Gái công xưởng - Phần I - Chương 06 phần 3

Ban đầu, Tôn Việt Kỳ được chọn để xử lý vụ việc trao trả mỏ Phủ Thuận, nhưng ông này tìm cớ là đã nhận việc ở một nơi khác và đề cử ông nội tôi đi thay mình. Nhiệm vụ ấy hẳn là giống như một định mệnh với ông nội tôi. Cuối cùng thì cũng có một nhiệm vụ để cứu chuộc cho những vai khác hẳn nhau mà ông đã đóng trong cuộc đời mình: sinh viên du học, chuyên gia mỏ, người Mãn Châu lưu vong, nhà yêu nước Trung Quốc. Ông nội tôi nhận nhiệm vụ, mặc dù vậy ông không cho bà nội tôi biết là ông sẽ đi đâu. Trên đường đi khỏi Trùng Khánh, ông đã dừng lại để chào tạm biệt con gái, bác Nellie ở trường trung học của bác ấy. Năm đó bác ấy mười lăm tuổi, và cũng không nghĩ nhiều về lần chia tay này; suốt cả cuộc đời bác ấy, người cha lúc nào cũng đi một nơi nào đó công tác.

Ông đến Thẩm Dương, thành phố lớn nhất vùng Đông Bắc, ngày 7 tháng Một năm 1946 - lần đầu tiên ông trở về quê hương sau mười lăm năm. Một người bạn cũ của ông, Đổng Văn Kỳ, hồi ấy đang là thị trưởng thành phố, đã cảnh báo ông hãy cẩn thận. “Anh ở Trùng Khánh đến,” Ông Đổng Văn Kỳ nói. “Anh không biết ở đây như thế nào đâu.” Ông nội tôi cũng nhận được cảnh báo từ một đầu mối liên lạc bên phía Liên Xô. Người Nga bảo ông hãy đợi cho đến khi tình hình trị an ở Phủ Thuận được cải thiện, và ông nội tôi đã lưu lại Thẩm Dương trong một tuần.

Tin đồn bắt đầu lan đi: ông sợ phải ra ngoài, người ta nói; ông đã đi suốt quãng đường dài đến Thẩm Dương chẳng để làm gì cả. Sáng ngày 14 tháng Một, cấp trên ở ủy ban Kinh tế Đông Bắc gọi điện hỏi về nhiệm vụ bị trì hoãn. Nổi giận trước ngụ ý ám chỉ mình hèn nhát đó, ông nội tôi đến khu mỏ ngay hôm ấy với khoảng sáu kỹ sư mỏ và vài người bảo vệ từ nhà ga địa phương. Ở khu mỏ, họ bị bắt làm tù nhân không chính thức, và bị giám sát bởi những người lính Xô viết và cảnh sát Trung Quốc. Trong hai ngày họ chẳng làm được bất cứ việc gì, rồi nhận được yêu cầu rời khỏi khu mỏ. Buổi tối ngày 16 tháng Một, ông nội tôi và đội của ông, vẫn bị giám sát nghiêm ngặt, tất cả lên một chiếc tàu của Liên Xô để trở về Thẩm Dương. Chín giờ tối hôm ấy, một đám lính vũ trang lên tàu ở một nhà ga bỏ hoang ở phía Tây Phủ Thuận. Họ ra lệnh cho ông nội tôi cùng đồng nghiệp của ông xuống tàu và áp giải họ đến một triền đồi gần đấy. Trong đêm đông tối tăm, xung quanh là vùng Mãn Châu hoang vu vắng vẻ, những tên lính ấy đã đâm họ đến chết bằng lưỡi lê.

Ông nội tôi thốt lên vài chữ khi ông hấp hối, theo lời một tờ báo thời bấy giờ. “Tôi là người của chính phủ Trung ương,” ông nói. “Chết vì nhiệm vụ, tôi không có gì để oán trách cả.”

***

Không có tin tức gì ở Trùng Khánh cả. Một hôm, bà nội tôi đến chùa để hỏi về số phận người chồng mất tích của mình.

Khách viếng chùa sẽ ném hai mảnh gỗ lên cho đến khi chúng rơi tạo thành một sự kết hợp nhất định, rồi sau có rút một thanh tre có khắc số. Con số đó tương ứng với một lời sấm, được diễn giải bằng một bài thơ mà ý nghĩa thường mơ hồ nhập nhằng. Lời sấm này được xếp hạng, từ “thượng thượng” đến “hạ hạ”.

