Gái công xưởng - Phần I - Chương 06 phần 1
6. Tấm bia vô danh
Các bậc cha mẹ của những người di trú trẻ có trực giác rất
tệ hại. Trong mọi trường hợp, họ đều đưa ra những lời khuyên tồi, họ là chuyên
gia của những kiến thức đã lỗi thời và cực kỳ bảo thủ bắt nguồn từ sợ hãi. Vài
người còn cấm tiệt con cái mình, đặc biệt là những cô con gái, không được rời
bỏ quê hương ra đi. Nhưng một khi con cái đã lên thành phố, những lời nhắn nhủ
của cha mẹ đột ngột thay đổi: gửi tiền về nhà, càng nhiều càng tốt. Một số bậc
phụ huynh gây áp lực buộc con gái mình kết hôn, nhưng chỉ được kết hôn với
người nào quê ở tỉnh nhà - một việc cũng vô lý như kiểu bảo một người sống ở
New York chỉ được hẹn hò với ai quê gốc ở bang Ohio. Trên lĩnh vực nghề nghiệp,
lời khuyên của họ cũng luôn luôn tệ hại: họ ngăn cản con cái mình nhảy việc ở
các nhà máy, nhưng đó lại là con đường tốt nhất để tiến lên phía trước.
Dân di trú mau chóng học được cách xử trí với cha mẹ. Họ
không nghe lời, họ cãi lại, và họ nói dối. Họ giữ khoảng cách giữa hai bên.
Xuân Minh không về quê lần nào trong suốt ba năm đầu cô lên thành phố. Các cô
gái đều rất thực tế về hành vi “tội lỗi” này của mình. “Các cụ chẳng biết bên
ngoài mọi chuyện diễn ra như thế nào cả, vì vậy tôi làm gì đó trước, rồi sau đó
mới nói cho họ biết sau,” Mẫn nói. Một cuộc sống mới bắt đầu kể từ ngày họ đặt
chân đến thành phố, và họ sẽ làm những gì cần làm để bảo vệ nó. Quá khứ không
còn quan trọng, hiện tại mới là tất cả mọi thứ. Nếu không cẩn thận, gia đình sẽ
là cạm bẫy kéo bạn ngược trở về.
Sau khi đến Trung Quốc, tôi luôn luôn phản kháng lại lực kéo
từ phía gia đình của chính mình, và có lẽ một phần lý do cũng tương tự như
những cô gái ở đây vậy. Đất nước Trung Quốc của bố mẹ tôi đã lỗi thời năm mươi
năm, khi tôi còn nhỏ, bố mẹ tôi đã dạy tôi rằng người Trung Quốc luôn luôn kính
trọng các học giả và coi thường thương nhân, nhưng mọi người tôi gặp đều hoàn
toàn ngược lại. Tôi không cố gắng đi tìm những người họ hàng vẫn còn sống ở
đây. Tôi muốn tìm hiểu về đất nước này theo cách của chính mình. Và lịch sử gia
đình có lẽ giống như một cái bẫy - một cách nhìn định sẵn về Trung Quốc bằng
con mắt bi quan, một cách nhìn đã không còn liên quan nhiều đến hiện tại đang
diễn tiến như thế nào nữa.
Cùng khoảng thời gian bắt đầu gặp gỡ các công nhân di trú ở
Đông Quản, tôi cũng bắt đầu nghiên cứu về lịch sử gia đình mình. Mới đầu đó là
hai dự án hoàn toàn tách biệt, một sự tương phản - chẳng thể nào có nền tảng gì
chung giữa sự hỗn loạn nhốn nháo của các nhà máy miền Nam Trung Quốc với những
thành phố nặng nề xám xịt miền Đông Bắc, với những nhà máy cán thép và tượng
đài đá già nua đầy kiêu hãnh. Tôi thích tiết tấu của những chuyến du hành ấy
mỗi khi đi đi lại lại giữa miền Nam và miền Bắc, từ tương lai trở về quá khứ,
rồi lại trở về với tương lai.
Nhưng càng tìm hiểu sâu, tôi lại càng thấy nhiều mối liên
hệ. Gần một trăm năm về trước, ông nội tôi cũng từng là một người dân di trú.
