Gái công xưởng - Phần I - Chương 05 phần 2
Cô gái có những lọn tóc nhuộm đỏ dừng lại. Cô khoác trên vai một chiếc ba lô bằng nilon hiệu Nike. “Tớ về nhà,” cô đáp.
“Cậu về nhà? Bây giờ ư?
“Bây giờ.”
Thiến Thiến nắm bàn tay cô gái kia một lúc. “Được, tạm biệt nhé,” cô nói. Cô nhìn bạn mình đi xa dần. “Ta gặp quá nhiều bạn bè trong những nhà máy như thế này, thế rồi họ về quê hết.”
“Các cô có giữ liên lạc không?” Tôi hỏi.
“Khó lắm. Thỉnh thoảng chúng em cũng trao đổi địa chỉ.” Bạn thân nhất của cô ở thành phố là người cô đã gặp trong thời gian làm việc ở Dụ Nguyên lần đầu tiên. Họ đã cùng lúc nghỉ việc ở nhà máy, người nào về quê người nấy, và hẹn nhau sẽ cùng rời làng quê ra đi một lần nữa. Thiến Thiến thường xuyên ghé thăm bạn vào nhũng ngày được nghỉ. Nỗ lực cần thiết để giữ liên lạc được với nhau giải thích tại sao các nữ công nhân nhà máy lại có ít bạn bè thực sự đến thế. Điều dễ xảy ra nhất trên đời này, chính là đánh mất mối liên hệ với một ai đó.
Chúng tôi ngồi xuống một quảng trường đầy nắng bên ngoài cửa hàng bách hóa ăn kem ốc quế. Một cô gái mặc áo đồng phục nhà máy kẻ xanh trắng có vẻ như quen biết Thiến Thiến ngồi xuống cạnh chúng tôi. Cô vung vẩy tấm bưu thiếp mình đang đi gửi một cách vu vơ. “Tớ bỏ nhà máy rồi,” cô lên tiếng. Trời nóng đến nỗi chẳng ai đáp lại. Hai cô gái ngồi trong yên lặng và nhìn tôi hí hoáy viết vào cuốn sổ.
“Cậu có đọc được tiếng Anh không?” Thiến Thiến hỏi cô gái.
Cô gái kia cười rũ rượi. “Thậm chí tớ còn chưa tốt nghiệp tiểu học nữa là!”
Sau khi cô gái kia đi, Thiến Thiến giải thích rằng họ từng làm chung trong một nhà máy nhỏ gần đây. “Dụ Nguyên tốt hơn,” cô nói. “Phúc lợi tốt hơn. Có cả một thư viện và trung tâm sinh hoạt. Chị có thể chơi cờ hoặc vào câu lạc bộ lắc vòng.” Tôi hỏi cô có tham gia vào hoạt động nào không, thì cô bảo không.
Cô đi bộ dọc xuống phố, ngẫu nhiên gặp những người bạn đang chuẩn bị về quê, chào nhau một câu và rồi tạm biệt với những người mà rất có khả năng cô sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa. Ở quê nhà, cha mẹ Thiến Thiến cũng gây áp lực ép cô trở về, nhưng họ cũng muốn cô gửi thêm tiền. Cô đã gửi cho họ khoảng năm nghìn nhân dân tệ trong hai năm đầu tiên lên thành phố, nhưng sau đó thì không gửi gì nữa cả. Ở làng cô, các bậc cha mẹ có truyền thống xây nhà cho con trai trưởng thành sống sau khi anh ta lấy vợ, em trai Thiến Thiến mới mười bốn tuổi, nhưng cha mẹ cô đã bắt đầu lo lắng về phí tổn đó.
“Mọi người khác trong làng đều đã xây nhà,” bố Thiến Thiến nói với cô. “Làm sao nhà mình vẫn chưa xây được?”
“Con cũng đang định hỏi câu ấy đây,” Thiến Thiến vặc lại.