Ngày hôm ấy, bà nội tôi bắt được thẻ xăm “hạ hạ”. Và ý nghĩa của bài thơ đó quá rõ ràng, đến nỗi sáu mươi năm sau đó, cha tôi, hồi ấy mới chỉ là đứa trẻ mười tuổi vẫn nhớ và ngâm lại cho tôi từng chữ một:

Ngày xưa bánh lái bị lạc tay

Ngày nay vẫn tìm giữa biển cả

Cho dù thứ ngày xưa có thể tìm lại lần nữa

Thì cũng mất nhiều nỗ lực và mệt mỏi con tim

Ở Thẩm Dương, có tin đồn rằng ông nội tôi và sáu người đồng nghiệp đã bị sát hại. Ông Đổng Văn Kỳ, thị trưởng đồng thời cũng là bạn của ông tôi nhận được một cuộc điện thoại từ vị chỉ huy quân đội Xô viết trong vùng. Ông đến tổng hành dinh của họ, trong cuốn hồi ký viết bốn mươi năm sau đó, ông nhớ lại cảnh tượng ấy:

Tôi thấy một chiếc xe tải đỗ giữa sân, bên trong có một chiếc quan tài bọc vải đen. Tôi nhảy lên xe và mở nắp quan tài ra, không nghi ngờ gì nữa, đó chính là Sân Phu. Anh ấy vẫn mặc bộ đồ Tôn Trung Sơn màu xanh sẫm mà tôi và anh đã cùng đi may ở Bắc Bình [Bắc Kinh]. Thân thể anh ấy đã bị đâm mười tám nhát.

Thi thể của ông nội tôi đã được tắm rửa sạch sẽ và chụp ảnh, những bức ảnh chỉ rõ nhiều vết thương do lưỡi lê gây ra và những dấu dây thừng ở chỗ cánh tay ông bị trói. Quan tài ông được đưa đến đền thờ Thần Chiến tranh ở Thẩm Dương, được trưng bày ở đó trong ba tháng. Bộ quần áo thấm máu anh ấy đã mặc khi bị đâm mười tám lần treo trong đền để mọi người đến nhìn, Đổng Văn Kỳ viết, để làm tăng thêm cảm giác căm giận kẻ thù trong họ.Những bức ảnh chụp xác ông tôi cũng được phát tán rộng rãi, cũng với mục đích tuyên truyền. Khi tin tức về vụ sát hại bùng lên vào tháng Hai năm 1946, sinh viên biểu tình ở khắp các thành phố lớn trên đất nước Trung Quốc yêu cầu quân đội Xô viết nhanh chóng rời khỏi Mãn Châu. Ở Trùng Khánh, có khoảng hai mươi nghìn sinh viên phản đối vụ giết chóc và sự hiện diện của quân đội Xô viết ở vùng Đông Bắc. Cách đó nửa vòng thế giới, ở Pulton, bang Missouri (Hoa Kỳ) ngày 5 tháng Ba, Winston Churchill đã có bài phát biểu về Bức màn sắt nổi tiếng của mình và viện dẫn hành động của quân Xô viết ở Mãn Châu như một ví dụ của ý hướng thù địch của họ.

Vụ giết người đó không bao giờ được giải quyết. Quốc dân Đảng cho rằng những người Cộng sản đã giết ông nội tôi và cả đội của ông, như một lời cảnh báo chính phủ Quốc dân Đảng hãy tránh xa đất Mãn Châu ra. Còn những người Cộng sản, ngược lại, nói rằng Quốc dân Đảng đã dàn dựng nên vụ sát hại đó để gây dư luận chống lại Đảng Cộng sản. Liên bang Xô viết quy trách nhiệm vụ này cho “thổ phỉ phiến loạn” ở địa phương. Không một ai đứng lên nhận trách nhiệm về hành vi sát hại một nhóm công dân không có vũ khí - một hành động hèn nhát. Mục đích không được nhắc đến nhưng thông điệp thì rõ ràng như nhau: cuộc chiến cũ đã kết thúc, cuộc chiến mới đã bắt đầu, cái chết của ông nội tôi chỉ là mở đầu cho nhiều cái chết khác.

NHỮNG ĐỨA CON NHỚ LẠI đã nghe tin ấy như thế nào. Một buổi chiều mùa đông, mẹ của họ được gọi đến nhà một người bạn. Khi trở về, bà đi thẳng vào phòng ngủ và bắt đầu khóc lớn đến nỗi tất cả các con đều nghe thấy tiếng bà. Rồi sau đó, bà bước ra ngoài, gọi các con lại xung quanh và nói với chúng rằng, cha chúng đã bị sát hại. “Đừng lo lắng,” người mẹ nói. “Mẹ ở đây.” Bà bảo với những đứa con rằng họ sẽ không bao giờ thấy bà rơi nước mắt một lần nữa.