Ông đã bỏ làng ra đi, thay tên đổi họ, cố làm mới con người mình để phù hợp với
thời đại. Thời ông còn trẻ, Trung Quốc đang vùng mình thoát khỏi sự tự cô lập
kéo dài để hòa nhập với thế giới - ngày nay điều ấy lại lặp lại lần nữa. Ông
nội tôi rời bỏ quê hương ra đi vĩnh viễn khi ông mười sáu tuổi - tuy nhiên có
lẽ ông không biết điều đó, cũng giống như những người di trú hiện nay không
biết điều đó vậy. Xuất khứ, ra đi: đây cũng là cách mà câu chuyện của gia đình
tôi bắt đầu.
***
Suốt quãng thời gian tôi lớn lên ở nước Mỹ, cha mẹ tôi rất
hiếm khi nói về quá khứ. Có một thứ cảm giác tha hương ngụ trong mọi thứ đã mất
- những con đường lớn mờ mờ tối ở thủ đô, ngôi nhà lớn và những người hầu, khu
vườn râm mát đầy những cây hồng mà chúng tôi sẽ trở về khi chế độ sụp đổ, sẽ
đòi lại những gì thực sự thuộc về mình. Nhưng những người Trung Quốc đã trốn
chạy khỏi chế độ Cộng sản rất ít khi chìm đắm trong những ảo tưởng như thế. Con
đường của họ là tiến lên phía trước và tạo lập một cuộc sống mới, cứ nấn ná với
những gì đã mất là vô nghĩa. Những người di trú và nhập cư mà tôi quen biết
cũng có chung suy nghĩ thực dụng này, có vẻ như nó đã bám rễ sâu vào tính cách
con người Trung Quốc. Hiện tại là tất cả, còn quá khứ đã lùi xa.
Khi còn là một đứa trẻ, tôi chỉ được nghe những mẩu vụn
trong lịch sử gia đình qua lời kể của cha, rồi tôi lại trăn trở chúng trong óc
mình cho đến khi mỗi mảnh vụn ấy trở thành một câu chuyện riêng biệt, bí hiểm
và hoàn chỉnh. Những câu chuyện ấy chẳng bao giờ kết nối được với nhau, hoặc
cũng có thể chúng kết nối theo một cách bí mật nào đó mà tôi không biết.
Bốn trường mỏ tốt nhất nước Mỹ là ở các bang Michigan,
Colorado, New Mexico và Tây Virginia.
Chúng ta để những thỏi vàng ở thắt lưng trong những
chuyến du hành.
Chúng ta đã để lại bộ sưu tập tem khi trốn chạy khỏi đám
Cộng sản. Chúng ta đã bỏ lại mọi thứ sau lưng.
Ngày nào bố cũng đến lãnh sự quán Mỹ ở Đài Bắc chờ người
ta gọi tên mình.
Cả đất nước Trung Quốc cũng hiện lên trong tôi với những
mảnh vụn nhỏ. Trung Quốc là những chiếc áo len được phủ kín những viên băng
phiến mà bà ngoại gửi cho chúng tôi từ Đài Loan, từ trong hộp carton, chúng đã
bốc lên cái mùi như mùi bên trong tầng áp mái vậy. Mặc một chiếc áo như thế đến
trường, tôi cảm nhận được một cách sâu sắc rằng tôi trông khác, tôi có mùi khác
với mọi người khác. Trung Quốc là tờ báo của Quốc dân Đảng được gửi từ Đài Loan
đến hòm thư nhà chúng tôi, những tờ báo được gấp chặt đến nỗi bật tung ra, như
thể chúng đang hồ hởi kể hết tin tức từ phương xa vậy. Đó cũng là những vận
động viên bóng bàn Trung Quốc có cánh tay dẻo dai và gương mặt xanh xao nhợt
nhạt mà cha mẹ tôi cổ vũ trong những kỳ Olympic - một điều mà tôi không thể
hiểu nổi. Trung Quốc là những chiếc đĩa hát vinyl mà cha tôi mang về từ chuyến
đi tới Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên vào năm 1975, hồi Mao Trạch
Đông vẫn còn sống, nghe mà đến rùng mình.
