Gái công xưởng - Phần I - Chương 04 phần 2
CHIỀU HÔM ĐÓ, tôi và Mẫn ra công viên nhỏ gần nhà máy cô làm việc. Nó bị các tòa chung cư vây kín xung quanh, giữa có một hồ nước màu vàng xanh, màu của Mountain Dew(13). Lũ trẻ con lội đến đầu gối, múc đầy các bát nông và bình thủy tinh. “Mấy cái ao chúng em hay bơi ở quê sâu lắm và nước thì sạch nữa,” Mẫn nói.
“Những mùa hè hồi em còn bé,” cô mơ màng tiếp tục, “chúng em trồng dưa hấu. Cách nhà khoảng mười phút đi bộ, người lớn dựng một cái chòi canh có thân cây làm cột trụ và một tấm ván gỗ phủ cỏ lén trên. Chúng em sẽ ngồi dưới cái lán ấy cả ngày để canh dưa hấu, còn bố em thì ngủ qua đêm ở đó.”
“Chị gái em, anh họ em, hai đứa em gái và em nữa, cả bọn ở đấy cả ngày. Chúng em chơi bài, câu cá và bơi lội. Chúng em có bài tập hè, và mẹ thường nhắc chúng em phải làm cho hết nhưng chúng em vẫn không làm.”
“Bọn em thả mấy trái dưa hấu xuống dòng sông chảy xiết. Bọn em đã buộc chúng vào bờ sông bằng dây thừng, nên chúng chẳng thể trôi đi được. Khi bọn em ăn dưa, đúng là mát lạnh.”
Tôi chưa bao giờ nghe một người di trú kể về miền nông thôn giống như Mẫn.
“Nếu em là chị, nếu em có khả năng và nhiều tiền như chị,” cô nói, “em sẽ làm việc thật chăm chỉ khi còn trẻ. Nhưng khi nhiều tuổi em sẽ về nông thôn, kiếm một người chồng và sống trong một ngôi nhà nhỏ ở đó. Sống trong một túp lều và nuôi mấy con gà cũng được.” Cô thoáng im lặng, gạt ra khỏi tâm trí một ảo ảnh mà cả hai chúng tôi đều biết rằng sẽ không bao giờ thành hiện thực.
(13) Một điệu múa Mỹ Latinh mà những người người tham gia nối đuôi nhau thành một hàng uốn khúc.
***
Đầu tháng Sáu, một công nhân mới vào làm ở nhà máy của Mẫn mất bốn ngón của bàn tay trái trong máy đột dập. Một tuần sau, cũng cái máy đó xơi mất ba ngón tay của một người mới khác. Cả hai công nhân đó đều không được đào tạo bài bản. Trong các công xưởng của thành phố này, thương tật gắn liền với nhu cầu sản xuất. Trong những tháng mùa đông, sản xuất chững lại, các nhà máy có đủ điều kiện để đào tạo công nhân mới; khi các đơn hàng dồn dập đến vào mùa xuân, những khóa đào tạo như vậy thường bị cắt ngắn thậm chí ngay cả khi những người mới không có kinh nghiệm tràn vào. Vì dây chuyền sản xuất trả tiền theo sản phẩm, làm việc nhanh hơn trong thời gian bận bịu đồng nghĩa với một khoản lương nhiều hơn - tốn thời gian dạy cho người khác chẳng mang lại cái gì cả. Đó là quy luật sống còn của nhà máy ở Đông Quản, giúp người khác chính là làm tổn thương chính mình.
Cuối tháng đó, Mẫn bất ngờ được đề bạt vào bộ phận nhân sự của nhà máy. Nhiệm vụ của cô là đứng bên đường dưới cái nóng như đổ lửa thuyết phục người qua đường gia nhập nhà máy, cô đã chiêu mộ được mười công nhân trong ngày đầu tiên. Cô cũng thực hiện các buổi học định hướng cho công nhân mới, những người mà hầu hết đều hơn tuổi cô. Giờ Mẫn không được nghỉ cuối tuần nữa, vì vậy chúng tôi gặp nhau vào một tối thứ Sáu cuối tháng, khi ca làm thêm giờ của cô kết thúc lúc chín giờ, trong một tiệm giải khát bên ngoài cổng nhà máy. Người bạn ở nhà máy cũ của Mẫn, Hoàng Kiều Nga đến ngay sau tôi, chỉ mang theo một chiếc va li nhỏ. Cô đến để làm việc ở dây chuyền lắp ráp.