Sau cái chết của ông nội, bà nội tôi bắt đầu tham gia các hoạt động xã hội - theo cách nào đó, vũ đài lớn hơn ấy phù hợp với tính cách mạnh mẽ của bà hơn. Bà được bầu vào Quốc hội và tiêu tốn hầu hết thời gian của mình ở thủ đô Nam Kinh. Đồng thời, bà cũng xây dựng một đường dây phân phối than để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Bà đã nói sự thật: những đứa con của bà không bao giờ thấy bà khóc lần nào nữa. Nhưng mái tóc bà đã ngả sang màu xám bạc và bà bắt đầu hút thuốc liên tục, suốt đêm, dường như đối với những đứa con, bà đã trở nên già cỗi. Lời tiên tri ở ngôi chùa cũng đúng về điều này. Cho dù thứ ngày xưa có thể tìm lại lần nữa. Thì cũng mất nhiều nỗ lực và mệt mỏi con tim.

Bà nội tôi luôn tin rằng chính những người Cộng sản đã giết chồng bà. Bà nói, ông Tôn Việt Kỳ, người bạn đã không đến Phủ Thuận của ông nội, đáng lẽ ra phải chết ở đó mới đúng. Nhưng Tôn Việt Kỳ đã sống sót. Ông ta về sau đã đầu hàng Cộng sản vào năm 1949 - một năm có rất nhiều vụ đầu hàng như thế - và lãnh đạo ủy ban Cách mạng Quốc dân Đảng, một đảng phái không có thực quyền tồn tại chỉ để chứng minh sự hư cấu rằng Trung Quốc không phải một đất nước độc đảng. Nhiều năm sau đó, cha tôi kể rằng ông đã nhận được tin tức từ Tôn Việt Kỳ.

Sau khi bố đến Mỹ, làm việc ở IBM, Tôn Việt Kỳ gửi cho bố một tấm thiệp Giáng sinh. Ông ta nói muốn gặp bố khi bố tới Bắc Kinh lần tới.

Bố không bao giờ gặp ông ta. Bố từ chối.

Tôn Việt Kỳ đã hưởng một sự nghiệp khá dài trong chính phủ, ông ta thọ những 102 tuổi.

***

Tang lễ bị hoãn hơn một năm. Sau khi cuộc nội chiến chính thức bắt đầu trở lại vào mùa hè năm 1946, cuộc chiến càn qua làng Lục Đài, khu vực này thay đổi phe kiểm soát ba lần trong năm đầu tiên của chiến tranh. Cuối cùng chính phủ cũng quyết định an táng ông nội tôi trong một công viên ở Thẩm Dương, nơi có lăng mộ của vị hoàng đế đầu tiên của triều Thanh. Chỉ có ba người con trai đến tham dự lễ tang, điều mà cô Irene của tôi vẫn nhớ lại đầy phẫn nộ mãi sáu mươi năm sau đó. Chuyến hành trình đến tham dự lễ truy điệu cha họ là cái mốc đánh dấu việc lần đầu tiên cha tôi, bác Luke và chú Leo lúc ấy mới ba tuổi đi ra “quan ngoại”, đến Mãn Châu. Anh họ của họ, bác Lập Giao, khi đó đã trở thành một giảng viên Đại học Bắc Kinh cũng đi cùng bà nội tôi.

Đoàn diễu hành tang lễ có một đội quân vũ trang đi theo hộ tống. Có tin đồn rằng những người Cộng sản muốn tiêu diệt toàn bộ gia đình chúng tôi, một hình phạt có từ thời phong kiến, gọi làmiemen (diệt môn). Hơn mười nghìn người đã đứng hai bên đường đi, chen chúc bày tỏ lòng kính trọng và cố nhìn vào chiếc quan tài gỗ đàn nặng nề. Cha tôi, năm ấy mới mười tuổi, vẫn còn nhớ mình đã bị đám đông làm cho kích động thế nào. Trong công viên của hoàng tộc ở Bắc Lăng - nghĩa là “Lăng mộ phương Bắc” - ông tôi được đặt nằm yên nghỉ gần “linh đạo,” một con đường hai bên có những bức tượng đá khổng lồ hình người và thú vật để phục vụ cho vị hoàng đế dưới suối vàng. Một miếng cẩm thạch đen nhỏ khắc hàng chữ “Mộ của ông Trương Sân Phu” là vật duy nhất để đánh dấu ngôi mộ. Bên cạnh ngôi mộ có dựng một tảng đá cao, được gọi là bia, mà theo truyền thống, tấm bia này sẽ được khắc lên câu chuyện về cuộc đời ông, ngợi ca tài năng và đức độ của ông nội tôi.

Chính phủ đã thảo ra một bản khắc trên tấm bia để quy trách nhiệm cái chết của ông nội tôi cho phe Cộng sản. Nhưng gia đình tôi cự tuyệt quyết định này. Bác Lập Giao, như hầu hết những tri thức trẻ thời bấy giờ, là một người nồng nhiệt ủng hộ Cộng sản, không đồng ý với phiên bản câu chuyện của chính phủ về cái chết của chú mình. Bà nội tôi cũng phản đối, mặc dù lý do của bà thực tế hơn nhiều: bà tin rằng phe Cộng sản sẽ thắng trong cuộc chiến. Một tấm bảng chỉ trích Đảng Cộng sản có hành vi ám sát chính trị sẽ không thể tồn tại trong chế độ mới. Tốt hơn là, bà nghĩ, không nói gì hết. Sau tang lễ, cuối năm 1947, gia đình tôi chuyển đến Bắc Kinh. Năm tiếp sau đó, phe Cộng sản chiếm được Thẩm Dương và cả vùng Đông Bắc, nhưng đến lúc đó gia đình tôi đã chạy sang Đài Loan. Sau chiến thắng của phe Cộng sản, bác Lập Giao bị điều động đến Cáp Nhĩ Tân và đất nước bị các cuộc vận động chính trị nuốt chửng, đồng thời việc đi lại tự do cũng bị cấm. Không còn thành viên nào trong gia đình ở lại Thẩm Dương để chăm nom cho ngôi mộ của ông nội. Và tấm bia bên cạnh mộ ông vẫn để trống trong gần nửa thế kỷ. Năm tháng trôi đi, những người ở Thẩm Dương biết câu chuyện về nó đều đã chuyển đi hoặc qua đời. Dân chúng thành phố bắt đầu gọi ngôi mộ là vô danh bi: tấm bia vô danh.

***

Cách mạng vô sản tràn vào Lục Đài mùa hè năm 1946. Tổ chức đảng lan tỏa đến khắp các ngôi làng ở Mãn Châu, đánh giá “tình trạng giai cấp” của từng gia đình một, tịch thu đất đai và gia súc từ những nhà giàu có để chia cho những người nghèo nhất. Làn sóng cải cách ruộng đất thứ hai, cuộc vận động “Đào hầm” vào năm 1947, lùng sục để tìm bằng được của cải mà các gia đình đã giấu đi. Các nhà hoạt động chính trị dạy cho dân làng tố cáo những địa chủ trong các cuộc mít tinh tập thể, hay còn gọi là “đấu tố”, những mục tiêu mà họ lựa chọn bị chửi bới, nhục mạ và đánh đập. Làn sóng thứ ba, nổi lên vào mùa đông năm 1948, là cực đoan nhất và đã kết thúc trong cái chết của vô số “kẻ thù của cách mạng”. Bạo lực ngày một tăng cao là nhân tố chủ chốt để phá vỡ hệ thống cũ. Để sửa chữa sai lầm, Mao Trạch Đông đã viết trong một bài luận năm 1927 về các cuộc khởi nghĩa nông dân, cần phải trở nên cực đoan nếu không sai lầm sẽ không bao giờ được sửa chữa.

Ở Lục Đài, cán bộ Đảng Cộng sản và dân làng đã tấn công Tân Phát Nguyên, sản nghiệp của gia đình tôi. Họ kéo đổ những mái hiên gỗ của căn nhà và đốt hết sách trong thư viện, họ lấy bộ sưu tập mẫu khoáng vật ông nội tôi thu thập từ thời sinh viên đi rồi ném hết xuống sông. Chính quyền mới của thôn trưng dụng chái phía Đông của nhà chính để làm trụ sở, trong khi chái phía Tây bị biến thành nhà kho và nơi xay xát gạo. Vài gia đình nghèo chuyển vào sống trong chái phía Tây và nhà sau, nơi các thành viên trong gia đình chúng tôi thờ cúng tổ tiên.

Anh cả của ông nội tôi là Trương Phượng Ân chạy khỏi làng khi cuộc tấn công bắt đầu. Ông đến sống ở Bắc Kinh với bác Lập Giao và những người còn lại trong gia đình. Ông Phượng Ân là người con trai cả và chủ nhân của Tân Phát Nguyên suốt cả cuộc đời mình, nhưng ở Bắc Kinh, điều này chẳng có ý nghĩa gì cả. Bà nội tôi cằn nhằn cách sống lạc hậu và tính tình biếng nhác của ông; bà nhiếc móc thói quen khạc nhổ xuống sàn nhà của ông. Ông Phượng Ân chịu đựng những lời chỉ trích này trong im lặng. Ở thủ đô, ông biết vị thế của mình: ông chỉ là một ông già đến từ vùng quê, và đã hết thời được hưởng đặc quyền của người con cả.

Mặc dù vậy, lũ trẻ con lại thích ông. Ông hay kể cho các cháu mình về tài sản khổng lồ của gia đình mà chúng chưa bao giờ trông thấy.

“Bác có nhiều tỳ thiếp lắm phải không ạ?” Mấy đứa con trai hăm hở hỏi, nhưng chỉ khi nào mẹ chúng không nghe thấy.

“Không, chỉ có bố bác có nhiều tỳ thiếp thôi,” ông trả lời với một chút tiếc nuối pha trong giọng nói.

Cuộc cách mạng ở những làng quê nông thôn giống như Lục Đài đã trở thành mô hình kiểu mẫu cho những cuộc vận động trên diện rộng của kỷ nguyên Cộng sản. Các chiến dịch chính trị thành từng đợt, đợt sau cực đoan hơn đợt trước, hành vi bạo lực được cổ vũ như sự minh chứng của sự trong sạch cách mạng. Lịch sử không nói nhiều về cuộc cải cách ruộng đất những năm 1940 và những cuộc đời mà nó hủy hoại, có lẽ vì những cuộc vận động sau này xảy ra ở các thành phố và có nhiều nạn nhân dễ nhận thấy hơn. Các nhà sử học không chú ý nhiều đến những người như ông trẻ của tôi, những người đã bị buộc phải trốn chạy khỏi ngôi nhà của mình và sống qua ngày như một người khách trong căn nhà của người khác. Số phận của vợ ông còn bất hạnh hơn nhiều. Khi chồng bà đã trốn đến Bắc Kinh, bà vẫn ở lại làng. Và đó là điều hợp lẽ phải: một người đàn bà thì không nên đi đâu hết. Đàn bà nên ở nhà. Bà trẻ tôi bị đánh cho đến chết, có vẻ như là bởi những người bà đã quen biết cả đời mình, trong một trong những cơn sóng cồn bạo lực cách mạng càn quét qua gia đình tôi vào cuối những năm 1940. Tôi thậm chí còn không biết tên bà là gì.

***

Bản đồ Bắc Kinh của cha con tôi không giống nhau. Vài năm trước, cha mẹ đến thăm tôi ở đó và chúng tôi lái xe về miền quê ở phía Đông Bắc thành phố. Trong xe, cha tôi trải ra một tấm bản đồ và đọc lớn tên các thị trấn: Cổ Bắc Khẩu, Hỷ Phong Khẩu. Đó là những quan ải nổi tiếng được các hoàng đế triều Minh xây trên Vạn Lý Trường Thành; đối với tôi, chúng là những địa điểm du lịch đông nghịt vào những ngày cuối tuần mùa hè. Đối với cha tôi, đó là những nơi đã đầu hàng mà không hề chiến đấu, từng nơi một, khi Quân Giải phóng Nhân dân khép chặt vòng vây xung quanh Bắc Kinh hồi ông mới mười hai tuổi.

“Không có trận chiến nào để bảo vệ Bắc Kinh cả,” cha tôi nói. “Con có biết tại sao không? Những vị tướng đóng ở đây chưa bao giờ trung thành với Tưởng Giới Thạch. Họ đầu hàng Cộng sản ngay cả khi chưa hề chiến đấu.”

Đó là mùa thu năm 1948, và bà nội tôi đã đoán đúng: phe Cộng sản thắng trong cuộc chiến. Cùng với thất bại về mặt quân sự, số người đầu hàng ngày một tăng, người ta bắt đầu hướng ra các vùng ngoại vi của đất nước để trốn chạy. Đảo Đài Loan, cách bờ biển Trung Quốc một trăm dặm là một nơi có thể ẩn náu; những gia đình thương gia Thượng Hải thì thích thuộc địa Hồng Kông của nước Anh hơn. Một số người bàn đến chuyện rút về miền Tây Nam, vùng đất đã cứu Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Nhật: từ những căn cứ trong núi ở Trùng Khánh và tỉnh Quảng Tây, ở biên giới Trung Quốc-Việt Nam, những người trốn chạy một ngày nào đó sẽ đánh ngược trở về trung tâm đất nước.

Các gia đình chia lìa trước sự tấn công của phe Cộng sản. Người cha có thể lên đường với những đứa con lớn trong khi mẹ và các em chúng ở lại phía sau, hoặc một gia đình sẽ để lại đứa con nhỏ nhất cho ông bà chăm sóc, còn các thành viên còn lại sẽ đi trước. Mọi người đều nghĩ sự chia tách này chỉ là tạm thời - tất cả đều mong mỏi phe Quốc dân Đảng sẽ giành lại thế chủ động về mặt quân sự trong thời gian ngắn. Bà nội tôi bị dằn vặt vì không biết đi đâu. Và một lần nữa, bà lại đến chùa, lần này những tấm thẻ tre đã bảo với bà: đi Đài Loan.