Vầng dương phương Đông đang nhô lên,
Nước Cộng hòa Nhân dân đang trưởng thành,
Lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông Chỉ đường cho ta đi tới.
Đời ta ngày ngày một tốt đẹp,
Tương lai ta rạng ngời ánh sáng huy hoàng.
Bài hát này tên là “Ca ngợi Tổ quốc”. Tôi nghe bài hát này
lần đầu tiên năm lên sáu tuổi, thiên đường đầy nắng ấm mà nó ngợi ca đã tan rã
từ rất lâu trước đó. Nhưng cho đến bây giờ, đoạn mở đầu bài hất ấy vẫn khiến
tôi rùng mình.
Tôi thuộc lòng rất nhiều bài hát như vậy. Trung Quốc là
tiếng mẹ đẻ của tôi, và những điệu hát ru, những bài hát trữ tình của thứ ngôn
ngữ ấy đi qua tuổi thơ tôi từ những ngày đầu tiên nhất, tựa như những ký ức
kiếp trước của tôi vậy. Gia đình cha tôi vốn quê gốc ở Mãn Châu, vùng đất mà
người Trung Quốc chỉ gọi một cách đơn giản là Đông Bắc, trong những bài hát tôi
nghe từ thuở ban đầu, có rất nhiều bài đến từ vùng đất ấy. Tôi không có cảm
giác gắn kết chặt chẽ với Trung Quốc khi đã trưởng thành, song tôi biết một
điều, tôi là người Đông Bắc.
Quê nhà tôi ở sông Tùng Hoa vùng Đông Bắc Nơi có những
cánh rừng và mỏ than
Đậu nành lúa miến trên những triền đồi, trên những cánh
đồng
Quê nhà tôi ở sông Tùng Hoa vùng Đông Bắc
Nơi có những anh em cùng quê hương xứ sở
Và cha mẹ già của tôi
Tôi đã rời khỏi làng quê yêu dấu
Bỏ cả kho báu vô cùng vô tận nơi dây.
Đi, đi, đi
Đi mãi vào quan nội.
Quan ải mà bài hát nhắc đến là Sơn Hải Quan, pháo đài đá
hùng vĩ ở ven Bột Hải, nơi Vạn Lý Trường Thành chạy ra biển. Được xây dựng từ
thời nhà Minh để bảo vệ biên giới phía Bắc Trung Quốc, nó là cột mốc đánh dấu
điểm tận cùng của xã hội văn minh và nơi bắt đầu của miền hoang dã Mãn Châu.
Với tôi, bài hát buồn nhất là bài về Vạn Lý Trường Thành,
được hát bởi một người vùng Đông Bắc tha hương sau cuộc xâm lược của người Nhật
Bản. Các tháp canh và lỗ châu mai của trường thành đã được xây dựng trong nhiều
thế kỷ với mục đích bảo vệ Trung Quốc khỏi kẻ thù ở mạn phía Bắc. Sau khi quân
đội Nhật Bản tràn vào Mãn Châu năm 1931, bức tường ấy lại có một ý nghĩa khác -
vạch ra ranh giới của vùng đất đang dưới ách thống trị của người Nhật. Bài hát
là một lời thú nhận ngấm ngầm rằng Vạn Lý Trường Thành đã vô tích sự, bởi kẻ
thù của người Trung Quốc đã ở Đông Bắc rồi.
Vạn Lý Trường Thành dài vạn dặm
Bên ngoài Trường Thành là quê hương tôi
Lúa miến màu mỡ, đậu nành thơm hương
Vàng ở khắp nơi nơi, và tai ương hầu như chẳng có.
Thế rồi trận đại tai ương bất ngờ ập đến
Cưỡng hiếp, cướp bóc và bắt bớ, nỗi bi thảm sao quá đắng
cay
Nỗi bi thảm sao quá đắng cay, trốn chạy đến những miền xa
lạ
Gia đình ly tán, cha mẹ thương vong
Đời tôi nhớ mãi nỗi căm hờn
Ngày đêm chỉ mong trở về quê hương...
