Gái công xưởng - Phần I - Chương 05 phần 1
5. Những cô gái
công xiềng
Cần đến hai trăm đôi bàn tay để tạo ra một chiếc giày chạy.
Mọi thứ bắt đầu với một người gọi là thợ cắt, người này sẽ dập một mảnh vải
lưới thành những hình cong khác nhau, giống như bức tranh ghép của trẻ con.
Tiếp đó là thợ may. Họ khâu những mảnh đó thành phần trên của chiếc giày, gắn
vào những thứ khác - một logo nhựa, lỗ xỏ dây giày - lần lượt. Sau đó, công
nhân đế sẽ dùng lò hồng ngoại làm nóng các phần của đế giày rồi gắn lại bằng
keo. Thợ ghép, thường là nam giới, vì công việc này đòi hỏi sức mạnh nhiều hơn
- sẽ căng phần trên của chiếc giày vào một cái khuôn nhựa, gọi là cốt giày, một
thứ trông như bàn chân người. Họ buộc chặt phần trên, quét keo lên đế giày, rồi
ép phần trên và đế giày với nhau. Một chiếc máy sẽ đè lên một lực khoảng bốn
lăm ki lô gam lên mỗi chiếc giày. Người thợ sửa sang cuối cùng gỡ cốt giày ra,
kiểm tra từng chiếc giày một xem có lỗi gì không, sau đó đặt từng đôi vào hộp
carton. Các hộp này được đặt vào thùng gỗ, mười hộp một thùng, và chuyển đi
khắp thế giới trong vòng ba ngày. Trên lưỡi mỗi chiếc giày đều có một cái nhãn
đề: MADE IN CHINA (Sản xuất tại Trung Quốc).
Nếu bạn đi giày thể thao, rất có thể bạn đã từng đi một đôi
giày được sản xuất ở nhà máy Dụ Nguyên (Yue Yuen) ở Đông Quản. Nhà máy của gia
tộc người Đài Loan này là nhà gia công lớn nhất cho các hãng Nike, Adidas và
Reebok, cả các hãng nhỏ hơn như Puma và Asics. Tất cả các hãng này đã ngừng sản
xuất giày từ nhiều năm về trước và quẳng việc sản xuất này cho các nhà máy bên
ngoài có thể làm với giá rẻ hơn nhiều. Bí mật của nhà máy Dụ Nguyên là sự tích
hợp theo chiều dọc: nhà máy kiểm soát mọi bước của quá trình gia công sản xuất
- từ thiết kế ban đầu cho tới sản xuất keo, đế giày, khuôn, cốt giày cho đến
cắt, may, và ghép các sản phẩm đã hoàn thành lại với nhau. Một phần ba số lượng
giày - trên thế giới được sản xuất ở tỉnh Quảng Đông; cơ sở sản xuất của Dụ
Nguyên là lớn nhất ở đây.
Bảy mươi nghìn con người làm việc tại nhà máy ở Đông Quản
của Dụ Nguyên. Hãy thử hình dung rằng toàn bộ dân số của Santa Fe, bang New
Mexico ở Mỹ, đều ở độ tuổi dưới ba mươi và đều liên quan đến việc sản xuất giày
thể thao mà xem. Bên trong bức tường gạch của tổ hợp nhà máy, các công nhân ngủ
trong khu tập thể, ăn ở nhà ăn tập thể và mua sắm ở cửa hàng bên trong nhà máy.
