh tranh của cô, nhưng cô lại cố giúp họ. Tại sao thế?”
Tôi đáp: “Em không nghĩ họ là đối thủ của mình. Nếu chúng em được chọn, trong tương lai chúng em sẽ là đồng nghiệp và chúng em sẽ phải giúp đỡ lẫn nhau.”
Người phụ trách nói: “Tôi đã nói rằng cô không thích hợp, nhưng cô vẫn không đi. Tại sao?”
Tôi trả lời: “Chị chưa biết gì về em cả. Chị không biết em có thích hợp hay không. Em luôn có ấn tượng rất tốt về Hoa Vi, nhưng em phải nói rằng em rất không bằng lòng với thái độ của chị đối với những người tìm việc hôm nay. Dù em có trở thành nhân viên của Hoa Vi hay không, là một khách hàng của Hoa Vi, em cảm thấy rất bất mãn.”
Người phụ nữ ấy mỉm cười. Chị ta hài lòng với câu trả lời của tôi. Vậy là tôi được nhận.
Ngày 2 tháng Sáu, lớp học bắt đầu với một thông báo đầy phấn khích của thầy giáo Đoan Mộc dạy môn Hùng biện. “Tôi vừa nghe được tin tốt. Một học viên của chúng ta đã tìm được việc làm.” Cả căn phòng vỡ òa. Một cô gái trẻ tên là Mã Tiểu Nam đã được nhận vào làm nhân viên tiếp tân. Cô là người đầu tiên trong lớp tìm được việc làm mới, tin tức này nhắc nhở mọi người rằng đã đến thời điểm bắt đầu hành động. Giờ học hôm đó, và tất cả những buổi tiếp theo, đều tập trung vào tìm việc làm. Thầy giáo Đoan Mộc giảng giải cách tự giới thiệu mình với người tuyển dụng, và phương pháp đi phỏng vấn càng nhiều càng tốt, cùng với cách để nhận ra và tránh các mô hình bán hàng kiểu kim tự tháp. Cuối giờ học, mỗi cô gái đứng lên và đọc to khẩu hiệu của mình: