Gái công xưởng - Phần I - Chương 06 phần 4

Trong ngày giỗ thứ tư của cha họ, bác Nellie, lúc ấy đã là một tân sinh viên đại học, có viết một bài thơ được đăng trên tờ Nhật báo Tin tức Trung ương, tờ báo của Quốc dân Đảng:

Bốn năm rồi, cha ơi.

Cỏ trên mộ cha đã mọc cao,

Những cánh đồng phương Bắc một lần nữa lại phủ tuyết,

Ôi, con của cha đang lang thang trên hòn đảo giữa biển khơi

Đang thành tâm gửi nỗi nhớ vời vợi đến cha.

Những thứ đã mất

Có thể tìm lại được

Nhưng những gì con mất

Là tình yêu của cha

Quần áo rách có thể vá lành

Nhưng, than ôi, đây là

Một trái tim bị xé nát!

Ngày 16 tháng Một, ngày hôm nay của bốn năm về trước,

Ngày hôm đó, khi người ta ca khúc khải hoàn

Cha trở thành kẻ hy sinh đầu tiên của sự chuyển đổi

Liêu Ninh, mỏ than Phủ Thuận -

Vùng đất không ai dám tới

Nhưng cha...

Có lẽ đó cũng giống như những gì cha hay nói

“Đã sống, thì phải sống mạnh mẽ,

Đã chết, thì phải chết có mục đích.”

“Con đường được tạo nên bởi bước chân người,

Thành công phụ thuộc vào công lao chăm chỉ”...

Vâng,

Nước mắt không bao giờ ngưng chảy,

Những lời cay đắng sẽ không bao giờ dứt,

Món nợ máu sẽ không bao giờ được rửa sạch,

Vết thương sẽ chẳng bao giờ lành,

Biến đau thương thành sức mạnh để sổng tiếp!

Nhưng con ghét điều ấy,

Cha ơi.

Nhiều người viết thư cho bác Nellie nói họ cảm động trước bài thơ của bác làm. Một chàng trai trẻ tự gọi mình là “Người Lười” gửi cho bác Nellie những vần thơ do chính anh sáng tác. Bài thơ của anh ta đã tránh nói đến nỗi đau khổ của chính bác ấy; cái chết của cha cô, anh viết, sẽ thôi thúc mọi người thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước. Chàng trai trẻ kia không biết địa chỉ của bác Nellie, vì vậy trên phong bì anh chỉ viết rất đơn giản: Trương Ái Lôi(21), Đại học Quốc lập Đài Loan, thành phố Đài Bắc.

Hét lên chỉ là điên rồ

Chỉ im lặng mới là sức mạnh

Gào lên than trách là mất đi dũng khí

Chỉ có sắt ở trong lò mới luyện được thành thép.

Trước cơn bão tố,

Biển lặng không gợn sóng cồn

Ở dưới đáy sâu

Dòng nước chảy không một tiếng động

Hãy thu nỗi đau của em lại

Cả một ngòi bút cũng thành súng

Đó là căm hờn

Đó là món nợ máu

Ôi, một món nợ!

Không chỉ của em,

Không chỉ của ông,

Không chỉ của anh,

Nó là của mọi người,

Những ai có xương

Những ai có máu có thịt

Những ai dáng người, và một trái tim

Những ai một tâm hồn

Món nợ ấy thuộc về tất cả chúng ta!

Bác Nellie đã giữ lại những bài thơ ấy, bác nghĩ chúng hay hơn bài mình viết. Năm sau đó, chàng trai trẻ ấy đến Đại học Quốc gia Đài Loan nhập học và hai người họ đã gặp nhau. Tên người đó là Triệu Ngôn Kỳ, cuối cùng thì bác Triệu này đã trở thành chồng bác Nellie.

(21) Trương Ái Lôi là tên tiếng Hán của bà Nellie.

***

Những thành viên gia đình tôi ở lại Trung Quốc đã phải chịu những năm tháng tồi tệ. Năm 1950, một năm sau chiến thắng của phe Cộng sản, anh họ Lập Giao của cha tôi kết hôn với một cô y tá tên là Chu Thư Lan và chuyển đến Cáp Nhĩ Tân, nơi bác làm giáo sư của một trường đại học nông nghiệp. Họ có hai người con trai và một con gái. Năm 1957, Mao Trạch Đông có bài phát biểu mời trí thức phê bình các biểu hiện của Đảng Cộng sản. Bác Lập Giao, lúc ấy đang là trưởng khoa, đã công khai đề nghị rằng Đảng nên đánh giá các trí thức dựa trên kỹ năng và kiến thức của họ. Trình độ học vấn của một người, bác nói, không phải là thước đo đánh giá cống hiến của anh ta đối với cách mạng.