Từ làng quê, gia đình cố gắng tác động đến các cô con gái của họ. Gửi tiền về nhà. Đừng có quen bạn trai ở ngoài ấy. Lấy chồng cho sớm đi. Trở về đây. Trong hầu hết các trường hợp, các cô gái hành xử theo ý thích của mình. Cha mẹ Thiến Thiến thậm chí còn không biết số điện thoại của cô trong nhà máy - khi nào cô muốn nói chuyện, cô sẽ gọi cho họ. Họ lúc nào mà chẳng ở nhà.
***
Những con phố xung quanh Dụ Nguyên tràn ngập cơ hội tiêu tiền và tự nâng tầm bản thân lên. Những buổi chiều cuối tuần, Trung tâm đào tạo máy tính Hy Vọng đông nghịt công nhân ngồi trước màn hình học sử dụng Word và Excel. (Một tấm biển quảng cáo ở bên ngoài viết bằng tiếng Anh sai chính tả: MICROSOFT WORB.) Một cửa hàng bán áo sơ mi trắng cho nam giới giá hai mươi nhân dân tệ một chiếc, và một tiệm chụp ảnh đưa ra lựa chọn với các tấm phông nền gợi đầy ý chí vươn lên: khung cảnh điền viên, cột đá kiểu Hy Lạp, những căn biệt thự ngoại ô. Những người bán lẻ phục vụ cho những ai nhớ nhà với những thứ đậm chất vùng miền. BÁNH HẠT VỪNG CHU KHẨU HÀ NAM. CẮT TÓC VŨ HÁN. Một cửa hàng chỉ có một dãy những quầy điện thoại bằng nhựa gắn dọc bức tường, một ngành kinh doanh chỉ tồn tại duy nhất trong các thành phố của dân di trú. Bên bức tường đối diện là lịch trình tàu hỏa đi khắp các thành phố trên đất Trung Quốc: đi Ninh Ba hai mươi lăm tiếng, đi Thành Đô bốn mươi tiếng. Trung tâm y tế thị trấn Thượng Giang quảng cáo thử thai trong một phút, chữa các bệnh lây qua đường tình dục và phá thai. Bệnh viện bên trong nhà máy Dụ Nguyên cũng phá thai được, nhưng hầu như chẳng ai đến đó. Các phòng khám ven đường cũng thực hiện trình tự y như thế và chẳng ai biết là bạn làm gì ở đó cả.
Bên ngoài cánh cổng nhà máy Dụ Nguyên, có lần tôi đã thấy một người đàn ông nói vào bộ micro gắn trên đầu nhanh như một người rao hàng rong trong các hội chợ ngày trước. “Nếu bạn đau bụng, đau lưng, nếu bạn thấp khớp, thứ này chính là dành cho bạn đây.” Không khí chua lòm mùi rượu, trên một tấm chăn trải ra sát bức tường bày mấy con rắn trong lồng, một con sao biển và nhiều chai chất lỏng màu hơi nâu nâu như trà đá pha đặc. Vài con rắn, có vẻ như đã chết, được quấn bùng nhùng vào nhau trong giỏ nhựa; người đàn ông dùng một cái que đảo đảo chúng lên, như đang làm món xào. Anh ta hút thuốc liên tục rồi ho sù sụ, trông chẳng đủ tư cách để đưa ra những lời khuyên về y tế một chút nào. Thế nhưng cũng có một đám đông các chàng trai và cô gái trẻ tranh giành những tờ rơi mà anh ta phát ra.
RƯỢU RẮN BỔ THẬN
Thành phần: thành phần chính của sản phẩm này là rắn hổ mang chúa, rắn cạp nong, rắn vòng bạc, và các loại khác, tổng cộng bảy loại rắn độc và rất nhiều dược thảo.
Cách dùng: sáng và tối, mỗi lần một hoặc nửa lạng.
Một hôm khác cũng trên đoạn vỉa hè ấy, một người đàn ông nằm sấp, đôi chân tàn tật quấn bên dưới, đang cầm một mẩu phấn viết lên vỉa hè. Một đám đông những người di trú trẻ tụ tập lại đọc câu chuyện của anh ta: vợ anh ta chết, con trai đang ốm, anh ta đã phải đi một quãng đường xa để hành khất. Trong cốc của người đàn ông đã có vài tờ tiền lẻ, lúc tôi đứng quan sát thì có thêm hai người nữa cho anh ta tiền.
Từ con phố chính phía trước nhà máy Dụ Nguyên, các lối đi chạy vuông góc giữa các cửa hàng. Những ngõ ngách này đầy những rác rưởi còn trên tường nhà dán đầy quảng cáo chữa bệnh lậu và giang mai; ở Trung Quốc, những tờ rơi kiểu này đầy rẫy ở bất cứ đâu có nhiều gái điếm. Đi dọc theo một trong những lối đi ấy, có lần tôi đã nhìn được qua cửa sổ một căn nhà một tầng. Trong đó có những cô gái trẻ đang ngồi trong bóng tối, mái đầu cúi xuống khâu vá. Đó cũng là một nhà máy, loại tệ nhất ở đây.
Các cô gái làm việc ở Dụ Nguyên hiếm khi bén mảng tới những nơi này. Các đường ngách này không dẫn đến những con phố khác có trường dạy máy tính và cửa hiệu làm tóc: chúng đi đến khu ruộng đồng. Ngay bên ngoài rìa của thế giới các nhà máy, đàn ông và đàn bà tuổi trung niên đang làm việc trên những ruộng rau xanh ngắt, dưới bầu trời đầy mây nhưng chẳng thể bảo vệ họ khỏi ánh nắng mặt trời.
LỊCH TRUYỀN THỐNG (LỊCH ÂM) của Trung Quốc chia một năm thành hai mươi tư tiết và đưa ra chỉ dẫn cho nhà nông cứ hai tuần một lần. Một năm bắt đầu với tiết lập xuân, vào ngày 4 hoặc 5 tháng Hai và đó là thời gian để gieo hạt vụ xuân. Lịch âm còn chỉ ra lúc nào nên trồng dưa, đậu, hoa màu, củ cải đường, nho và lúc nào thì thu hoạch lúa, lúa mì, táo, khoai tây, củ cải và bắp cải. Nó dự đoán những đợt hạn và mưa lớn. Nó chỉ dẫn khi nào là thời gian chính xác để bảo vệ mùa màng khỏi gió máy, diệt sâu bọ và bón phân, diệt cỏ, tưới nước, khi nào thì đi sửa chuồng cho gia súc và khi nào đón mừng năm mới. Hệ lịch này đã được chuẩn hóa từ thời Tiền Hán - với nhiều khác biệt vùng miền, và nó đã chỉ đạo nhịp sống trên đồng ruộng suốt hai nghìn năm nay.
Các cô gái ở Dụ Nguyên chẳng biết gì về chuyện đồng áng. Khi về nhà, cha mẹ họ thường không muốn họ đụng tay đụng chân vào làm việc; nếu ra đồng giúp việc, các cô sẽ bị cháy nắng và bỏng rộp vì không quen môi trường làm việc. Một công nhân di trú đã mô tả một ngày điển hình ở quê với tôi: Cô tuân theo thời gian làm việc của nhà nông với những thành viên còn lại trong gia đình, nhưng cả ngày chỉ ngồi nhà xem ti vi.
Tôi dậy lúc 6h30. Tôi xem ti vi - Điểm tin tức, sau đó là các chương trình truyền hình dài kỳ. Tôi xem ti vi đến khoảng một hai giờ chiều. Sau đó tôi nằm ngủ và đi loanh quanh một lúc. Tôi ăn tối rồi đi ngủ lúc mười giờ.
Thời gian biểu toàn cầu của ngành gia công giày cũng bắt đầu vào mùa xuân. Máy móc tăng tốc vào tháng Ba và nhanh hơn nữa vào tháng Tư, Năm và Sáu, sản xuất ra giày dép trước mùa mua sắm mùa hè ở Mỹ và châu Âu. Tháng Bảy - khi việc nhà nông bắt đầu chuyển nhanh để vào vụ thu hoạch hè trước khi mưa xuống - ngành công nghiệp sản xuất giày bắt đầu rơi vào giai đoạn lắng. Các đơn hàng giảm xuống thấp nhất vào tháng Tám, dây chuyền sản xuất đôi khi chỉ chạy với hai mươi phần trăm công suất. Tháng Chín và tháng Mười, công việc lại bắt đầu và các máy móc chạy toàn thời gian trong mong ngóng chờ cao trào. Tháng Mười một và đầu tháng Mười hai là giai đoạn dốc hết công suất, mọi người đều phải làm thêm giờ để đón trận bão mua sắm Giáng sinh. Sau kỳ nghỉ lễ, vòng quay lại chậm lại cho đến mùa xuân.
Các cô gái nắm rõ các mùa của giày như lòng bàn tay, và cả nhịp điệu hằng ngày của nó. Trong những công xưởng sâu hun hút của Dụ Nguyên, gia công giày đế mềm là một môn khoa học được tính toán bằng đồng hồ bấm giây. Có một tấm bảng nhựa trước mỗi vị trí của dây chuyền sản xuất trên đó viết rõ một công nhân cần bao nhiêu giây để hoàn thành công việc được giao. Một dây chuyền sản xuất ở Dụ Nguyên cần mười tiếng đồng hồ để hoàn thành một chiếc giày, bốn năm trước thời gian đó là hai mươi lăm ngày, và số lượng giày bình quân một công nhân đã tăng lên 10%.
Công xưởng cũng có hệ thống cấp bậc riêng. Việc làm tốt nhất là ở bộ phận phát triển, công nhân ở đây chỉ sản xuất một lượng hàng hóa nhỏ làm mẫu và không có nhiều áp lực về sản lượng cho lắm. Thợ cắt và thợ làm đế ở nấc tiếp theo: là những người ở vị trí đầu tiên trong dây chuyền, họ dẫn nhịp và được hưởng nhiều tự do hơn. Công việc áp lực nhiều nhất là khâu may và lắp ghép, công nhân làm những việc này bị kẹt cứng giữa chu trình sản xuất. Áp lực dồn xuống họ từ cả hai phía - những người ở đầu trên dồn việc xuống chỗ họ, trong khi những người phía dưới lại yêu cầu họ làm nhanh nhanh tay lên. Có rất ít chỗ cho lỗi lầm ở đây: nhân viên KCS (kiểm tra chất lượng sản phẩm) và khách hàng đều tập trung vào những khu dưới của dây chuyền này, vì nhận ra lỗi ở một chiếc giày thành phẩm thì dễ hơn nhiều. Các công nhân ở đây có câu:
Bọn khâu may bị mắng đến chết,
Bọn phép giày làm việc đến chết,
Bọn thợ cắt chơi cũng đến chết.
Khi Dụ Nguyên xây dựng nhà máy đầu tiên của tập đoàn này ở Trung Quốc vào năm 1989, Hàn Quốc đang thống trị thị trường giày đế mềm thế giới. Trong thập kỷ đầu tiên ở đây, các nhà máy của Dụ Nguyên thường yêu cầu người lao dộng làm qua đêm và chỉ cho họ nghỉ một ngày mỗi tháng. “Chỉ cần cung cấp cho những nhãn hiệu ấy hàng hóa với một cái giá hợp lý, họ chẳng cần quan tâm bạn điều hành nhà máy thế nào cả đâu,” Allen Lee, người đứng đầu cơ sở gia công cho Adidas ở Đông Quản của Dụ Nguyên nói. “Chúng tôi không nói về chuyện có trả tiền làm thêm giờ hay là chuyện để sẵn giấy vệ sinh trong nhà tắm hoặc công nhân có cần rửa tay hay không, rồi cả chuyện bao nhiêu người ngủ chung một phòng ở tập thể nữa. Chúng tôi sử dụng phương thức quản lý kiểu đàn áp: đây là việc của cô và nếu cô phải ở lại ba ngày ba đêm để hoàn thành nó, cô cũng phải làm.”
Lực lượng lao động rẻ mạt, tích cực của Trung Quốc rất thích hợp với công việc khát người lao động như khâu giày, nên sang đến thập kỷ 90 của thế kỷ trước, Trung Quốc trở thành người dẫn dầu trong ngành công nghiệp này. Sau khi các nhãn hiệu lớn của Mỹ bị các nghiệp đoàn và các nhóm bảo vệ quyền công nhân phản đối vì điều kiện, làm việc quá khắc nghiệt trong các nhà máy của họ, Nike và Adidas bắt đầu ép những nhà cung cấp của mình cải thiện môi trường làm việc. Dụ Nguyên chuyển sang chế độ ngày làm việc mười một giờ và nghỉ mọi ngày Chủ nhật; rất nhiều công nhân đã bỏ việc với lời phàn nàn rằng tiền làm thêm giờ không đủ nữa. Công ty đã thành lập một đơn vị độc lập dể xem xét điều kiện làm việc và một trung tâm tư tư vấn, nơi công nhân có thể kêu ca phàn nàn và tìm kiếm sự trợ giúp và nộp đơn khiếu nại. Nhà máy đã cải thiện tiêu chuẩn an toàn, cấm các hóa chất độc hại, bỏ các bài tập vận động kiểu quân đội. Nhưng mặc dù các nhãn hiệu đã buộc các nhà máy phải đối đãi với công nhân tốt hơn, họ cũng đồng thời gây áp lực ép nhà sản xuất phải giảm chi phí. Nhiều khi những mục tiêu này gây hiệu quả trái ngược hoàn toàn. Trước đây cơ sở sản xuất cho Adidas của Dụ Nguyên cấp đồng phục miễn phí cho công nhân. Nhưng trước áp lực cắt giảm chi phí từ phía Adidas, Dụ Nguyên bắt đầu thu tiền đồng phục của công nhân, nhưng Adidas cũng phán đối cả chính sách này. Cuối cùng thì Dụ Nguyên quyết định bỏ luôn đồng phục, giờ đây các công nhân mặc quần áo của họ khi làm việc.
Năm 2001, Adidas phát động một chương trình gọi là Lean Manufacturing để tăng hiệu suất làm việc và giảm lãng phí ở Dụ Nguyên. Các công nhân nói rằng giờ họ làm việc ít giờ hơn, nhưng thời gian ở dây chuyền lại áp lực hơn trước rất nhiều, các công việc được đặt ra một cách rõ ràng và gần như không có thời gian chết. Dây chuyền lắp ráp được tái tổ hợp lại thành những nhóm nhỏ trong đó công nhân có thể thay đổi công việc vài ngày một, trong khi trước đó họ có thể làm cùng một tác vụ trong suốt một tháng liền. Điều này khiến công tác sản xuất trở nên linh hoạt hơn, nhưng lại vắt kiệt sức lực của các công nhân. Cũng trên danh nghĩa hiệu suất làm việc, chỗ ở cũng được sắp xếp lại sao cho các công nhân sống chung với những đồng nghiệp ở dây chuyền lắp ráp chứ không phải bạn bè họ.
Xu hướng thời trang thay đổi ngày một nhanh trên thế giới làm tăng thêm áp lực xuống các công nhân. Một thập kỷ trước, các nhãn hiệu giày thể thao lớn dành cho nhà máy chín mươi ngày từ khi nhận đơn hàng đến khi giao hàng, vài năm trước thời gian này giảm xuống còn sáu mươi ngày, và giờ đây là ba mươi ngày. Tính toán đến khả năng phản ứng nhanh khi xu hướng thời trang thay đổi, các đơn hàng trở nên nhỏ hơn, công nhân phải sống trong một chu trình không thể nào đoán trước. Chỉ đến ngày thứ Năm thì cấp trên mới bảo họ xem có phải làm thêm giờ thứ Bảy hay không. Suốt thời gian cao điểm, bộ phận đế giày phải làm hai ca; những ai làm ca ngày tháng này thì tháng sau phải làm ca đêm, đồng hồ sinh học của họ nhảy loạn hết cả lên và cơ thể họ phải gắng gượng hết sức để bắt kịp nhịp sống mới.