Dụ Nguyên có một vườn trẻ cho con cái công nhân viên và một bệnh viện có đội
ngũ y bác sĩ nhân viên y tế lên tới 150 người; nó còn có một rạp chiếu phim và
một đoàn nghệ thuật biểu diễn, các hoạt động tình nguyện và cả lớp dạy tiếng
Anh. Nhà máy tự điều hành nhà máy điện và bộ phận cứu hỏa của riêng mình. Đôi
khi chính quyền thành phố Đông Quản còn mượn xe thang cứu hỏa của Dụ Nguyên,
chiếc cao nhất trong vùng, để đi dập lửa. Dụ Nguyên có nước đóng chai do chính
nhà máy sản xuất. Những người dân địa phương sẽ kể với bạn rằng nhà máy này còn
tự trồng trọt thực phẩm, nhưng điều đó không đúng mà chỉ là nhà máy có ký hợp
đồng với nông dân trong vùng để đảm bảo nguồn thực phẩm cho mình. Không gì
ngoại trừ ngày tận thế có thể cản trở nguồn cung cấp cho thế giới cái mà những
người làm trong ngành công nghiệp này gọi là “giày thể thao hàng hiệu”.
Đối với những người di trú trẻ, Dụ Nguyên tạo ra sự ổn định.
Lương công nhân làm việc ở dây chuyền lắp ráp chỉ ở mức trung bình - khoảng bảy
mươi hai đô la một tháng sau khi đã khấu trừ các khoản, bằng với mức lương thấp
nhất của thành phố - nhưng nó được trả đều đặn hằng tháng và đúng kỳ hạn. Công
việc giới hạn trong mười một tiếng một ngày và sáu mươi tiếng một tuần, nghỉ
ngày Chủ nhật, một trường hợp hiếm hoi trong ngành công nghiệp chẳng thiếu gì
chuyện công nhân phải làm việc qua đêm này. Công nhân nhà máy Dụ Nguyên ngủ
mười người một phòng trên giường sắt, thế là quá tốt so với mức trung bình. Các
cô gái trẻ thường phải trả một trăm nhân dân tệ cho người trung gian để kiếm
được một việc làm ở đây, đàn ông thì phải gấp vài lần như thế. Tám mươi phần
trăm công nhân ở Dụ Nguyên là phụ nữ, hầu hết ở độ tuổi từ mười tám đến hai
mươi lăm.
Một người di trú làm việc ở Dụ Nguyên có thể sẽ không bao
giờ làm việc ở nơi nào khác nữa. Sau một số năm, cô ta có thể nghỉ việc và trở
về quê - để thăm một người họ hàng bị ốm hoặc làm lễ đính hôn, để nghỉ ngơi hoặc
sinh con - rồi sau đó lại quay lại Dụ Nguyên. Công nhân có thể giới thiệu anh
chị em hoặc họ hàng hay người cùng làng vào làm việc trong nhà máy, nhà máy
khuyến khích điều này; lấy một ví dụ, mười thành viên của một đại gia đình đều
làm việc trong nhà máy này. Tốc độ thay thế công nhân khá cao - năm phần trăm
một tháng, có nghĩa rằng hơn một nửa lực lượng lao động thay đổi trong một năm
- nhưng con số đó chưa tính đến rất nhiều công nhân nghỉ việc chỉ để rồi quay
trở lại làm việc tiếp. Chu Ân Phương vào làm ở Dụ Nguyên năm 1991, khi cô
mười bảy tuổi. Cô gặp chồng mình trong nhà máy, tạm nghỉ để sinh hai đứa con,
đàm phán để được thăng tiến và giờ cô đã là giám đốc một nhà máy con quản lý
1.500 công nhân. “Tôi muốn làm việc ở đây cho tới khi về hưu,” cô nói với tôi
như vậy. Chu Ân Phương mới ba mươi tuổi, nhưng trong giọng cô đã mang âm sắc
khàn khàn của một người đàn bà đứng tuổi. Theo công nhân., tất cả các sếp ở Dụ
Nguyên, đều có giọng khàn khàn khó nghe sau nhiều năm hét lên ra lệnh trong
tiếng ầm ầm của máy móc.
Thăng tiến là chuyện hoàn toàn có thể; nhu cầu sản xuất quá
lớn, quá bức thiết đến nỗi Dụ Nguyên buộc phải thăng cấp ngay từ bên trong bộ
máy của mình. Hầu hết các quản lý trong công ty, từ người giám sát một dây
chuyền đơn lẻ cho đến lãnh đạo cả một xưởng sản xuất, đều là những người di trú
đến từ các vùng nông thôn, những người bắt đầu tất cả từ dây chuyền sản xuất.