Đó là một tuyên bố ở mức độ vừa phải - nhưng trong hoàn cảnh thời điểm đó, nó là chất độc. Những người lãnh đạo đất nước, lấy làm kinh ngạc trước những lời phê bình Đảng Cộng sản và thậm chí cả bản thân Mao Trạch Đông ngày một nhiều hơn, nên cuối cùng họ quay lưng lại những con người mà chính họ đã cổ vũ để đứng lên cất tiếng nói. Hơn năm trăm nghìn người bị dán nhãn “hữu khuynh” và mất việc hoặc bị điều về nông thôn để lao động chân tay. Bác Lập Giao mất chức trưởng khoa và bị cắt lương. Tội thật thà của bác còn được tăng nặng thêm bởi nguồn gốc gia đình: cha và ông nội bác từng là địa chủ ở Mãn Châu, gia đình chú bác đã chạy sang Đài Loan. Lịch sử gia đình khiến bác Lập Giao mãi mãi là kẻ đáng nghi trong con mắt Đảng Cộng sản.

Trước khi các con của bác Lập Giao bắt đầu đến trường tiểu học, họ đã hiểu rằng dòng máu chảy trong người họ là dòng máu xấu. Trong tất cả các biểu mẫu họ phải điền ở trường học, có một ô trống dành cho “thành phần giai cấp”. Và họ sẽ viết “địa chủ” vào đó, chỉ vì có một gia sản mà đã biến mất từ rất lâu trước khi họ có mặt trên cõi đời này. Các giáo viên trù dập lũ con trai và con gái của địa chủ, lũ trẻ con thì xóc xỉa nhau bằng vốn từ vựng đấu tranh giai cấp của chúng: Cha mày là đồ phái hữu! Nhà mày là nhà địa chủ. Đất nước Trung Quốc dưới quyền cai trị của Mao Trạch Đông là một nhà nước theo chế độ quý tộc đảo ngược: huyết thống luôn luôn là một nỗi ám ảnh mang tầm quốc gia, vị thế của một gia đình trước đó cao bao nhiêu, thì khi ấy tình hình của nó sẽ càng tệ bấy nhiêu.

Cuộc Cách mạng Văn hóa bắt đầu năm 1966 hoàn toàn lật đổ các trật tự đã được thiết lập. Trong hơn một thế kỷ, các nhà lãnh đạo và nhà tư tưởng của Trung Quốc dã dằn vặt nghĩ cách làm thế nào để điều chỉnh truyền thống của họ cho phù hợp với thế giới hiện đại. Cách mạng Văn hóa đã đưa ra một câu trả lời đơn giản: ném bỏ tất cả đi. Trong hơn một thập kỷ sau đó, những nhóm học sinh cực đoan gọi là Hồng vệ binh đánh đập, và đôi khi giết hại chính thầy cô giáo dạy mình. Mười bảy triệu sinh viên về nông thôn lao động trên những cánh đồng cằn cỗi, cuộc sống mà người Trung Quốc ở nông thôn đã trốn chạy trong nhiều thế kỷ. Giáo dục, dấu hiệu của sự thành đạt và con đường dẫn đến đổi thay, được cho là “phản cách mạng”. Cách mạng Văn hóa đã lấy đi mọi thứ người Trung Quốc từng sùng kính trong cả một thời gian dài và nghiền nát chúng ra thành từng mảnh nhỏ, giống như ném một chiếc bình gốm cổ vào tường vậy. Nó chấm dứt thế giới của rường cột đạo đức và giá trị Khổng giáo mà ông nội tôi, cùng vô số thế hệ trước ông được sinh ra trong đó.

Và thay vào đó là gì? Trong một khoảng thời gian nhất định, sự nhiệt tình đến cực đoan đã là đủ. Nhưng khi Cách mạng Văn hóa cuối cùng cũng chấm dứt và những nhà lãnh đạo thực dụng như Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền, người Trung Quốc sẽ nhận ra họ đang sống trong một xã hội rỗng tuếch - bị lột sạch mọi niềm tin và trống rỗng như đứa trẻ sơ sinh, ngắm nhìn một thế giới hoang tàn mà họ phải tạo dựng lại bằng cách nào đó.

Năm 1968, Hồng vệ binh đến ngôi mộ ông nội tôi ở Thẩm Dương. Chúng đào quan tài lên và vứt vung vãi những gì còn lại của ông trong đó, chúng đập nát ngôi mộ và dấu tích ngôi mộ. Chúng đập cái bệ tấm bia bên cạnh cho đến khi nó vỡ toác, nhưng chúng lại để tấm bia được nguyên vẹn. Có vẻ như không ai biết đó là cái gì - bề mặt trống không của nó chẳng gợi nên điều gì cả.

***

Lần lượt từng người một, những người con của ông nội đến nước Mỹ, như cha họ đã từng làm. Nhưng ông nội tôi ra nước ngoài để một ngày nào đó trở lại và giúp đất nước Trung Quốc. Còn con cái ông thì rời bỏ quê hương để phát triển sự nghiệp riêng của mình - không còn Trung Quốc nào để mà trở về nữa. Số tiền dùng để di cư sang bên ấy, một phần là vay mượn từ bạn bè, một phần là tiền bán những miếng vàng, số tiền đã được quyên góp ủng hộ gia đình tôi khi ông nội bị sát hại. Cái chết của ông đã được chuyển thành chuyến đi tới nước Mỹ.

Những ngày ấy, nếu muốn đến Mỹ [cha tôi kể], phải cần có 2.400 đô la trong ngân hàng cho đến khi tốt nghiệp. Chị gái bố đã đi mà không gặp nhiều trở ngại lắm. Gia đình gom góp được 2.400 đô nhờ tiết kiệm và vay mượn. Bác ấy đã tiêu mất một ít trong số đó, nhưng bác ấy kiếm được tiền và gửi trả lại 2.400 đô la đó, vì vậy bác Luke cũng có thể đến Mỹ với số tiền ấy. Họ cách nhau bốn tuổi. Nhưng bác Luke và bố chỉ cách nhau hai tuổi, vì vậy khi đến lượt bố đi, số tiền đó vẫn chưa được bổ sung lại...

Anh chị em bố giữ các miếng vàng trong một cái hộp màu vàng, mọi thứ dần dần đội nón ra đi. Anh chị em bố đi mượn tiền bạn bè, nhưng không ai muốn giúp đỡ cả. Cha bố đã qua đời, tại sao họ phải giúp bọn bố cơ chứ?

Bố là người đứng ra đi vay tiền. Bố còn nhớ mình đã đến nhà một người bạn của gia đình và ngồi lì ở đấy. Họ lờ bố đi. Cuối cùng, họ nói cha họ không có nhà, nhưng bố biết ông ấy đang ăn cơm trưa ở trong.

Sau khi có tiền trong tay, nhiệm vụ tiếp theo là phải có được một con dấu visa. Bất cứ ai rời khỏi Đài Loan đều phải đảm bảo với những viên chức ở tòa lãnh sự Mỹ rằng anh hoặc cô ta sẽ trở lại ngay sau khi kết thúc khóa học của mình.

Bố tốt nghiệp trường cao đẳng năm 1957 rồi đi nghĩa vụ quân sự một năm rưỡi. Tháng Một năm 1959, bố ra quân. Ngày nào bố cũng đến lãnh sự quán Mỹ ở Đài Bắc với một cuốn tiểu thuyết và đợi nhân viên ở đó gọi tên mình. Sau sáu tháng, cuối cùng bố cũng có được visa.

Bà nội tôi thúc giục các con mình ra đi. Bà cảm thấy Đài Loan quá nhỏ bé, nước Mỹ là nơi duy nhất để học lên cao hơn. Nhưng chuyến đi bằng tàu biển vượt Thái Bình Dương nên khó có thể đi một lần. Mỗi lần nói chào tạm biệt với một đứa con, bà đều biết đó là lời vĩnh biệt.

Ở bên kia đại dương, những đứa con bà tiếp tục làm những gì họ được trông chờ. Các cô con gái có nhiều tự do hơn để học những gì họ muốn, bác Nellie học chuyên ngành giáo dục học còn cô Irene học tiếng Anh. Cha tôi, người có giọng lưỡi sắc bén nhất trong một gia đình toàn những người hay nói, bị chính trị và luật học hấp dẫn. Nhưng những người con trai được mong đợi sẽ nghiên cứu khoa học và kỹ thuật như cha họ, và như tất cả những sinh viên du học giỏi nhất. Khi bác Luke tốt nghiệp trung học, bà nội tôi nói với bác: “Con muốn học ngành gì? Mẹ hy vọng con sẽ theo bước của cha các con.” Bác Luke đồng ý với nguyện vọng của bà. Sau đó bà nội đưa cho bác một cuốn sách tên là Field Geology (Địa chất học thực địa), một cuốn sách giáo khoa đã ba mươi năm tuổi mà ông nội tôi đã dùng khi học ở Mỹ. Và vậy là chấm dứt cuộc nói chuyện duy nhất của bác Luke với mẹ về tương lai của bác.

Bà nội tôi biết những điểm mạnh và điểm yếu của các con mình, và bà đã bảo cho họ biết điều đó. Bác Nellie thông minh nhưng thiếu sự kiên trì bền bỉ cho nghề y mà bác muốn theo đuổi. Bác Luke cứng đầu và có thể phát triển trong giới học thuật. Cha tôi thông minh nhưng hay nói quá nhiều về ưu điểm của mình. Cô Irene cần cù nhưng hay khóc. Chú Leo là một sinh viên kém, nhưng chú sẽ giỏi việc kinh doanh. Tất cả những dự đoán đó hóa ra đều thành sự thật. Bác Nellie bỏ ngành y để trở thành một giáo viên trường tiểu học và giáo dục đặc biệt, bác Luke trở thành một giáo sư địa chất học và trưởng khoa ở Đại học Maryland. Cha tôi học kỹ thuật điện và sau đó chuyển sang vật lý, ông làm nghiên cứu khoa học cho hãng IBM và nhận chức chủ nhiệm khoa kiêm phó hiệu trưởng Đại học Khoa học và Kỹ thuật Hồng Kông. Cô Irene, người hồi nhỏ thường xuyên khóc nhè vì bị các anh trêu chọc, đã trở nên cứng rắn hơn và trở thành chuyên gia ngành dược, sau đó lãnh đạo một công ty chuyên về công nghệ sinh học. Còn chú út của tôi, chú Leo, trở thành một doanh nhân thành công và giàu có ở Đài Loan. Bằng cách này, bà nội tôi đã quyết định số phận cho tất cả các con.

BÀ NỘI TÔI QUA ĐỜI vì bệnh khí thũng (giãn phế nang) năm 1965. Mùa hè năm đó, cô Irene đến Đài Loan thăm bà; các anh chị cô đã góp tiền lại để chi trả cho chuyến đi. Trên giường bệnh, bà nội tôi đã gọi cô Irene đến bên cạnh. Bà đã tiết kiệm tất cả số tiền các con ở Mỹ gửi về, và bà muốn số tiền đó được chuyển cho con trai út. Chú Leo là người con duy nhất của bà không ra nước ngoài. Vì bốn anh chị em của chú đều không thực hiện lời hứa trở lại Đài Loan, lãnh sự quán Mỹ đã từ chối cấp thị thực nhập cảnh cho chú. Bà nội tôi bảo cô Irene tìm cho bà bộ quần áo bà muốn mặc khi được chôn cất. “Mặc cho mẹ luôn bây giờ đi,” bà bảo, “vì sẽ khó hơn sau khi mẹ chết đấy.” Bà đã điều khiển mọi thứ, cho đến tận lúc chết.

***

Bố tôi trở lại Trung Quốc lần đầu tiên năm 1975. Ông là thành viên của một phái đoàn đại biểu các nhà Vật lý được Viện Khoa học Hoa Kỳ lựa chọn - một trong những phái đoàn đầu tiên của Mỹ đến Trung Quốc, vào thời điểm mà hai quốc gia vẫn chưa thiết lập quan hệ ngoại giao với nhau. Khoa học là một vùng trung lập, không cần đến sự can thiệp của chính phủ - chính là khoa học đã đưa cha tôi đến nước Mỹ, và cũng chính khoa học đã mang ông trở về. Năm ấy cha tôi ba mươi chín tuổi. Ông đã rời Trung Hoa đại lục khi ông mười hai, và nó là một đất nước hoàn toàn mới khi ông trở lại. Trong một giải thi đấu thể thao cấp quốc gia, ông đã hết sức xúc động khi nghe người dẫn chương trình gọi tên “Tỉnh Cát Lâm!” Ông nghe thấy tiếng hoan hô, có vẻ dường như tất cả những khẩu hiệu chống Trung Quốc ông đã được dạy ở Đài Loan đều tan biến trong khoảnh khắc ấy. “Bố cảm thấy cuối cùng nó cũng là nước Trung Quốc thực thụ,” ông kể với tôi. “Bao nhiêu năm nay họ nói Đài Loan là Trung Quốc, nhưng đây mới thực sự là Trung Quốc.”

Ông thấy những thứ còn sót lại của kỷ nguyên chính trị cực đoan đang ở giai đoạn kết thúc. Phái đoàn của cha tôi đến thăm một công xã - sau này ông được biết, đó là một công xã giả được dựng lên để gây ấn tượng với khách tham quan. Khi đến thăm các trường học, cha tôi đã lấy làm ngạc nhiên khi thấy sinh viên cãi lại giáo viên của họ. Đây là một hệ quả của Cách mạng Văn hóa, nhưng vẫn là một tiến bộ so với nền nếp cũ, ông cảm thấy như vậy. Một ngày nọ, cha tôi đến thăm trường trung học cũ của mình, một nơi cách Tử Cấm Thành chừng nửa dặm về phía Đông. Khi ông nhìn qua cánh cổng, một người đàn ông đi dép lê và mặc áo phông ngắn tay bước ra để nói chuyện. Ông ta là người đứng đầu ủy ban cách mạng của trường này, một cương vị gần như là hiệu trưởng trong những ngày đó. Người đàn ông đó hỏi một câu: “Đi tàu hỏa đến Mỹ thì mất bao nhiêu tiếng?”

Cha tôi yêu cầu được gặp anh họ Lập Giao của mình. Ông nói với người dẫn đoàn đại biểu rằng anh họ ông đã từng dạy ở Đại học Bắc Kinh giai đoạn cuối những năm 1940 nhưng ông không biết chuyện gì đã xảy ra với anh ấy sau đó. Câu trả lời là, bác Lập Giao của tôi, đã được cử đến vùng Tây Bắc xa xôi và không thể gặp bác ấy được. Đó là một lời nói dối, sau này cha tôi được biết, bác Lập Giao và vợ đang sống ở thành phố Cáp Nhĩ Tân, miền Đông Bắc, nhưng họ sẽ đối diện với nguy hiểm về mặt chính trị nếu gặp một khách nước ngoài ở thời điểm đó.

Cuộc Cách mạng Văn hóa đã đến giai đoạn cuối cùng, nhưng nó vẫn còn gây rất nhiều tổn hại. Thủ tướng Chu Ân Lai đang nằm viện vì bệnh ung thư; Bè lũ bốn tên, nhóm tả khuynh gắn liền với những hành vi thái quá nhất của Cách mạng Văn hóa, đang nắm quyền. Một hôm cha tôi đã rất ngạc nhiên khi nghe thấy những cán bộ chính phủ làm hướng dẫn cho mình nói Đặng Tiểu Bình, người cán bộ Đảng Cộng sản tận tụy nhất với sự nghiệp cải cách và hiện đại hóa, sẽ sớm bị miễn chức. Những người hướng dẫn này quá lo lắng về tương lai của chính họ, nên đã để lộ tin này trước mặt cha tôi. Tháng Tư sau đó, Đặng Tiểu Bình bị loại khỏi hàng ngũ lãnh đạo Đảng lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng. Trong ngôi nhà ở ngoại ô New York của mình, chúng tôi nghe đi nghe lại những đĩa nhạc cha tôi mang về từ Trung Quốc.

Vầng dương phương Đông đang nhô lên,

Nước Cộng hòa Nhân dân đang trưởng thành,

Lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông chỉ đường cho ta đi tới.

Đời ta ngày ngày một tốt đẹp,

Tương lai ta rạng ngời ánh sáng huy hoàng.

Cha tôi trở lại Trung Quốc lần thứ hai vào năm 1979. Mỹ và Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao, Đặng Tiểu Bình đã vững chắc ở ghế cầm quyền, khôi phục lại vị trí cho hàng triệu nạn nhân của cuộc Cách mạng Văn hóa và thực hiện chính sách cải cách kinh tế mà chỉ không lâu sau đã làm thay đổi bộ mặt cả đất nước. Một lần nữa, cha tôi lại yêu cầu được gặp bác Lập Giao, lần này hai vợ chồng bác ấy đã được đưa dến Thẩm Dương để gặp ông. Khi chuyến tàu của cha tôi vào ga, ông trông thấy bác Lập Giao đang đợi trên sân ga, bác ấy đang khóc.