Để bốn trăm triệu đồng bào cùng đứng dậy:
Trường Thành trong tim ta sẽ dài vạn dặm xa.
Bố mẹ tôi học bài hát này từ khi còn là những đứa trẻ, cũng
giống như tôi. Bài hát kể lại câu chuyện của thế hệ cha ông họ, phải sống tha
hương và bị chia cắt khỏi mẹ cha mà họ không bao giờ được gặp lại. Trong truyền
thống Trung Quốc, thơ ca tuân theo những niêm luật rất chặt chẽ - với hết khả
năng có thể, cái tôi chìm khuất trong trải nghiệm của lời thơ. Bên trong giai
điệu của những bài hát ấy dồn nén một cảm xúc chẳng bao giờ được nói ra.
SAU NHIỀU NĂM trăn trở với những mẩu vụn quá khứ, những đoạn
lời hát, và những mảnh ký ức, cuối cùng tôi cũng ngồi xuống với cha mình, yêu
cầu ông kể cho tôi nghe mọi điều ông biết về lịch sử gia đình. Ông kể cho tôi
nghe về sự vươn lên từ nguồn gốc thấp kém của gia tộc trong những năm triều
Thanh suy bại. Ông diễn tả lại ông nội tôi đã tha thiết mong muốn rời bỏ quê
hương bản quán và đi cho biết đó biết đây như thế nào. Ông nhớ lại cuộc rút lui
hỗn loạn trước quân đội Nhật Bản và những hồi còi báo động có oanh kích, đồng
thời cũng có nghĩa rằng ngày hôm ấy sẽ không thể đến trường. Nhưng câu chuyện
của cha tôi hổng lỗ chỗ: ký ức của ông về Trung Quốc là những ký ức của tuổi
thơ, những ký ức bị bó chặt trong nỗi sợ của một đứa trẻ đối với thế giới bên
ngoài.
Bạn bè chơi trốn tìm với bố. Ông nội của con thì đang nằm
nghỉ. Bố nấp trong cửa sổ lồi ở phía bên kia chiếc giường nơi ông con đang nằm
ngủ, và bố sợ không dám ra ngoài. Nhưng ông nội đã phát hiện ra bố nấp ở đó, và
ông nói: “Ra đi,” sau đó ông chơi chung với bọn bố. Đó là ký ức duy nhất của bố
về ông.
Tôi đã nói chuyện với các cô bác anh chị em của cha tôi, tất
cả đều nhập cư vào Mỹ từ thuở còn đôi mươi. Một sự kiện xảy ra cách đây nửa thế
kỷ có thể được nhớ lại theo nhiều cách khác nhau, phiên bản của mỗi người được
ấn định và khác biệt - những mảnh vụn của Trung Quốc mà họ mang theo mình đã
rắn lại theo thời gian, tựa như những viên đá quý để càng lâu càng bóng nhoáng
vậy. Tôi gặp cả những người trong gia đình vẫn ở lại Trung Quốc; kể cả những
anh em họ và bà con xa của cha, những người chưa bao giờ rời khỏi ngôi làng của
tổ tiên chúng tôi. Có vài người cố gắng tìm hiểu về quá khứ, nhưng hầu hết là
không - cho dù ta đã rời khỏi Trung Quốc hay vẫn ở lại nơi đây, cứ để cho quá
khứ trôi đi thì sẽ bớt đau đớn hơn.