Có cả một hệ thống cấp bậc cực kỳ phức tạp. Các quản lý được chia làm mười ba
cấp bậc, từ tập sự cho đến giám đốc điều hành, họ có đặc điểm là gọi nhau bằng
chức vị chứ không phải bằng tên. Có một quán ăn chỉ phục vụ riêng cho các
trưởng dây chuyền sản xuất, trong khi một quán khác phục vụ các giám sát sản
xuất, cao hơn một mức. Trẻ con là một dấu hiệu của địa vị ở nơi đây: chỉ có những
người ở cấp bậc trưởng dây chuyền trở lên mới được sống bên trong nhà máy với
vợ, chồng và một đứa con. Công nhân bình thường thường bỏ con cái ở quê cho ông
bà chăm nom.
Xã hội bên trong nhà máy chia theo ranh giới các tỉnh. Công
nhân quê ở cùng một tỉnh tụ lại với nhau, nói thứ tiếng địa phương mà người
ngoài không thể nào hiểu nổi. Những người đến từ tỉnh có nhiều dân di trú hơn
thì phân chia dựa theo huyện quê nhà của họ. Những công nhân quê ở các tỉnh
liền kề nhau như An Huy, Hà Nam, Thiểm Tây và Sơn Đông có thể nói chuyện với
nhau bằng phương ngữ riêng của họ; họ gọi nhau là “bạn nửa đồng hương,” một
cách gọi gợi cảm giác gần gũi hơn. Công ty không ngăn cản sự phân biệt địa
phương này: các quán ăn để cho công nhân lựa chọn nhiều món đặc trưng của Hồ
Nam, Tứ Xuyên, hoặc Quảng Dông. Việc đúc kết các tính cách điển hình của từng
tỉnh tạo thêm sắc thái cho việc tuyển dụng. Một ông chủ có thể cấm cửa cả một
tỉnh nếu ông ta tin rằng cả trăm triệu con người đến từ cùng một nơi có thể sở
hữu chung một đặc trưng về tính cách. Người Hà Nam hay đánh lộn. Người
An Huy thì làm việc chăm chỉ nhưng không đáng tin cậy.
Các công nhân có thể sống nhiều ngày mà không cần phải mạo
hiểm đi qua cánh cổng bảo vệ của Dụ Nguyên, rất nhiều người trong số họ làm như
vậy, lấy lý do rằng thế giới bên ngoài rất luan (loạn) - hỗn
loạn, nguy hiểm. Nhưng cuộc sống bên trong những bức tường của Dụ Nguyên cũng
có thể bất ổn chẳng kém. Trộm vặt nhiều như kiến cỏ, trong nỗ lực giảm bớt loại
tội phạm này, các công nhân bị cấm lại gần khu nhà tập thể suốt thời gian làm
việc. Những cuộc cãi vã ở xưởng bị mang cả về phòng ngủ tập thể, bởi các công
nhân ở cùng dây chuyền được yêu cầu ở chung phòng để tăng hiệu suất làm việc.
Bên trong Dụ Nguyên cũng có các băng đảng hoành hành. Một số băng cướp tiền của
công nhân trong ngày trả lương; một số băng khác lại nhắm đến chuyện ăn cắp các
phần khác nhau của chiếc giày. Các băng đảng cũng thực hiện sự tích hợp hàng
dọc của riêng chúng. Một nhóm có thể lén tuồn dây giày ra khỏi nhà máy, trong
khi các nhóm khác ăn trộm đế giày. Các phần này được ghép vào thành những chiếc
giày hoàn chỉnh và phân phối ở một khu khác của thành phố. Trong giới hàng giả
ở Trung Quốc, khu vực như thế là một lĩnh vực riêng chuyên biệt - lắp ghép trái
phép những phần khác nhau của hàng hiệu. Các băng nhóm này được tổ chức theo
địa bàn tỉnh, trong đó những người đến từ Hồ Nam đáng sợ nhất.