Bác Lập Giao muốn biết tất cả mọi chuyện đã xảy ra trong ba mươi năm xa cách. Cha tôi kể cho bác nghe về cuộc sống khó khăn ở Đài Loan, về người mẹ đã một mình nuôi dạy năm đứa con và chuyện tất cả bạn bè của gia đình đã lặng lẽ biến mất sau khi cha họ qua đời. Bác Lập Giao nói về cuộc sống dưới chế độ Cộng sản tươi đẹp hơn nhiều như thế nào. Bác không kể với cha tôi rằng bác đã bị đưa đi diễu qua các phố như một tên kẻ thù giai cấp khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu, sau đó bị đày đi làm việc trong một nông trang trồng lúa gần biên giới Liên Xô. Bác cũng không nhắc đến chuyện hai người con trai bác chỉ vừa mới trở về thành phố sau mười năm lao động ở nông thôn, hay cả hai người bọn họ đều chưa học hết lớp tám. Bác không nói cha mẹ bác đã phải chết thế nào.

Rồi vợ bác Lập Giao hỏi cha tôi: “Chú có biết chuyện gì đang xảy ra ở Trung Quốc không?”

“Có,” cha tôi trả lời. “Nhiều hơn so với chị.”

Cùng với những đợt trao đổi khoa học giữa Trung Quốc và phương Tây càng lúc càng nhiều, cha tôi cũng thường xuyên trở lại Trung Quốc. Năm 1982, ông ở với gia đình bác Lập Giao tại Cáp Nhĩ Tân, con trai thứ hai của bác Lập Giao nhớ lại, cha tôi đã từng đứng vài phút trước bản tin buổi tối và nói: “Chú không thể xem thứ tin tức giả tạo này được.” Năm 1984, cha tôi đứng trên lễ đài ở Quảng trường Thiên An Môn trong lễ kỷ niệm ba mươi lăm năm cuộc Cách mạng của Đảng Cộng sản.

Sau khi tôi chuyển đến Bắc Kinh năm 2000, cha mẹ tôi đến thăm tôi ít nhất một lần mỗi năm. Thỉnh thoảng tôi có cảm giác họ đã quên mất cách giao thiệp với người Trung Quốc. Họ thiếu sự kiên nhẫn cho những cuộc nói chuyện phiếm và những lễ tiết nhỏ nhặt vốn là nền tảng của giao tiếp xã hội, và họ lảng tránh việc đến thăm họ hàng, những người mà tôi biết chắc là đang nôn nóng chờ họ gọi điện tới. Thi thoảng họ làm tôi thấy bối rối vì ngượng: có lần cha tôi đã gọi cô lau nhà giúp việc cho một người bạn là yongren (dụng nhân), nghĩa đen là “người bị sử dụng”, một từ cũ dùng cho những người hầu đã không được nhắc đến từ thời Cách mạng của Đảng Cộng sản. Nhưng họ vẫn biết tất cả về lịch sử, ngôn ngữ, văn học và văn hóa Trung Quốc, và bằng một khả năng ngoại cảm thần bí nào đó, họ luôn biết được nhà hàng nào là ngon nhất trong thành phố.

Khi tôi kể chuyện gia đình mình cho những người bạn Mỹ, họ hỏi tôi bằng cách nào mà cha tôi có thể trở lại Trung Quốc và tốn thời gian với những quan chức thuộc Đảng phái đã giết chết cha của ông. Hồi ở Prague, tôi đã gặp những đứa con của người Czech lưu vong sinh ra ở Mỹ, những người phản đối chế độ Cộng sản đến nỗi họ đã không dạy con cái mình nói tiếng Czech khi chúng lớn lên. Dân lưu vong Cuba thì chống Castro tới mức họ sẽ không trở về Cuba khi nào ông ta còn nắm quyền ở đó. Nhưng người nhập cư Trung Quốc thì khác: cho dù chuyện tệ hại đến đâu xảy ra với gia đình họ ở Trung Quốc, họ vẫn trở về, bất cứ dịp nào mà chính phủ cho phép. Điều này một phần là do chủ nghĩa thực dụng đã bén rễ quá sâu và nó có thể tha thứ cho quá khứ, nhưng còn hơn thế, Trung Quốc đối với họ không phải là một thể chế chính trị hay một nhóm những người lãnh đạo, mà là thứ gì đó lớn hơn mà họ mang bên trong con người mình, ký ức về một vùng đất đã không còn tồn tại trên thế giới này nữa. Trung Quốc kêu gọi họ trở về với sức nặng của truyền thống, sự giàu có của ngôn ngữ và năm ngàn năm lịch sử mà đôi khi có vẻ như một vòng lặp của những bi kịch và đau thương. Lực kéo của Trung Quốc rất mạnh, đó là lý do tại sao tôi cưỡng lại nó lâu đến vậy.