Mùa thu năm 1948, Tưởng Giới Thạch và phu nhân Tống Mỹ Linh đến Bắc Kinh. Họ đã đi tham quan Di Hòa Viên, một công viên mênh mông ở khu ngoại ô phía Tây Bắc thành phố được các hoàng đế triều Thanh xây dựng để tránh cái nóng mùa hè. Triệu Hồng Chí, bạn trai của bác Nellie tình cờ cũng đến Di Hòa Viên ngày hôm ấy. Bác ấy đã chụp một tấm ảnh vị tổng thống nước Trung Hoa Dân quốc và phu nhân khi họ dạo bước qua những khu vườn và đình đài, bên bờ hồ nước trồng hàng liễu xanh um lần cuối cùng. Năm sau đó, khi đã mất hầu hết quyền kiểm soát đất nước, Tưởng Giới Thạch di chuyển thủ đô trở lại căn cứ thời chiến là Trùng Khánh. Rất nhiều gia đình đã chuyển đi cùng ông ta, sau đó thủ đô lại di dời một lần nữa, đến thành phố Thành Đô gần đó. Cuối cùng, tháng Mười hai năm 1949, Tưởng Giới Thạch lên máy bay đến Đài Loan, lập nên một chính quyền mới ở đó, bỏ lại phía sau rất nhiều người đã theo ông đến tận cùng.

KHÔNG PHẢI AI CŨNG MUỐN RA ĐI. Bà nội tôi đã mời bác Lập Giao và bác Triệu Hồng Chí cùng đi với gia đình đến Đài Loan, nhưng cả hai người bọn họ đều làm bà phải thất vọng. Bác Triệu Hồng Chí là một sinh viên còn bác Lập Giao là một giảng viên đại học. Như nhiều trí thức cùng thời, họ ủng hộ phe Cộng sản và mong chờ được xây dựng một đất nước mới. Cha tôi và bác Luke còn quá nhỏ để có cái gọi là quan điểm chính trị. Còn bác Triệu và bác Lập Giao thì đã đủ lớn, chính sự trưởng thành ấy đã phong kín số phận của họ lại.

Bác Nellie của tôi; theo như những người khác trong gia đình kể, cũng muốn ở lại. Là một nữ sinh trung học, bác bị dằn vặt giữa mong muốn của gia đình và sự ủng hộ phe Cộng sản trong mình. Bác cũng đang yêu nữa - bạn trai bác, bác Triệu Hồng Chí, tin vào cuộc cách mạng và dự định sẽ ở lại. Nhưng bác Triệu lại thuyết phục bác Nellie rằng bác nên ra đi, để giúp đỡ mẹ và bốn đứa em của mình. Hai người đã thỏa thuận rằng cho dù kết cục có thế nào, mỗi người cũng sẽ đăng một quảng cáo “Tìm người” trên tờ báo lớn nhất thành phố để họ có thể tìm lại được nhau.

“Chuyện đó thật vớ vẩn!” Bác Nellie nói khi tôi kể lại phiên bản này của câu chuyện cho bác hồi mới gần đây. “Anh ấy muốn bác đến Đài Loan với lũ trẻ rồi trở lại Trung Quốc.”

Là chị cả trong gia đình, bác Nellie luôn là người được cha cưng chiều. Bác đón nhận lấy sự cưng chiều đó như đặc quyền của riêng mình, nhưng; bác cũng được dạy bảo là phải biết trách nhiệm của mình. Khi tôi hỏi xem bác có muốn ở lại vào mùa thu năm 1948 ấy hay không, bác gạt phăng tôi đi. “Bác không cần biết là có đi hay không,” bác ấy nói, “nhưng bác có trách nhiệm phải trông nom những đứa em nhỏ hơn mình.”

Một buổi chiều mùa hè ở Bắc Kinh, tôi đến thăm bác Triệu Hồng Chí, bạn trai cũ của bác Nellie. Bác ấy đã tám mươi tuổi và vừa mới chuyển đến khu chung cư cách chỗ tôi ở một khu phố. Vợ bác Triệu ở nhà. Ngay lần đầu tiên đến, tôi đã gặp bà. Gương mặt bà không để lộ chút cảm xúc nào khi ra đón tôi: cháu của bạn gái cũ của chồng mình, đến để nói chuyện về chuyện tình đã xa xưa ấy.

Trong phòng khách, bác Triệu cẩn trọng nói về tuổi thơ và mối quan hệ với gia đình tôi. Vợ bác đi qua căn phòng, rồi ngồi xuống bàn ở phòng ăn bên cạnh đọc báo. Thi thoảng bà ấy lại sột soạt những trang báo để chúng tôi biết bà ấy vẫn đang đọc. Điều hòa nhiệt độ của căn hộ mới vẫn chưa được nối điện, nên căn buồng hết sức nóng bức ngột ngạt.