Mẫn kể cho chúng tôi nghe về công việc mới của mình. “Em đứng bên đường thuyết phục mọi người đến nhà máy chúng em làm việc.”
“Cô nói gì với họ?” Tôi hỏi.
“Em bảo họ: “Có thể anh chị nghĩ rằng các nhà máy khác trông có vẻ tốt hơn. Nhưng nhà máy nào cũng có những khó khăn riêng mà các anh chị không thể thấy được đâu. Ở lại đây và ổn định có phải tốt hơn không? Tiết kiệm chút tiền, kiếm thêm kinh nghiệm, sau đó hãy quyết định xem các anh chị muốn làm gì”.” Những lời đó khá quen thuộc, đó chính là những điều bố mẹ Mẫn luôn nhắc nhở cô.
“Nhưng nó trái ngược với những gì cô đã làm,” tôi nói.
“Đúng thế.” Cô gật đầu và mỉm cười. “Nó trái hẳn với những gì em tin tưởng.”
“Chị chưa bao giờ nghe thấy em nói kiểu cường điệu như vậy cả!” Hoàng Kiều Nga nói.
“Đây là trách nhiệm của em,” Mẫn phòng thủ. “Chị cũng làm thế nếu chị ở địa vị của em thôi.” Mặc dù cuộc đối thoại có vẻ cợt nhả thoải mái, nhưng vẫn có giới hạn của nó. Hai cô gái từng là bạn và bình đẳng với nhau, nhưng giờ Mẫn làm việc trong văn phòng, cao hơn hẳn những công nhân làm ở dây chuyền lắp ráp như Hoàng Kiều Nga.
Mẫn đi ra cái sạp bên cạnh mua mấy bát mì cho bữa tối. “Nếu không phải vì Mẫn, em còn lâu mới đến chỗ này,” Hoàng Kiều Nga thổ lộ sau khi Mẫn đi khỏi. Hai ngày trước, cô đã đến thăm nhà máy và thấy không thích điều kiện ở đây rồi. Từ đầu đáng lẽ ra cô đã chuyển tới ngày hôm qua, nhưng cô do dự; cuối cùng hôm nay cô rời khỏi nhà máy cũ, không xin phép ai mà cũng không lấy lại hai tháng tiền lương. Có nhiều cách để nghỉ việc ở một nhà máy. Một công nhân có thể nghỉ việc với sự đồng ý của ông chủ và nhận lại toàn bộ số tiền giữ chân. Cô ta có thể tạm nghỉ một thời gian, cách này đảm bảo cho cô một vị trí khi quay lại. Vài công nhân xin nghỉ việc đã đàm phán với những người chủ thuê mình để nhận lấy một phần số tiền vốn là của họ. Nhưng không gì tệ hơn kuangli (cuồng ly) - dịch theo nghĩa đen: “muốn nghỉ việc đến phát cuồng lên” - chính xác đó là việc Hoàng Kiều Nga vừa mới làm xong.
Tôi hỏi Kiều Nga xem cô định ở lại đây bao lâu.
“Để xem đã,” cô nói. “Em đang thử họ và họ cũng đang thử lại em.”
Mẫn trở lại bàn. “Nếu chị làm tốt, chị sẽ được thăng tiến.” Cô nói thêm, nhưng vẫn đầy vẻ đề phòng, “Lương của bọn em cũng không cao lắm đâu: tám trăm đồng. Nếu chị làm thêm giờ, có khi còn được hơn em ấy chứ.”
“Nhưng chị sẽ mệt đến chết mất!” Hoàng Kiều Nga nói.
“Có nhiều kiểu mệt lắm,” Mẫn nói. “Làm công việc này, cả thân xác lẫn tinh thần em đều mệt mỏi cả.” Cô đang dần nâng cao vị thế của mình. Trách nhiệm mới của cô bao gồm cả rót trà cho khách đến thăm, và cô đã đăng ký vào một lớp học tiếng Anh hằng tuần dành cho các quản lý của nhà máy. “Chị có biết “pardon” nghĩa là gì không?” Mẫn hỏi Hoàng Kiều Nga một từ tiếng Anh. Cô có vẻ hơi thất vọng khi bạn mình nói “có”.
HOÀNG KIỀU NGA PHẢI thúc giục mãi Mẫn mới chịu nói ra tin tức còn lại. Một anh chàng ở quê mới lên Đông Quản làm công nhân dây chuyền lắp ráp. Anh chàng này và Mẫn từng hẹn hò với nhau một thời gian ngắn hồi học cấp II, nhưng đã ba năm rồi cô chưa gặp anh ta lần nào. Mới tuần trước, anh ta đến đây thăm cô.