***

Ngôi nhà ở số 6 ngõ Phấn Tử Hồ Đồng, phố phấn thoa mặt; thời nhà Minh, đây từng là một trong những khu đèn đỏ của Bắc Kinh, được đặt tên theo những cô kỹ nữ trang điểm rất đậm sống ở đây. Ngôi nhà giờ là Nhà dưỡng lão Phồn Vinh Viên, nơi chăm sóc người già được điều hành bởi chi bộ Đảng địa phương. Đó là tòa nhà một tầng màu đỏ lợp ngói men màu vàng, trên một con phố nhỏ toàn những căn nhà với khoảnh sân nhỏ gồ ghề, nứt nẻ. Tôi mở cánh cửa trước, bước qua một hành lang lờ mờ tối, bước vào nơi đã từng là sân chính của một ngôi nhà Trung Quốc theo kiểu truyền thống.

Sáu mươi năm trước, cha tôi đã sống ở đây. Đây từng là ngôi nhà cuối cùng của gia đình trước khi họ rời Trung Quốc vào mùa thu năm 1948. Và đây cũng là nơi, tôi bắt đầu cuộc điều tra về lịch sử gia đình mình ở Trung Quốc vào một chiều trời trong và lạnh tháng Một năm 2004. Người dẫn đường cho tôi là bác Triệu Hồng Chí, ông già tám mươi tuổi một thời hẹn hò với bác Nellie của tôi. Khoảng sân đã được lợp mái che, và những cành cây từng rủ bóng che phủ nó không còn nữa. Một giàn cây thường xuân giả và hoa nhựa vươn qua chỗ mái lợp. Hai ông già đang ngồi bên dưới giàn cây đọc báo, một trong hai người khòng về phía trước với cái lưng còng, khiến ông trông như một dấu hỏi.

Bác Triệu theo sau tôi bước vào trong sân. Bác chỉ một dãy phòng phía trái. “Chỗ đó từng là nhà bếp.” Rồi bác chỉ vào bên phải. “Chỗ kia là phòng ngủ.”

“Làm ơn nói nhỏ thôi,” một y tá nhắc nhở chúng tôi. “Đang là giờ nghỉ ngơi của họ.” Bác Triệu lại chỉ tay, như thể đang lần theo dấu vết tinh thần của những người mà chỉ mình bác mới nhìn thấy. “Đó là nơi bà nội cháu ngủ. Thỉnh thoảng bác ngủ trong phòng khách ngay bên ngoài phòng ngủ của bà. Cháu biết đấy, bác là con trai đỡ đầu của bà mà.”

CHÚNG TÔI RỜI CĂN NHÀ SỐ 6. Một cơn gió buốt thổi qua, bác Triệu bước đi nhanh với những sải chân dài. Bác cao, mái tóc bạc, sống mũi cao và đôi gò má cân xứng được nhào nặn bởi một bàn tay tỉ mỉ. Ở tuổi tám mươi, cùng với tất cả những nỗi đau bác đã chịu đựng, không ai có thể cằn nhằn nếu bác có một kỳ nghỉ dài ở Nhà dưỡng lão Phồn Vinh Viên. Nhưng trong đầu bác vẫn còn những thứ khác.

“Cháu có biết chuyện của bác với bác gái cháu không?” Bác Triệu hỏi.

Tôi đáp rằng có, và cảm thấy bối rối.

“Bác ấy đã lấy Triệu Ngôn Kỳ, bác rể cháu. Và họ đã giành được rất nhiều giải thưởng khiêu vũ. Còn bác, bác còn chẳng biết khiêu vũ nữa,” bác ấy nói, như thể khuyết điểm duy nhất này gây ra mọi chuyện vậy.

Chúng tôi đi bộ vài khu phố đến căn hộ của bác. Vợ bác đã ra khỏi thành phố trong vài ngày, tâm trạng bác lúc ấy khá cởi mở. Bác lấy ra một chiếc phong bì hồ sơ đựng các tấm ảnh. Tấm đầu tiên là một tấm ảnh đen trắng chụp ở tiệm của cha tôi và các anh chị em vào hôm trước khi họ rời khỏi Trung Quốc. Bác Triệu đứng ở hàng sau, trông khá đẹp trai và nghiêm túc với cặp kính có vành; bên cạnh bác, bác Nellie trông rất giống một đứa trẻ với gương mặt tròn và cái áo len xoắn. Cha tôi, đứng trước, có gương mặt ngăm đen xương xương và cái đầu vểnh về một phía. Một tấm ảnh khác: bác Nellie đứng trên con đường lợp mái che của ngôi nhà bác ở Ottavva, khi ấy bác đã ngoài sáu mươi, trông rất thanh lịch trong một chiếc váy vừa vặn cắt may kiểu Trung Quốc màu ngà điểm hoa đỏ.