Những người quản lý nói rằng yêu cầu của thị trường chỉ khiến Dụ Nguyên trở nên tốt hơn. “Nếu chúng tôi không có áp lực, chúng tôi không thể tiến bộ,” Allen Lee nói. “Như Darwin đã nói: chỉ có kẻ mạnh nhất mới sống sót.” Một nghiên cứu của Adidas cho thấy công nhân mới đầu cảm thấy căng thẳng bởi chương trình Lean Manufacturing, nhưng qua thời gian, nghiên cứu đó kết luận, họ đã quen với nó.
***
Tháng Tám là mùa tưới ngô và chuẩn bị cho vụ lúa mì đông. Trong nhà máy Dụ Nguyên, mùa sản xuất mới bắt đầu sớm hơn thường lệ: chuẩn bị cho mùa mua sắm Giáng sinh. Sau khoảng thời gian nhàn rỗi mùa hè, các cô gái phải làm thêm giờ mọi ngày trong tuần và cả ngày thứ Bảy. Trên dây chuyền lắp ráp, họ làm việc nhanh hơn và nói chuyện ít hơn. Nhưng cơ thể họ bắt đầu phản kháng.
“Em chưa từng đau đầu thế này bao giờ,” một buổi sáng đầu tháng Tám, Thiến Thiến phàn nàn. “Giờ đáng lẽ phải là mùa nhàn rỗi, nhưng chúng em có quá nhiều đơn đặt hàng.” Trước đó một hôm, cô đã bước sang tuổi hai mươi hai; cô đã lên kế hoạch đến thăm người bạn thân nhất của mình để tổ chức lễ kỷ niệm, nhưng thay vào đó, cô lại làm thêm giờ hết cả ngày sinh nhật.
Trở về phòng J805, Giả Kế Mai đã quay lại nhà máy sau chuyến về thăm nhà. Cô ngồi trên chiếc giường tầng dưới của mình, mệt mỏi bơ phờ và không mỉm cười.
“Ở nhà thế nào?” Tôi hỏi cô.
Cô khẽ gượng cười, đáp gọn lỏn: “Tốt.”
“Cô đã làm gì?”
“Chẳng làm gì cả. Em đã nghĩ đến chuyện không quay lại đây,” cô chậm rãi đáp, như thể cô vừa bước ra khỏi một giấc mơ. “Nhưng ở nhà chẳng có gì làm cả. Nếu gần nhà có gì làm được, thì ở gần vẫn tốt hơn. Nhưng chẳng có lấy một việc. Em cảm thấy rất khó chịu khi trở lại đây. Thực tình là em không muốn trở lại làm việc nữa.”
Ở giường tầng trên, Ngô Dung Lợi trông vui vẻ hơn. Cô gái mười chín tuổi này có gương mặt thanh mảnh với những nét rất xinh, trong buổi sáng mùa hè hôm ấy, cô mặc một chiếc váy đen có dây vải xoắn khá thanh lịch, trên cổ đeo dây chuyền mặt hình trái tim. “Kệ chị ấy,” Ngô Dung Lợi nói. “Chị ấy chưa thích ứng với chuyện quay lại đấy thôi.” Sắp tới còn nhiều thay đổi khó chịu hơn nữa: mỗi năm một lần, nhà máy lại sắp xếp lại nhà ở cho công nhân. Mục đích là để nắm được những ai đã đi hoặc đến trong một năm và đảm bảo rằng những người cùng đội sản xuất sống chung với nhau, nhưng việc làm này khiến cuộc sống của tất cả công nhân đều bị đảo lộn. “Chúng em đã trở thành bạn,” Giả Kế Mai nói. “Và giờ, rất có khả năng chúng em sẽ lại bị phân tán.”