“Giữa hai chúng em vẫn còn tình cảm,” cô tuyên bố. Rồi ngay sau đó - “nhưng anh ta lùn lắm: có mỗi 1 mét 65.” Cô tiếp tục đi vào chi tiết: “Anh ta hút thuốc, uống rượu và đánh nhau. Hoàn cảnh gia đình cũng không được tốt lắm. Anh ta có một bà mẹ kế.”
“Gia đình anh ta làm gì?” Tôi hỏi.
“Em không biết,” cô đáp. “Em không muốn biết. Đến cuối cùng, chúng ta vẫn phải dựa vào chính bản thân mình thôi.”
Hai người bọn họ đã ở với nhau cả ngày. Lúc ăn cơm trưa, Mẫn rót trà cho anh chàng bạn trai cũ trong khi anh ta cứ nhìn chằm chằm vào cái ti vi gắn đâu đó phía trên đầu cô. Trong các nhà hàng rẻ tiền ở Trung Quốc, lúc nào cũng có một cái ti vi bật to hết cỡ, ánh mắt của khách và cả đám nhân viên thường xuyên gắn chặt vào cái màn hình.
“Tại sao chúng ta không nói chuyện?” Mẫn căn vặn anh chàng kia. “Tại sao anh cứ nhìn vào cái ti vi thế?”
Sau khi anh bạn trai cũ về, Mẫn nhắn tin vào điện thoại di động của anh ta. Anh cảm thấy một ngày ở bên nhau của chúng ta thế nào?”
Anh thấy rất áp lực, anh ta nhắn lại. Cảm giác của anh rất phức tạp.
Đêm qua họ vừa mới nói chuyện điện thoại với nhau. Mẫn đi thẳng vào vấn đề: “Anh nghĩ chúng ta có tương lai không?”
Anh chàng bạn trai nói cần ba ngày để suy nghĩ về điều đó.
“Vậy là em sẽ có câu trả lời trong hai ngày nữa,” cô nói. “Anh ấy trả lời thế nào em cũng chấp nhận được.” Nói vậy nhưng cô đã xoay tròn giấc mơ của mình xung quanh chàng trai đã được đào tạo làm đầu bếp kia rồi. “Chúng em có thể về quê mở một nhà hàng nhỏ,” cô nói. “Tha phương cầu thực thế này chẳng có tương lai gì hết.”
“Cô có muốn kết hôn không?” Tôi hỏi. Cả cuộc nói chuyện này đã khiến tôi lấy làm ngạc nhiên.
“Đó không phải là vấn đề,” cô nói một cách thiếu kiên nhẫn. “Em đã mười tám tuổi. Em không muốn phí hoài thời gian của mình. Nếu anh ta không nghiêm túc với em, em muốn anh ta nói với mình ngay bây giờ.”
CUỐI CÙNG, mọi việc đều đã quyết định đối với Mẫn. Ba ngày sau cuộc nói chuyện với bạn trai cũ, cô nhận được một tin nhắn qua điện thoại di động lúc bảy giờ sáng: anh ở truớc cổng nhà máy. Cô không tin và đã chạy xuống cầu thang để xem. Anh chàng kia vừa hết ca đêm là bắt xe buýt thẳng tới nhà máy của cô. Mẫn phải làm việc, vì vậy anh chàng kia đợi bên ngoài từ tám giờ sáng đến trưa. Hai người cùng ăn bữa trưa, sau đó anh ta trở về và Mẫn quay vào làm việc.
“Anh ấy có nói hai người có tương lai gì không?” Tôi hỏi. “Không,” Mẫn nói. “Nhưng vì anh ấy đã đến, nên em biết.”
Cô vừa mới bắt xe buýt - ngồi hai tiếng đồng hồ - để ở bên anh chàng kia cả buổi chiều. “Anh ấy không cao, anh ấy không đẹp trai, anh ấy không có tiền, công việc của anh ấy cũng không tốt,” Mẫn nói.
Tôi đợi một lời gì đó tiếp theo một tràng những khuyết điểm ấy.
“Nhưng cô thích anh ta,” tôi chốt lại.
Mẫn không nói gì, nhưng cô mỉm cười.