“Bác gái có không hài lòng không?” Tôi hỏi.

“Bà ấy thoải mái lắm.” Như để chứng minh, một tấm ảnh khác: bác Triệu và bác Nellie đang đứng bên nhau. “Thậm chí bà ấy còn để bọn bác chụp ảnh chung nữa.”

Bác Triệu Hồng Chí đã không thể trở thành con rể của gia tộc tôi, nhưng bác lại trở thành người bảo vệ cho lịch sử gia tộc. Khi các chú, các bác tôi đến Bắc Kinh, lần nào họ cũng đến thăm bác. Mỗi khi có một người họ hàng xa trong gia đình tôi qua đời, bác là người đầu tiên biết tin. Và khi tôi muốn đến thăm ngôi nhà số 6, cha tôi bảo tôi nên đến gặp bác Triệu Hồng Chí, vì bác vẫn còn sống ở Bắc Kinh và chỉ có bác mới nhớ đường về đó.

Tôi nghĩ gia đình tôi là mối dây liên kết đến một cuộc đời mà đáng lẽ bác đã có, nếu như mọi thứ khác đi. Bác Triệu cẩn trọng bảo vệ mối liên kết đó qua nhiều thập kỷ hỗn loạn chính trị. Khi bác chọn cái tên Lập Sinh vào thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng, nó không chỉ tượng trưng cho niềm tin chính trị mới tìm thấy của bác. Chữ lập có ở trong tên đệm của tất cả những người đàn ông thế hệ cha tôi trong gia đình chúng tôi. Bên trong tuyên ngôn chính trị còn ẩn chứa một ý nghĩa cá nhân: bác Triệu đã tái sinh là một người Cộng sản và là một thành viên của gia đình chúng tôi.

Chúng tôi có được ngôi nhà số 6 này theo một cách lạ kỳ. Trong thời chiến, nó đã bị quân xâm lược Nhật Bản chiếm dụng, sau đó chuyển sang tay Tôn Việt Kỳ, người bạn đã không đi Phủ Thuận của ông nội tôi. Sau cái chết của ông, Tôn Việt Kỳ bán ngôi nhà cho bà nội với giá rẻ. Có lẽ đây là cách ông ta ăn năn hối lỗi, mặc dù ông ta không bao giờ nói thế.

Gia đình tôi mất ngôi nhà này hai lần. Chúng tôi đã đánh mất nó vào tháng Mười năm 1948 khi chúng tôi trốn chạy khỏi Trung Quốc, rồi lại mất nó lần nữa vào sự phát triển kinh tế. Ngôi nhà cũ đã bị kéo sập xuống để xây lại thành một nhà hàng, tiếp đó là một vườn trẻ, sau nữa là trụ sở của chi bộ Đảng địa phương, và giờ là một nhà dưỡng lão. Người sống ở đây trả một trăm đô la một tháng và có ba chỗ ở cho ba mươi con người ở nơi gia đình tôi đã từng sinh sống. Nhưng những người thuê hiện nay cũng sẽ phải đi sớm: ngôi nhà sẽ bị phá dỡ để làm đường tàu điện ngầm.

Những năm 1990, gia đình tôi đã đệ đơn lên chính quyền thành phố để lấy lại ngôi nhà dựa trên một đạo luật cho phép trả lại những căn nhà đã bị tước đoạt thời Cách mạng Văn hóa. Thành phố từ chối đề nghị của chúng tôi nhưng đền bù khoản tiền chín mươi nghìn đô la. Gia đình đã chia số tiền làm bảy phần: cho cha tôi và bốn anh chị em đang sống ở nước ngoài của ông, cho gia đình bác Lập Giao, và người bà đang sống ở Bắc Kinh. Số tiền đó không có ý nghĩa nhiều lắm với chúng tôi. Nhưng con gái của bà trẻ tôi khi ấy đang có dự định sang Mỹ học, số tiền đó đã giúp cô chi trả cho chuyến đi. Trong gần một trăm năm, gia đình tôi đã rời Trung Quốc để đến nước Mỹ. Ông nội tôi trở lại, cái chết của ông đã mang đến ngôi nhà số 6; nửa thế kỷ sau, nó lại chuyển thành một chuyến đi khác đến Mỹ. Và điều đó rất phù hợp, bởi lịch sử một gia đình bắt đầu khi có một người rời bỏ ngôi nhà ra đi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3