Họ mạc của tôi không thích kể câu chuyện của họ. Họ thường
bắt đầu bằng việc khăng khăng mình không có gì để nói hết. Lời kể của họ thường
mở ra bằng một sự không biết, một lời phủ định, hay thậm chí cả cái chết, như
thể họ muốn kết thúc câu chuyện trước khi nó thực sự bắt đầu vậy. Có vẻ như tôi
không phải một người trong số họ, tôi tin rằng những ký ức của họ là điều quan
trọng. Thực ra thì, trải nghiệm của bác ở Trung Quốc rất nông cạn, đó
là điều đầu tiên bác gái Nellie nói với tôi. Bọn bác không biết nhiều
về lịch sử gia đình, bác Luke nói, vì bọn bác chẳng bao giờ có cơ
hội nói về nó cả. Câu chuyện của bố tôi bắt đầu với một sự thiếu
vắng: Bố của ông nội bố. Không ai biết tên cụ cả. Họ xóa nhòa
các chi tiết và coi nhẹ các sự kiện xúc động. Đôi lúc khi họ nhớ lại chuyện gì
đó vô cùng đau đớn, họ cười. Có lẽ trong một thế giới nơi có quá nhiều người
phải chịu đựng đớn đau, câu chuyện của một người chẳng đáng để nhắc đến. Đau
đớn chỉ khiến bạn thêm giống những người khác.
Những cô gái trẻ ở các thành phố công nghiệp miền Nam không
nghĩ theo cách đó. Trong một thành phố không bị quá khứ vây nhiễu, mỗi người
đều đang sống, đang kể, đang viết câu chuyện của chính mình, giữa hàng triệu
cuộc vật lộn đơn độc ấy, chủ nghĩa cá nhân đã ăn sâu bén rễ. Điều này được thể
hiện ở những tầng lớp tự nâng cấp bản thân và chợ việc làm, ở những cuộc cãi vã
với cha mẹ và những bài học được chép lại một cách cẩn thận trong những cuốn sổ
ghi chép: Đừng để vuột mất cơ hội. Chết nghèo khó là tội lỗi. Những
chi tiết trong cuộc đời họ có thể tàn nhẫn và trần tục tầm thường, nhưng những
phụ nữ trẻ ấy kể cho tôi nghe câu chuyện của họ, như thể chúng rất quan trọng.
***
Đâu đó vào thời hoàng đế Khang Hy, có lẽ là khoảng năm 1700,
một người nông dân tên Trương Hoa Long đã rời khỏi quê nhà ở miền đồng bằng Hoa
Bắc đông đúc dân cư để tới thảo nguyên Mãn Châu, nơi đất hoang vẫn còn rất
nhiều, đủ cho bất cứ ai tạo lập một khởi đầu mới. Những ngày ấy, hầu như ngôi
làng nào ở miền Bắc Trung Quốc cũng đều có ai đó rời bỏ quê hương tha phương
cầu thực, và cũng như hiện tại, thường là những người trẻ tuổi và mạnh dạn cất
bước ra đi. Trương Hoa Long có hai người con trai, hai người này đã đi xa hơn
về phía Bắc lập nên một ngôi làng tên Lục Đài ở tỉnh Cát Lâm, vùng Mãn Châu.
Nơi họ chọn lựa còn được biết đến với cái tên Thung lũng Hành khất bởi khí hậu
khắc nghiệt và đất đai lầy lội. Mười bốn thế hệ nhà họ Trương đã sống ở đó. Tôi
thuộc thế hệ thứ mười một.
Khác với những người di trú thời những năm 1980, hành trình
được biết đến của cụ tổ đầu tiên trong gia đình chúng tôi là bất hợp pháp. Năm
1644, người Mãn Châu, tộc người sống ở miền biên viễn phía Đông Bắc đã xâm
chiếm Trung Quốc lập nên triều đại nhà Thanh. Ngay sau đó, những người đứng đầu
triều Thanh tuyên bố vùng Mãn Châu là cấm địa đối với người Hán, dân tộc chiếm
số đông ở khắp phần còn lại của đất nước. Họ làm vậy nhằm độc chiếm tài nguyên
thiên nhiên của vùng đất này, đồng thời cũng để bảo vệ miền đất quê hương: chỉ
cần biên giới vẫn được giữ nghiêm, họ tin rằng, dân tộc họ sẽ bảo tồn được sức
sống và ngăn chặn trước sự thối rữa và trụy lạc khiến cho các triều đại sụp đổ.
Để phong tỏa vùng Mãn Châu, các hoàng đế nhà Thanh đã ra lệnh cho xây dựng một
bức tường đất bùn dài hai trăm dặm trồng đầy cây liễu. Bức tường này kéo dài từ
phía Đông Bắc Vạn Lý Trường Thành qua hầu hết tỉnh Liêu Ninh và Cát Lâm hiện
nay, có các trạm canh phòng thủ dọc theo chiều dài của nó.