Giờ anh chàng đang rời khỏi Đông Quản vì bố anh ta muốn con trai mình làm việc gần nhà hơn. Mẫn vừa mới nhìn thấy một viễn cảnh ổn định thì anh ta cũng biến mất, nhưng cô không hề bối rối. “Chúng em vẫn liên lạc bằng di động,” cô nói. Cả cô cũng không ở nguyên một chỗ. Cuối tháng đó, sếp đồng ý cho cô đi khỏi nhà máy và trả lại hai tháng tiền lương. Mẫn lại ra chợ việc làm lần nữa. Cô đã làm trong bộ phận nhân sự của nhà máy được chính xác hai mươi tư ngày, và dựa trên đó, cô có thể tạo dựng một sự nghiệp mới.
***
Trong một thành phố không có sự khoan thứ, chợ việc làm Đông Quản là nơi tàn khốc nhất. Với mười nhân dân tệ, tức là khoảng 1,25 đô la, bất cứ ai cũng có thể vào và phỏng vấn cho hàng trăm công việc được đề nghị tại quầy của các công ty ở bên trong. Nhưng để vào trong, người ta cần đến dũng khí - để nói chuyện với người lạ, để bán chính bản thân mình, để đối mặt với sự từ chối khi mọi người xung quanh đều nghe thấy. Mẫn ghét chợ việc làm vì nó khiến cô có cảm giác “có thể thay thế được”. Danh sách công việc kéo lùi con người xuống chỉ còn những đặc điểm cần thiết cho công việc ấy, và hiếm khi những thành tố cần thiết này cần đến hơn hai mươi từ:
TIẾP TÂN, GIỌNG DỄ NGHE, NGOẠI HÌNH ĐẸP VÀ NGĂN NẮP. BIẾT DÙNG PHẦN MỀM VĂN PHÒNG VÀ TIẾNG QUẢNG.
CÔNG NHÂN TIỆN. 18 ĐẾN 20 TUỔI, NAM, CÓ KINH NGHIỆM LÀM Ở NHÀ MÁY NƯỚC NGOÀI. KHÔNG CẬN THỊ. DA KHÔNG MẪN CẢM.
CHUYÊN VIÊN BÁN HÀNG. CÓ THỂ CHỊU KHÓ CHỊU KHỔ. TUYỂN CẢ NAM NỮ HỘ KHẨU NÔNG THÔN. CHỈ KHÔNG TRẺ EM.
Trong một ngày thứ Bảy đông đúc, chợ việc làm lớn nhất Đông Quản có thể hiện diện tới bảy mươi nghìn khách. Giữa buổi sáng, tất cả những người này sẽ kẹt cứng trong một đống hỗn độn phùng phình, khiến cho việc di chuyển trong ấy trở nên bất khả; chốc chốc, lại có một nhóm người tách ra và tràn vào một quầy nào đó, mặc dù chẳng thể xác định được rằng điều gì đã khiến một công việc đột nhiên có giá hơn mọi cái khác. Những quầy được chuộng nhất có poster được sơn xịt, thường là những công trình dài không cửa sổ nền láng xi măng; một quầy đơn giản thì chỉ có một người, đàn ông hoặc phụ nữ cầm một tập bìa kẹp hồ sơ. Chợ việc làm chiếm trọn cả một khối phố(14), kín cả một tòa nhà bốn tầng đã một thời dùng làm quán karaoke và sân bowling. Sau khi chuyển sang kinh doanh tương lai con người, người ta mới thấy hóa ra nó còn sinh lời nhiều hơn kinh doanh giải trí.
(14) Nguyên văn: city block, nghĩa là một khoảng không gian bao quanh bởi bốn con phố cắt nhau
THƯ KÝ. 18 ĐẾN 25 TUỔI, CAO 1 MÉT 55 TRỞ LÊN. NGOẠI HÌNH CÂN ĐỐI.
BẢO VỆ. 20 ĐẾN 26 TUỔl, CAO 1 MÉT 72 TRỞ LÊN.
Luật ở đây là phân biệt đối xử. Các ông chủ thích thư ký của mình là nữ, xinh xắn và còn độc thân, họ chỉ để ý đến đàn ông trong các công việc kỹ thuật nhất định. Một nhà máy có thể cấm cửa những người quê ở Hồ Nam, nhà máy khác có thể từ chối tiếp nhận bất cứ người nào đến từ An Huy. Đôi khi cả gia cảnh một ứng viên nào đó cũng trở thành một yếu tố cần khảo sát, vì người ta tin rằng những người có anh chị em có vẻ sẽ chiku nailao (ngật khổ nại lao) - chịu khó chịu khổ, giỏi hơn con một. Thấp hơn 1 mét 60 thì đảm bảo là bạn sẽ có một ngày bực bội ở chợ việc làm.