Tình tay ba và quan hệ ngoài hôn nhân khá phổ biến, cũng
nhiều như mang thai ngoài giá thú và phá thai. Vài năm trước, một cô gái trẻ đã
tự tử vì thất tình; một người khác đã sinh con trong buồng tắm nhà tập thể và
vứt đứa bé vào toilet. Đứa trẻ chết và người phụ nữ trẻ đó bị gửi trả về nhà.
“Chúng tôi có bảy mươi nghìn con người. Đây là cả một thành phố,” Luke Lee,
quản lý phụ trách sức khỏe và an toàn cho công nhân của Dụ Nguyên nói. “Bất cứ
vấn đề nào mà thành phố có, chúng tôi cũng có ở trong nhà máy này.”
***
Vào những dịp cuối tuần, dây chuyền sản xuất ngừng hoạt
động, tâm trạng bên trong khu tổ hợp Dụ Nguyên cũng thay đổi. Các cô gái cả tuần
trước đó vốn bước đi đầy dứt khoát và đeo gương mặt vô cảm, bỗng trở nên chậm
chạp uể oải. Họ đi tay trong tay với các cô bạn gái khác, thẻ nhân viên nhà máy
móc dây da đeo lủng lẳng trên cổ hoặc vào những sợi xích gắn ở thắt lưng, trông
như mấy cô bảo vệ trường học ở Mỹ. Họ diện áo sát nách mỏng và quần bò, hoặc
váy dạ tiệc màu đen, đi giày cao gót; thỉnh thoảng cũng có vài cô bạn ăn mặc
giống hệt nhau, tuyên bố tình bạn thắm thiết của họ với cả thế giới. Họ ăn kem
ốc quế và ngồi chân trần trên bãi cỏ theo từng nhóm hai hoặc ba người, khi thì
đọc tạp chí, khi thì tâm sự chuyện nọ chuyện kia. Cũng có khi chỉ có một cô gái
ngồi một mình, nhìn mơ màng vào cõi hư không.
Nhà tập thể không có chỗ cho sự riêng tư. Các cô gái đứng ở
hành lang chải mái tóc vừa gội xong của mình trước mảnh gương bé xíu bằng lòng
bàn tay, các cô gái mặc quần soóc xách theo xô nước nhỏ lõng bõng để lau sàn
nhà. Những người sống ở tầng trên vươn người qua rào chắn ban công nhà tập thể,
soi xem bên dưới có chuyện gì xảy ra không và hét gọi các bạn ở nhiều tầng dưới
đó. Một bản pop ballad vang lên từ chiếc đài chạy băng cassette trong buổi sáng
mù sương: Anh yêu em, rất yêu em, như chuột yêu gạo. Không khí tỏa
ra mùi của đồ giặt mới treo lên phơi khô; chất tẩy trắng, bột giặt và mùi ẩm mốc
là những mùi vĩnh hằng của nhà máy Dụ Nguyên này.
Một sáng Chủ nhật tháng Sáu năm 2004, vài cô gái trẻ nằm
trên giường sắt tán gẫu với nhau trong phòng 805, nhà J. Căn phòng toát lên vẻ
bừa bộn của một bữa ngủ rốn đã về đến cuối, các cô gái vẫn nằm ườn ra trong bộ
đồ ngủ mặc dù đã mười một giờ trưa.
“Khi gặp gỡ một người đàn ông ngoài làng,” một cô nói, “mình
không biết được con người thực của anh ta và cũng chẳng biết gì về gia đình anh
ta nốt.”
“Nếu bạn có bạn trai khi đang ở xa nhà, bố mẹ bạn ở quê sẽ chẳng
còn mặt mũi nào nữa đâu.”
“Bạn có thể kết bạn với ai đó, rồi về quê và lại mất hết cả
liên lạc thôi.”
“Khi về quê, bạn sẽ nhận ra mọi người biết tất cả mọi điều
liên quan đến bạn.”