Đường biên này gọi là Liễu điều biên (Tường rào liễu), thậm
chí nó còn nhiều chỗ thủng phải vá hơn cả Vạn Lý Trường Thành. Nó được hoàn
thành vào năm 1681, có lẽ khoảng hai mươi năm sau đó tổ tiên của tôi đã vượt
qua bức tường rào này để định cư ở Lục Đài, có nghĩa là “trạm thứ sáu” - một
trong những tiền đồn phòng ngự dọc đường biên được xây dựng chính xác là để
ngăn ngừa những người như ông. Những người tiến vào vùng đất này một cách phi
pháp để cấy cày trồng trọt gọi là liumin - lưu dân, những kẻ lưu
lạc. Trong hai thế kỷ tiếp sau đó, tổ tiên của chúng tôi làm nghề nông - trồng
lúa miến và đậu nành, và sống trong những túp lều gỗ xung quanh bao bọc bởi
rừng cây nguyên sinh.
Cuối thế kỷ mười chín, dân số Mãn Châu bắt đầu tăng mạnh vì
nông dân miền Bắc Trung Quốc chạy đến đây để tránh hạn hán và nạn đói. Cuộc di
trú của hai mươi lăm triệu con người trong nửa thế kỷ tiếp sau đó là làn sóng
dân di trú lớn nhất trong lịch sử, tính đến trước khi làn sóng di trú hiện nay
xuất hiện. Nền kinh tế của cả vùng bùng phát mạnh mẽ, những tuyến đường sắt mới
nối liền vùng nội địa tới miền duyên hải và thị trường nước ngoài, dự đoán của
người nước ngoài cũng khiến người ta say sưa rung động như những gì chúng ta
vẫn nghe bây giờ vậy. Năm 1910, Tổng lãnh sự Anh ở Thiên Tân viết:
Khó có thể nghi ngờ, trong tương lai không xa nữa, Mãn Châu
sẽ trở thành một đối thủ cạnh tranh của Mỹ trong việc cung cấp các sản phẩm
nông nghiệp cho thị trường châu Âu. Những nhà máy xay bột ở Cáp Nhĩ Tân... đang
bày bán hàng hóa của họ ở thị trường bản địa với giá mà các nhà máy xay bột Mỹ
không thể nào cạnh tranh nổi... Những gì Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ sẽ mất vì giảm
doanh thu từ các sản phẩm nông nghiệp chắc hẳn sẽ phải nhiều hơn những gì họ
kiếm được nhờ tăng cường kinh doanh mặt hàng đã chế biến.
Gia đình tôi nổi lên trong giai đoạn bùng nổ kinh tế ấy. Cụ
tôi, Trương Nhã Nam, mua một xưởng ép dầu và một nhà máy xay bột, rồi dùng số
tiền kiếm được từ hai nơi này để trở thành dịa chủ lớn nhất ở Lục Đài. Khoảng
năm 1890, cụ Trương Nhã Nam cho xây dựng một khu nhà của gia đình với năm phòng
ở giữa và tám ở hai bên cánh. Bàn thờ và các bức ảnh chân dung tổ tiên chiếm
mấy phòng giữa, trong khi những người còn sống, ăn, ngủ và làm việc ở hai bên
cánh. Đó là cách sống của một gia đình Trung Quốc - đạo hiếu được hiển hiện
trong từng chi tiết của khu nhà. Khu nhà được đặt tên là Tân Phát Nguyên, có
nghĩa là “khởi nguồn mới”. Nó được bao tường cao xung quanh, với những khẩu
Mauser đặt ở các góc và một đội dân quân có vũ trang để bảo vệ gia đình chống
lại bọn giặc cướp. Thời ấy, thực phẩm là thước đo đánh giá mức độ thịnh vượng
của một gia đình, ở Tân Phát Nguyên thậm chí cả những người làm công cũng được ăn
bánh bao nhân đậu xay nhuyễn. Khẩu phần ăn phong phú đến nỗi họ còn sáng tác ra
một bài hát mà cả thế kỷ sau đó cha tôi vẫn nhớ.