“Bác Nellie có tham gia các hoạt động của phe Cộng sản không?” Tôi hỏi bác Triệu.

“Không,” bác ấy đáp. “Hồi đó, cô ấy vẫn còn đang đi học.”

“Nhưng cháu luôn nghe mọi người bảo bác ấy không muốn rời khỏi Trung Quốc.”

“Cô ấy không muốn rời khỏi Trung Quốc.”

Tôi liếc nhìn ông. Bác Triệu ngồi thẳng thớm trên ghế bành - nghiêm nghị như một chàng sĩ quan trẻ kiêu ngạo với điều mình biết.

Bác lặng lẽ chỉ vào mình, ngón tay cái trỏ lên ngực như một lưỡi dao găm dã tìm thấy mục tiêu của nó. Ở căn phòng bên cạnh, không có tiếng giở báo sột soạt nữa.

MÙA THU NĂM 1948 ĐÓ, Quốc hội vẫn đang họp. Bà nội tôi, lúc ấy đang ở Nam Kinh, cố gắng một cách điên dại để bí mật đưa các con ra khỏi Bắc Kinh khi quân đội Cộng sản đang tiến về thành phố. Vé tàu đi Thượng Hải đã bán hết, còn sân bay địa phương thì đã đóng cửa. Bà nội tôi đến gặp một vị tướng trong Không quân tên là Chu Chí Nhu(20), và lật lá bài cuối cùng bà có trong tay lên. “Chồng tôi đã hy sinh vì đất nước này,” bà nói, “tôi muốn đưa con của tôi đi khỏi đó.” Những người con của bà rời Bắc Kinh đến Nam Kinh trên một chiếc máy bay vận tải quân sự DC-3 cất cánh từ một con phố đã được chuyển thành đường băng tạm thời. Đó là một trong những chuyến bay cuối cùng rời khỏi Bắc Kinh vào tháng Mười năm 1948.

(20) Chu Chí Nhu (1898-1986), tự Bách Phúc, người Lâm Hải, Thái Châu, Triết Giang. Thượng tướng cấp một của Không quân chính quyền Quốc dân Đảng.

Triệu Hồng Chí đi cùng cả gia đình để tiễn họ. Bác đạp xe về nhà khi chiếc DC-3 gầm rú trên đầu, mang theo tình yêu của bác đi, cảnh tượng hệt như đoạn cuối cùng trong phim Casablanca. Nhiều năm sau đó, bác Triệu đã viết trong một bài văn của mình thế này:

Tôi đã tiễn biệt tình yêu thuở ấu thơ, cô ấy sẽ đi học ở trường Trung học nữ Nam Khai ở Thiên Tân. Khi chiếc máy bay cất cánh và bay qua trên đầu, tôi vừa đạp xe rời khỏi sân bay và đi qua Vườn thú Bắc Kinh. Tôi đã nói với cô ấy rằng tôi sẽ ra vùng tự do trong một tuần nữa. Trong khoảnh khắc ấy, tôi nghĩ hành động ấy thật anh hùng và hấp dẫn.

Bác Triệu có nhận được một bức thư của bác Nellie gửi từ đảo Đài Loan. Bác Nellie quyết định học chuyên ngành ngoại ngữ, ngành học mà bác Triệu cho rằng thích hợp với phụ nữ. Bác không nhận được tin gì của bác Nellie kể từ đó - không có liên lạc gì nữa giữa Đài Loan và Trung Quốc đại lục trong khoảng bốn thập kỷ tiếp đó. Sau khi bác Nellie đi, bác Triệu nghỉ học và cùng mấy người bạn sinh viên đi đến “vùng tự do” đã nằm dưới quyền khống chế của Cộng sản bên ngoài Bắc Kinh. Bác đổi tên mà cha mẹ đặt cho mình thành Lập Sinh, nghĩa là “xây dựng cuộc đời”: chuyện này khá phổ biến, trong thời kỳ cách mạng, lấy một tên mới tượng trưng cho sự cắt đứt với quá khứ. Mùa đông năm sau đó, các sinh viên diễu hành bên cạnh những người lính Cộng sản khi họ tiến vào thủ đô. Bác Triệu tìm được công việc ở Sở Giáo dục thành phố. Trong cuộc vận động chống phái hữu nhằm vào các phần tử trí thức năm 1957, bác mất chức giáo sư đại học và bị đưa về nông thôn lao động. Bác Triệu ở đó hai mươi năm. Đến hơn năm mươi tuổi, bác mới được trả lại công việc và Đảng tịch của mình. Đến lúc đó, bác không còn muốn ở trong Đảng nữa, nhưng bác cũng không dám từ chối nó.