Mười cô gái sống chung trong phòng J805, một căn phòng trên
tầng tám diện tích khoảng mười tám mét vuông, có hai dãy giường sắt. Căn phòng,
cũng như mọi nơi khác ở Dụ Nguyên, đầy mùi đồ giặt ẩm ướt. Mỗi cô được cấp cho
một ngăn tủ tường để chứa quần áo, đồ ăn vặt, đồ trang điểm và trang sức; họ
trang trí bên trong đó bằng tranh ảnh những ngôi sao điện ảnh cắt trên tạp chí,
trông giống tủ để đồ của các nữ sinh trung học ở Mỹ. Khoảng không gian bên dưới
giường sắt là nghĩa địa cho các thể loại giày: cao gót, đế mềm, dép xỏ ngón
Hello Kitty. Phòng J805 nằm trên một hành lang dài đầy những căn phòng giống
hệt nhau, có nhà vệ sinh và phòng tắm ở cuối. Tòa nhà này là nơi ở của hai
nghìn công nhân.
Trên đồng ruộng quê nhà đang là mùa bận rộn nhất trong năm,
mùa gặt vụ hè và cấy vụ hè thu. Nhưng vòng quay sản xuất giày trên toàn cầu lại
chậm dần lại. Các cô gái ở phòng J805 làm việc trong nhà máy Dụ Nguyên số 8,
chuyên sản xuất giày cho các hãng Adidas và Salomon. Thời gian này họ chỉ làm
việc mười tiếng rưỡi một ngày cộng thêm nửa ngày hoặc cả ngày thứ Bảy; trong
thế giới sản xuất gia công ở Đông Quản, như vậy đã được coi là mùa kém năng
suất rồi. Vài cô gái có kế hoạch về quê hoặc rời khỏi nhà máy, nhưng con đường
phía trước của họ còn phải tùy xem họ làm ra bộ phận nào của chiếc giày. Người
nào làm ở bộ phận gia công đế có thể nghỉ. Còn thợ cắt và thợ may thì phải ở
lại.
Giả Kế Mai, hai mốt tuổi, người Hà Nam, làm ở bộ phận gia
công đế giày, lao vào căn phòng sau chuyến đi mua sắm và khoe những gì mình vừa
mua được: đồ ăn vặt trên tàu và một chiếc đài băng cassette cho gia đình. Cô vừa
được cho phép nghỉ về quê một tháng. “Suốt cả hai đêm trước em không ngủ được
tẹo nào,” cô nói. “Khi chị biết được mình sắp trở về nhà, chị sẽ chẳng nghĩ
được bất cứ chuyện gì nữa đâu.” Cô có chiếc mũi hếch và đôi mắt rộng trên gương
mặt tròn, núng na núng nính mỗi khi cô cười. Cô ngồi xuống chiếc giường sắt ở
tầng dưới của mình, ép chặt một con gấu trúc bông vào ngực.
Trương Thiến Thiến, một cô gái trẻ quê tỉnh An Huy ở tầng
dưới lên chơi, quan sát đồng nghiệp sửa soạn trở về nhà. Cô có dáng người rắn rỏi,
đôi bờ vai rộng và gương mặt cứng rắn nghiêm nghị; cô mặc đồ jean và có một
chiếc đồng hồ đeo tay dáng thể thao màu đen khiến cô trông có vẻ mạnh mẽ.
Trương Thiến Thiến là thợ cắt, vì vậy cô ở lại nhà máy. “Mỗi khi về đến nhà, tớ
lại buồn đến chết đi được,” Thiến Thiến nói. “Chẳng có ti vi và chẳng có
cassette. Mà mọi người ở quê đều đã tha hương kiếm sống, thế là tớ lại thui
thủi một mình suốt cả ngày.”