Tân Phát Nguyên, một nơi tuyệt trần
Chó tung tăng chạy trước, người mang thức ăn đi
Hai cân rưỡi bánh bao đậu.
Cuối thời nhà Thanh, cụ tổ tôi được ban một chức vụ trong
chính quyền địa phương và được triều đình thưởng ba trăm lạng bạc để xây từ
đường thờ cúng tổ tiên. Đây là thông lệ: khi ai đó làm quan, người đó phải thờ
cúng tổ tiên mình đúng theo nghi lễ của đạo Khổng. Cụ tổ tôi có bốn người vợ -
cũng là một thông lệ - và đã lập nên một ngôi trường bên trong khu nhà của gia
đình cho chín người con của ông, cả con trai lẫn con gái theo học. Có lẽ vì sự
vươn lên của cụ tổ, triều đình ban thưởng cho cha của cụ một danh hiệu trong quân
đội, Tướng quân Tam phẩm của triều đình Mãn Thanh, và cấp tiền cho gia đình xây
dựng một cổng chào để ngợi ca lòng hiếu thảo của cụ. Mặc dù chuyện này chẳng có
nghĩa lý gì ngoài việc tạo ra một cây phả hệ lẫy lừng cho gia tộc. Một nông dân
trở thành tướng quân, một chủ nhà máy xay bột thành quan chức của triều đình: ở
miền biên viễn này, xây dựng một cuộc đời mới không cần nhiều thời gian lắm.
Cụ tổ tôi đã thực hiện hết những nhiệm vụ khác của một người
tộc trưởng Nho gia. Cụ giám sát việc viết lên mộc bản phả hệ kéo ngược trở về
đến đời vị tổ tiên đã di cư đến vùng Mãn Châu. Và cụ liệt kê ra một chuỗi những
cái tên mà con cháu cụ sau này sẽ mang trong hai mươi thế hệ tiếp sau, hợp lại
thành một bài thơ.
Phượng Lập Đồng Hưng Điện
Hồng Liên Dục Bảo Triều
Vạn Truyền Gia Khánh Yến
Cửu Dương Quốc Ân Chiếu
(Chim Phượng đứng trong cung diện của sự giàu sang
Chim Hồng nối liền nuôi dưỡng những triều đại giàu có
Vạn thế hệ tiếp nối khánh chúc gia đình
Chín vầng dương soi chiếu ân huệ của đất nước).
Gia đình tôi phồn vinh hơi muộn, chúng tôi giành được vinh
quang đúng vào thời điểm triều đình nhà Thanh đi hết vòng đời của nó. Nhà cửa,
từ đường, bàn thờ tổ tiên và các tấm chân dung, cùng đồ thờ đều bị phá hủy
trong thế kỷ hỗn loạn sau đó; nhiều cuộc đời bị rút ngắn lại. Nhưng không phải
thứ gì cũng bị uổng phí. Tên Trung Quốc của tôi là Đồng Hà: chữ đầu tiên trong
tên tôi đã được quyết định từ một thế kỷ trước bởi một cụ tổ mà tôi chưa từng
biết đến.
***
Ở ngôi làng ông nội Trương Xuân Ân của tôi sinh ra vào năm
1899, hầu hết mọi người đều cùng họ với ông. Khi còn nhỏ, ông đi học trong
trường tư của gia đình, học thuộc lòng những đoạn dài trong Tứ Thư và Ngũ Kinh
có từ thời Khổng Tử. Việc ông không hiểu một chữ nào trong những tác phẩm đó
không hề quan trọng, mục đích của giáo dục thời ấy là rèn uốn một đứa trẻ cách
hành xử đúng đắn, khắc sâu vào nó những đức tính về phục tùng, tôn trọng và
kiềm chế. Mục đích tối thượng của việc học hành là để vượt qua kỳ thi khoa cử
và trở thành một viên quan của triều đình - hệ thống này đã tồn tại và hầu như
không hề thay đổi trong suốt một nghìn năm.