CUỐI THÁNG ĐÓ, công nhân được chuyển sang nhà tập thể mới. Trong một nhà máy tầm cỡ như Dụ Nguyên, các cô gái từng ngày nào cũng gặp nhau bỗng dưng không biết phải làm cách nào để tìm lại ban bè mình. Rất nhiều người đã mất liên lạc vĩnh viễn.
Sau lần chuyển chỗ ở, Thiến Thiến biến mất. Tôi đã đi tìm cô suốt cả tháng Chín. Tôi đến nhà tập thể mới của cô rất nhiều lần - nó ở tầng bốn cùng tòa nhà cũ - nhưng các bạn cùng phòng không biết cô đã đi đâu. Và họ còn hỏi tôi về tin tức của những công nhân khác mà họ cũng mất liên lạc nữa. Tôi gọi cho gia đình Thiến Thiến ở một ngôi làng nông nghiệp thuộc tỉnh An Huy, bố cô nói rằng cô vẫn làm việc ở Dụ Nguyên. Theo tư liệu từ phía nhà máy, Trương Thiến Thiến, số hiệu 28013, nhà máy số 8, nhà B, nhóm thợ cắt số 2, vẫn là nhân viên của họ. Trên giấy tờ, cô đang sống trong nhà tập thể, làm việc trên dây chuyền lắp ráp, cắt nguyên liệu cho phần trên của những chiếc giày Adidas. Nhưng về con người, cô đã tan biến, một sự biến mất như thể đang cười vào mũi những luật lệ về thời gian biểu và đồng hồ bấm giờ có vẻ như đang điều khiển nhà máy vận hành rất trơn tru kia.
***
Từ cổng nhà máy Dụ Nguyên, đi dọc xuống phố chính, và qua một mê cung những con đường đất hai bên đầy các quầy đồ ăn và cửa hàng, có một khu toàn những căn nhà tập thể thấp lè tè lợp mái đỏ. Cánh cửa của các căn hộ này là những miếng kim loại tấm. Khu vực này lỗ chỗ những mảnh đất trống và công trình xây dở dang, gây cảm giác như đây là một nơi vừa đông đúc đến quá tải lại vừa bị bỏ hoang. Trong cái nóng khắc nghiệt của mùa hè vùng châu thổ, các cư dân mặc áo lót hoặc pyjama ngồi bên ngoài chơi mạt chược, trông như lũ gà đang bới đất dưới chân.
Một ngày Chủ nhật giữa tháng Mười, tôi được một cô gái trẻ mà tôi gặp ở nhà tập thể cũ của Thiến Thiến đưa tới đây. Cô gái dẫn tôi đi qua những con ngõ, vào một căn nhà lợp mái đỏ, lên một dãy bậc thang, rồi qua một cánh cửa sắt. Chúng tôi vào một căn hộ một phòng, bên trong kê chiếc giường đôi, và một tấm poster treo ở bức tường phía trên nó:
THÀNH CÔNG
Thành công có vẻ như ở rất xa, rất xa bạn, ngược lại, thất bại dường như lúc nào cũng theo sát bước chân bạn. Bạn phải dũng cảm chiến thắng hết thất bại này đến thất bại khác, rồi thành công sẽ đi về phía bạn.
Bên cạnh tấm poster là bức tranh một người đàn bà không mặc áo ôm một chiếc bình kiểu Hy Lạp cắt ra từ tấm lịch. Cô gái mặc áo phông, quần soóc ngắn và đi chân trần ngồi trên giường, chính là Thiến Thiến. Khi thấy tôi, cô nhoẻn miệng nở một nụ cười lướt thoáng qua đầy miễn cưỡng, như thể cô không hề thấy vui khi bị tìm thấy vậy.