“Bà nội tớ dậy từ sáng sớm để chuẩn bị bữa sáng,” cô nói
tiếp, “rồi bà gọi tớ dậy ăn, mà đôi khi tớ vẫn còn đang ngủ tít. Sau đó bố tớ
sẽ quát: Mày nằm ườn ra giường và thậm chí còn chẳng chịu dậy mà ăn bữa sáng bà
nội đã nấu cho mày nữa. Ở nhà lúc nào mình cũng bị chê trách đủ điều.”
“Khi về quê, thì không thể ở lại đó được,” Lý Tiểu Yến, một
cô thợ cắt quê tỉnh Hồ Nam ở cùng phòng lên tiếng đồng tình. Các cô gái ở đây
có mối quan hệ rất phức tạp với quê nhà của mình. Ở ngoài thành phố, họ mệt
mỏi, cô đơn, nói mãi đến chuyện về nhà nhưng về đến nhà, họ lại nhanh chóng
buồn chán và lại khát khao được ra đi lần nữa. Nếu một cô gái quyết định rời bỏ
nhà máy, quyết định ấy sẽ tạo nên một gợn sóng sửng sốt và bất ổn định đối với
mọi người xung quanh cô. Là dân di trú, cũng đồng nghĩa với việc hết lần này
đến lần khác bị những người gần mình nhất bỏ rơi.
Thiến Thiến là một tay kỳ cựu đối với những chuyện ra đi và
trở lại. Cô ở quê nhà lên đây ba năm trước, làm việc ở Dụ Nguyên một năm rưỡi,
sau đó nghỉ việc vì có xung đột với ông chủ, rồi cô trở về quê sống một thời
gian. Trở lại Đông Quản, Thiến Thiến làm việc ở một nhà máy điện tử nhỏ mà điều
kiện còn tệ hơn Dụ Nguyên rất nhiều lần. Cô nghỉ việc và lại về quê, lần này là
vì lễ mừng thọ tám mươi của bà nội cô. Bốn tháng trước, cô lại vào làm việc ở
Dụ Nguyên. “Tớ di chuyển từ nơi này đến nơi khác, thế mà có vẻ như lúc nào cũng
kết thúc ở cái nhà máy này,” cô tâm sự.
Giả Kế Mai thì không chắc chắn lắm. “Có thể em sẽ trở lại Dụ
Nguyên nhưng em còn chưa dám chắc,” cô nói. Một tuần sau, cô về quê mà không
nói cho các bạn cùng phòng biết mình có trở lại hay không.
***
Trung Quốc đã có một phần tư thế kỷ tham gia vào làn sóng di
trú lớn nhất trong lịch sử loài người, và lai lịch của những con người đang
dịch chuyển ấy cũng thay đổi không ngừng. Những người rời bỏ làng quê ra đi vào
những năm 80 và đầu những năm 90 của thế kỷ trước không có mục tiêu xác định,
mà thường bị thúc đẩy bởi nhu cầu tiền nong của gia đình và khát khao xây một
ngôi nhà khi trở về quê hương. Người ta coi hành động của một phụ nữ độc thân
rời bỏ quê hương một mình là mạo hiểm, thậm chí còn là một nỗi xấu hổ. Những
người di trú thuở ban đầu ấy thường tìm các công việc theo mùa, thường là vào
các dịp nông nhàn. Họ trở về giúp đỡ gia đình suốt thời gian gieo hạt và cả vụ
gặt. Khi đã kiếm đủ tiền, họ về quê và không đi đâu nữa.
Thế hệ mới đến tuổi trưởng thành khi mà di trú đã được chấp
nhận như một con đường tìm đến cuộc sống tốt hơn. Trẻ hơn và được giáo dục tốt
hơn những người đi trước, họ ít bị sự nghèo đói ở nông thôn thúc bách hơn, mà
chính các cơ hội ở thành phố thôi thúc họ. Không còn sự xấu hổ nhục nhã nào gắn
với di trú nữa. Giờ đây, ở lại quê nhà mới chính là nỗi nhục.