Tôi chưa bao giờ nghe bác Triệu nói mình hối hận vì đã ở lại Trung Quốc. Người Trung Quốc không có cái kiểu hối tiếc như vậy - bởi sẽ có quá nhiều điều để nói và chẳng được ích lợi gì. Trong sâu thẳm, có vẻ như bác Triệu còn tự hào với sự lựa chọn của mình, ký ức về nó vẫn chói lọi ánh vàng, không hề bị lấm bẩn bởi tất cả những gì xảy ra sau đó. “Bác muốn ở lại, để giúp đất nước Trung Quốc,” bác Triệu nói với tôi. “Hồi ấy bọn bác rất có lý tưởng. Ai có thể nói bọn bác đã sai chứ?”

***

Con tàu đưa những người tị nạn của cuộc nội chiến đến Đài Loan tên là Thịnh Vượng (Prosperity). Bác Nellie đi trước với ba em trai và một người giúp việc trong gia đình, bà này từng là vú nuôi của cha tôi, cha tôi và các anh chị em của ông gọi bà là má Vương. Chuyến hải hành kéo dài hai ngày hai đêm, hầu hết mọi người đều bị say sóng. Khi con tàu đến cảng Cơ Long ở Đài Loan, bác Nellie trông thấy các đồng nghiệp cũ và sinh viên của cha mình ra đón ở cầu tàu. Nhưng không ai được xuống khỏi con tàu nếu không có giấy tờ hợp lệ - ngay cả trong những thời khắc hỗn loạn cuối cùng của cuộc nội chiến, thói quan liêu của người Trung Quốc vẫn cứ hoành hành - không đứa trẻ nào có giấy tờ. Bác Nellie như phát điên lên. Sau đó bác nhận ra vài người trong thủy thủ đoàn đang vác hành lý khỏi tàu qua một lối đi mé bên cạnh, vậy là bác liền dẫn các em đi theo lối đó. Má Vương ngần ngừ ở lại phía sau, chân bà bị bó và bà sợ mất thăng bằng khi đi trên lối đi hẹp ấy. “Má phải đi, hoặc bọn cháu sẽ quay lại,” Nellie ra lệnh, và má Vương nghe lời bác ấy. Trên thực tế, con tàu đã trở lại Trung Quốc với rất nhiều hành khách vẫn đang ở trên tàu - họ trở thành công dân nước Trung Quốc Cộng sản khi chỉ còn cách Đài Loan chỉ vài bước chân. Bà nội và cô Irene của tôi cũng đến được Đài Loan hai tuần sau đó.

Đối với họ, hòn đảo ấy chưa bao giờ là quê hương. Trong mắt họ, nó chỉ là một trạm dừng chân chờ đến ngày họ trở về Đại lục. Những ngưòi tị nạn đến từ Trung Quốc Đại lục được gọi làwaishengren (ngoại tỉnh nhân), người đến từ các tỉnh ngoài. Họ sống tách rời khỏi những người Đài Loan bản địa và không bao giờ thâu nhận thổ âm địa phương. Ở trường, con cái họ học thuộc lòng tên núi tên sông ở Trung Quốc và hát những bài hát về bức Vạn Lý Trường Thành mà có thể chúng không bao giờ trông thấy. Vạn Lý Trường Thành trong tim ta dài vạn dặm. Đất nước của thời ấu thơ và của tổ tiên họ trở thành vùng đất trong ký ức, một vùng đất để tái tạo lại trong trí tưởng tượng của họ.

Cha tôi sống ở Đài Loan mười một năm, gần bằng thời gian ông sống ở Trung Quốc. Khi kể tôi nghe câu chuyện của gia đình, ông mất vài tiếng đồng hồ để nói về Trung Quốc; còn Đài Loan, ông bỏ qua chỉ sau ba bốn câu ngắn ngủi.

Bố và những người thân sống ở Đài Bắc khoảng sáu tháng, sau đó chuyển đến Đài Trung. Bọn bố chỉ được ăn thịt gà khi Tết đến và hai hay ba quả dưa hấu trong mùa hè. Mẹ bố là một nhà lập pháp khi bà ấy qua đời.

Từng người một, bố cùng những người thân đến Mỹ.

Chính phủ đã lập một quỹ quyên góp để hỗ trợ gia đình sau khi ông nội tôi bị giết. Bà nội đã dùng số tiền đó để mua vàng miếng và trái phiếu chính phủ, đống trái phiếu đã thành một mớ giấy lộn vô giá trị, nhưng số vàng thì đã giúp gia đình duy trì được trong nhiều năm. Bố và người thân để vàng miếng trong thắt lưng mỗi khi đi đâu, bố tôi hồi tưởng lại. Vì họ là con liệt sĩ, nên chính phủ trả tiền học và thậm chí cả tiền đồng phục ở trường cho họ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3