Sau ngày phát lương tháng Tám, cô đã nghỉ việc ở nhà máy Dụ Nguyên, ra đi không xin phép và không lấy cả số tiền thế chân nhà máy giữ của cô. Từ hôm đó, cô đã ở với nhiều người bạn khác nhau, trong đó có cả một cô gái trẻ tên là Cách Lợi đang sống chung với bạn trai. Thiến Thiến đang cân nhắc giữa việc về quê và đi làm ở một nhà máy khác.
“Tại sao cô rời khỏi Dụ Nguyên?” Tôi hỏi Thiến Thiến. “Chẳng còn gì vui ở đấy nữa,” cô đáp. Mặc dù tôi đã hỏi Thiến Thiến theo nhiều cách khác nhau, song cô cũng không nói gì thêm nữa.
TRONG NHỮNG TUẦN SAU ĐÓ, áp lực sản xuất trong nhà máy tiếp tục tăng cao vì Giáng sinh đang tới gần. Ở nông thôn, thời gian này gọi là lập đông, thời điểm khởi đầu mùa đông, thời điểm để sửa chữa lại chuồng lán cho bầy gia súc. Một buổi chiều Chủ nhật tháng Mười một, tôi đến khu căn hộ cửa sắt lợp ngói đỏ và hỏi Cách Lợi xem cô có tin tức gì của Thiến Thiến hay không.
Cách Lợi đã không gặp bạn mình được một thời gian. “Cô ấy vẫn đang cố quyết định xem nên về nhà hay lại trở về nhà máy làm việc,” Cách Lợi nói.
“Chính xác là cô ấy đang quyết định cái gì vậy?” Tôi hỏi.
Cách Lợi lắc đầu. “Tôi không biết cô ấy nghĩ cái gì trong đầu nữa. Chúng tôi không nói gì về chuyện ấy.” Mới đây Cách Lợi đã nghỉ việc ở Dụ Nguyên và có kế hoạch trở về nhà sớm để giới thiệu bạn trai mới của cô với cha mẹ. Cô mà đi khỏi, tôi sẽ không còn cách nào để tìm lại Thiến Thiến được nữa. Có lẽ đây chính là ý nghĩa của thất bại trong thế giới của những người di trú - bạn không thể gọi đó là rắc rối hay bi kịch gì, chỉ đơn giản là từ từ trôi dạt đi, cho đến khi một người khuất hẳn khỏi tầm nhìn của ta.
LẦN CUỐI CÙNG tôi đến Dụ Nguyên là tháng Một năm 2005. Các cô gái làm việc dưới công xưởng mặc áo khoác cotton mỏng, bờ vai cong lên vì lạnh. Chịu lạnh có vẻ như là một quyết định mang tính thực tế: mùa đông ở Đông Quản không kéo dài đến mức đáng bỏ tiền ra mua áo khoác ấm. Giả Kế Mai vừa trở lại phòng ở của cô khi tôi ghé qua, và mỉm cười khi thấy tôi. Cô đã nhuộm tóc mình với những vệt dài đỏ thẫm.
Công việc ở nhà máy chậm lại khi qua mùa Giáng sinh, và giờ thì lịch Âm lên lắm quyền kiểm soát, trên phố đông nghịt những đoàn người hồ hởi trở về nhà đón năm mới. Những người di trú mới đến thành phố thường đi lạc lõng lang thang một mình, nhưng những người đang trở về nhà thì khác hẳn. Họ đi có mục đích, thành từng nhóm một; họ vui vẻ hạnh phúc và họ biết đường về. Họ có tiền trong túi, và những túi đầy quà cho gia đình - đầu đĩa CD, khăn quàng, kẹo cho lũ trẻ con. Ở ruộng đồng quê nhà, giờ đang là tiết đại hàn, thời điểm lạnh nhất trong năm, thời điểm để đón mừng năm mới, nhưng tính theo lịch của thành phố Đông Quản, đó là thời điểm để nhận lấy phần thưởng của cả một năm làm việc chăm chỉ. Lúc này, đó là vụ mùa quan trọng nhất.