Nhưng thế giới ấy đã vỡ tan từ khi ông nội tôi còn là một
đứa trẻ. Thế kỷ mười chín đã chứng kiến những cuộc chạm trán đau đớn với phương
Tây; sau thất bại của Trung Quốc trong cuộc Chiến tranh Nha phiến vào những năm
1840 và 1850, triều đình Đại Thanh bị buộc phải ký vào một loạt “điều ước bất
bình đẳng”, mở cửa các hải cảng cho giao thương với nước ngoài và cấp đặc quyền
kinh tế cho các cường quốc phương Tây và Nhật Bản. Những người chủ trương cải
cách đổ lỗi cho nền giáo dục truyền thống đã làm đất nước Trung Quốc phải chịu
cảnh nhục nhã ê chề. Những nỗ lực của họ đã dẫn đến việc hủy bỏ kỳ thi khoa cử
cũ vào năm 1905 và sự phổ biến của những ngôi trường giảng dạy các môn học hiện
đại. Năm 1911, khi ông nội tôi mới bước vào tuổi thiếu niên, triều đình nhà
Thanh sụp đổ và nền cộng hòa thay thế.
Từ khi còn là một đứa trẻ, ông nội tôi đã kiên quyết rời
khỏi gia đình - giống như bây giờ, mọi con đường dẫn đến thành công đều đi khỏi
làng quê. Anh trai ông, Trương Phượng Ân, một ngày nào đó sẽ tiếp quản sản
nghiệp của gia đình. Là con thứ của người vợ cả, ông tôi ở vị thế đặc biệt: ông
có thể ra đi. Mùa xuân năm 1913, ông vào học trường Trung học tỉnh Cát Lâm. Đó
là trường đầu tiên trong tỉnh dạy cái gọi là Tân học, học trình bỏ hết các kinh
điển mà tập trung vào toán học, lịch sử, địa lý và khoa học tự nhiên. Ba năm
sau đó, ông rời nhà đến học ở Đại học Bắc Kinh, cánh chim đầu đàn trong mạng
lưới trường học hiện đại của nước Trung Quốc.
Hầu hết các sinh viên học ở đây đều đến từ những gia đình
thương gia giàu có ở miền duyên hải, ông nội tôi là một trường hợp ngoại lệ,
giống như một cậu chàng Colorado được học bổng xuất hiện ở Đại học Harvard vậy.
Nhưng với vị thế trung tâm của nền giáo dục tiến bộ, trường đại học này cũng
thu hút nhiều người trẻ tuổi tham vọng từ các tỉnh thành khác nữa. Một trong
những người cùng thời với ông nội tôi làm việc trong thư viện trường chính là
Mao Trạch Đông. Ông nội tôi hồi ấy gần như đã phải vật lộn với chương trình Tân
học. Trong hồ sơ lưu trữ của trường Đại học Bắc Kinh, tôi tìm thấy một cuốn
sách bìa khâu bằng chỉ, bên trong ghi lại điểm thi của các: sinh viên khóa
tiền luật(15) năm 1917 bằng nét bút
nguệch ngoạc. Các môn học nước ngoài không phải thế mạnh của ông nội tôi.
(15) Pre-law:
chứng chỉ phải có khi học ở trường Luật
LỊCH SỬ PHƯƠNG TÂY: 73
VĂN CHƯƠNG ANH: 70
NGÔN NGỮ TRUNG QUỐC: 80
LOGIC: 90
ĐẠO ĐỨC: 100
Nếu hệ thống giá trị truyền thống vẫn còn nguyên vẹn, có lẽ
ông nội tôi đã tốt nghiệp đại học với vị trí cao nhất và nhận được một công
việc trong chính quyền. Nhưng Tân học đã đưa ông theo một hướng không lường
trước: ông nội tôi giành được một học bổng của tỉnh để đi học ở Mỹ, vì vậy ông
đã rời trường đại học sau khi kết thúc năm thứ hai. Ông cưới một cô gái trẻ tên
là Lý Tú Lan, người được gia đình lựa chọn cho ông - ba ngày sau đám cưới, ông
lên tàu thủy đến nước Mỹ.