Mối gắn kết của những người di trú mới với làng quê của mình
lỏng lẻo hơn. Những chuyến về quê của họ không còn bị chi phối bởi lịch nhà
nông hay thậm chí là những ngày lễ tết truyền thống kiểu như Tết âm lịch. Thay
vào đó, dân di trú trẻ về quê và lại ra đi tùy theo kế hoạch cá nhân của họ,
chuyển việc hoặc xin được nghỉ phép, kế hoạch đó thường gắn liền với nhu cầu
của chu trìrh sản xuất. Giờ đây, thứ ấn định cuộc đời dân di trú là mùa của nhà
máy, chứ không còn là mùa đồng áng nữa.
Hành vi và vẻ ngoài của dân di trú mỗi lúc một giống dân
thành thị. Các tờ tạp chí dành riêng cho dân di trú được xuất bản từ những năm
1990 đều đã đình bản hoặc đang vật lộn để giành lấy độc giả. Người ta không còn
nghe thấy những bài hát về đời người dân di trú trong các thành phố công nghiệp
miền Nam nữa, công nhân làm việc ở dây chuyền lắp ráp giờ nghe thứ nhạc pop đám
thanh thiếu niên thành thị vẫn nghe. Dân di trú ngày nay tiêu tiền cho bản thân
một cách thoải mái - vào quần áo, làm tóc và điện thoại di động - họ có thể chỉ
gửi tiền về nhà vào những lúc cần thiết. Thế hệ di trú mới tham vọng nhiều hơn
và ít thỏa mãn hơn những người đi trước. Một cuộc điều tra cho thấy 12% những
người di trú rời bỏ quê hương từ những năm 1990 thỏa mãn với hoàn cảnh sống của
họ, so với con số 27% ở những người đã ra đi từ một thập kỷ trước đó. Điều đó
không nhất thiết là những người di trú mới muốn trở về quê hương. Nhưng nó gợi
ra rằng nền tảng để so sánh của họ đã chuyển dịch lên thành phố, và có lẽ những
mong đợi lớn hơn ấy hứa hẹn một cơ hội thành công cũng lớn hơn. Hoặc có lẽ là
thế hệ mới này đã được định sẵn là sẽ phải thất vọng.
TÌM HIỂU về các nữ công nhân trẻ của Dụ Nguyên không phải
chuyện dễ. Các cô hẹn ngày giờ gặp tôi và rồi không xuất hiện; nếu tôi tìm thấy
họ sau đó, họ cũng chẳng giải thích hay xin lỗi gì. Không ai muốn nhận chiếc
điện thoại di động tôi đề nghị tặng để chúng tôi có thể giữ liên lạc, có lẽ bởi
họ không muốn phải chịu trách nhiệm. Họ có thể rất thân thiện với tôi ngày hôm
nay và rồi làm mặt lạnh như tiền vào ngày hôm sau, nếu tôi bắt chuyện được với
một cô gái ở nhà tập thể nào đó, những cô khác cùng phòng sẽ tránh mặt tôi đi.
Có cô còn hướng dẫn các bạn cùng phòng nói dối tôi rằng cô ta đã rời bỏ nhà
máy, chỉ bởi các bạn cô từng nói với cô rằng tôi không đáng tin cậy. Công ty
cho tôi quyền đi lại tự do trong các khu nhà tập thể, nhưng giành được lòng tin
của những người sống ở đó mới là phần khó khăn nhất. Trong cái bóng của nhà máy
giày khổng lồ ấy, họ lả lướt mong manh như lũ bướm đêm, khó nắm bắt hơn bất cứ
người nào tôi gặp trong thành phố.
Các cô gái đều giữ thái độ dè chừng với người khác và thường
nói năng phũ miệng khi ngồi với nhau. Họ thường chẳng biết gì về những người
sống chung và làm việc chung với mình; khi tôi tìm hiểu được sâu hơn về họ, các
cô gái thường hỏi tôi tin tức về những người khác. Hầu hết các cô đều có vẻ như
có một hoặc hai người bạn thực sự đang sống ở xa, có lẽ là ở một nhà máy khác,
và thà tin vào họ còn hơn là vô số những người ở quanh mình. Có lẽ đây là sự đề
phòng của họ khi phải sống giữa một tập đoàn đầy những người lạ: họ cho việc ai
đó ngủ ở giường ngay bên cạnh mình đêm nay có thể biến mất vào ngày mai là
chuyện thường tình.
Công nhân di trú cần nhiều nghị lực để thay đổi hoàn cảnh
của mình. Nhưng trong một nhà máy lớn như Dụ Nguyên, áp lực của việc hòa nhập
với xung quanh cực kỳ khắc nghiệt. Cô gái nào cũng tuyên bố trước mặt những
người khác rằng họ không đồng tình với chuyện kiếm bạn trai ở thành phố, mặc dù
rất nhiều người trong số họ đã có một người rồi; họ bỉ bai chuyện học lên cao
hơn là vô dụng, đồng thời vài người lại lén lút tham gia các lớp học trong một
nỗ lực tự nâng cao bản thân. Dụ Nguyên là một chỗ làm tốt - tất cả những người
từng làm việc ở đó đều nói vậy. Nhưng nếu muốn thứ gì đó khác, bạn sẽ phải gồng
mình hết sức lên để thoát thân.
***
Tháng Bảy, mùa bận rộn nhất trong năm của nhà nông, công
việc ở Dụ Nguyên chững lại như rùa bò. Các phòng tập thể trống huếch trống hoác
vì có nhiều công nhân xin nghỉ phép về quê. Những người ở lại chỉ làm việc tám
giờ một ngày, năm ngày một tuần. Ở đây, thời gian biểu làm việc bình thường của
thế giới cổ cồn trắng phương Tây đã là thiên đường rồi.
Thiến Thiến thức dậy lúc hơn mười giờ sáng Chủ nhật, vừa
đúng lúc tôi đến gặp cô. Cô ngáp dài, vươn người và lề rề quăng mình khỏi chiếc
giường sắt tầng trên. Cô mặc một chiếc áo sát nách màu xanh lá, quần jean thêu
hoa dọc theo một bên ống, kéo lê đôi giày cao gót nhọn hoắt. “Cả một năm dài,
chỉ có vài tháng này là vui hơn một chút.” Cô nói. Cách đó hai giường, một cô
bạn cùng phòng đang ngồi trên giường thì thào luyện nói tiếng Anh. Cô tham gia
một lớp do nhà máy tổ chức. Các câu trong cuốn sách đã sờn gáy của cô nghe khá
lạ.
THIS IS LOO. HE'S FROM PERU.
(ĐÂY LÀ LOO. ANH ẤY ĐẾN TỪ PERU.)
Một câu khác có nghĩa:
DONT LOSE THE OPPORTUNITY.
(ĐỪNG ĐỂ VUỘT MẤT CƠ HỘI.)
Thiến Thiến đi xuống cầu thang, qua những tòa nhà tập thể
khác, rồi đi qua cánh cổng nhà máy. Trên vỉa hè bên ngoài, ánh mặt trời chói
chang đến nỗi cả con phố như trắng lóa lên, giống một bức ảnh bị lộ sáng. Thiến
Thiến bước vào một cửa hàng bách hóa và hướng về phía dãy giá để những chiếc
giày cao gót có đính cườm trang trí. Cô chỉ ngón tay vào một chiếc giày đế bằng
màu vàng, dây giày có ba trái tim hồng lấp lánh, trông như chiếc kẹo Lễ Tình
nhân. “Cái này rất hợp mốt năm nay,” cô nói. Trong khu bán quà, cô chỉ ra một
chiếc khung ảnh có gắn những bông hồng giả bên trong, cô đã tặng cho một người
bạn một cái y như thế nhân dịp sinh nhật.
Ra ngoài con phố gần như vắng tanh, Thiến Thiến lớn tiếng
gọi to một cô gái đi qua bên mình. “Giả Kế Mai! Cậu dạo này biến đi đâu thế?”