Chiều cao là một nỗi ám ảnh chung của người Trung Quốc. Ở một đất nước đã trải qua thời kỳ thiếu thốn và thậm chí là cả đói khát trong ký ức những người đang sống, chiều cao là biểu hiện của may mắn, và có chức năng như một đại diện của tầng lớp: ở bất cứ công trình xây dựng nào, cả đội quân công nhân - nông dân đều thấp hơn những người thành phố chủ nhân của ngôi nhà họ đang xây dựng. Đội quân lao động chân tay ở miền Tây có thể đông hơn dân cổ cồn trắng, nhưng ở Trung Quốc, phía kia mới có giá trị - những người có giáo dục có thể nhìn xuống các tầng lớp thấp hơn theo đúng nghĩa đen. Đối với phụ nữ, yêu cầu về chiều cao gắn liền với những ngành kinh doanh hấp dẫn quyến rũ hơn. “Em chỉ cần cao hơn mười centimét nữa thôi,” một cô gái trẻ làm việc trong tiệm cắt tóc có lần từng nói với tôi, “thì em đã đi bán ô tô được rồi.”
Tuổi tác cũng là một trở ngại khác - ở chợ việc làm, điều đó có nghĩa với bất cứ ai quá ba mươi lăm tuổi sẽ bị giới hạn ở rất nhiều vị trí công việc. “Những người trên ba lăm tuổi kém suy nghĩ và cả nỗ lực nữa,” một quản lý nhà máy giải thích trên tờ báo quảng cáo được công ty điều hành hoạt động khu chợ này xuất bản. Tờ báo ấy cũng đưa ra lời khuyên cho vấn đề thuộc về nhân khẩu học này: “Đừng bao giờ nói về kinh nghiệm trong quá khứ của bạn. Phải luôn có tâm lý bắt đầu từ con số không.” Nhìn theo hướng ngược lại, giới hạn tuổi tác là bằng chứng của khả năng tiến lên trên nấc thang sự nghiệp. Trong quầy tuyển dụng của một công ty sản xuất tấm ván đầu giường, danh sách công việc và tuổi tác tương ứng có vẻ như là một thời gian biểu thăng cấp vậy:
KẾ TOÁN THANH TOÁN: 25
TRƯỞNG PHÒNG MARKETING: 30
PHÓ GIÁM ĐỐC SẢN XUẤT: 35
Những công việc tuyển nhiều nhất là thư ký, tiếp tân, nhân viên bán hàng, bảo vệ và đầu bếp, ngoài ra nhu cầu tuyển nhân viên thiết kế khuôn và sửa máy móc cũng rất cao. Một công ty đang tìm người “có kỹ năng vận hành các máy móc của hãng Mitsubishi và Fujitsu”. Các chức danh công việc khá đặc trưng và đôi khi gây bối rối: THU THẬP MẪU. CÔNG NHÂN ĐÍNH. THỢ HÀN BÌNH ÁP SUẤT. Ở đây sức mạnh công nghiệp của nước Trung Quốc hiện đại bị đập tan thành từng mảnh nhỏ, các mảnh ấy chính là con người.
Những cuộc phỏng vấn ở chợ việc là ra thường ngắn và thẳng thắn đến độ khốc liệt. Người tuyển dụng không làm bộ làm tịch rằng công việc giống như thứ gì đó để mà viết thư về nhà kể, ứng viên thoải mái thú nhận sự ngù ngờ của minh. Hiếm có cuộc phỏng vấn nào kéo dài hơn năm phút. Việc tuyển dụng thường xong xuôi ngay tại chỗ, cũng chẳng ai buồn đi kiểm tra lý lịch làm gì cả.
Ở quầy của nhà máy sản xuất khuôn Hồng Phong, một cô gái trẻ ngồi xuống.
“Lương chỗ chúng tôi không được cao lắm,” người tuyển mộ nói ngay tức khắc. Sau đó là: “Cô đã làm việc với máy tính bao giờ chưa?”
“Rồi, tôi học sử dụng máy tính ở trường.”
“Ừm, chúng tôi chỉ trả được sáu trăm.”
Ở một quầy khác, một phụ nữ khác: “Cô có thể làm gì?”
“Tôi liên lạc với khách hàng, hầu hết là qua email, nếu họ đến văn phòng, tôi có thể tiếp đãi họ. Nếu công việc đòi hỏi chuyên môn nhiều hơn, thì tôi chẳng biết gì hơn cả.”
Cô có thể làm gì? Ở hầu hết các thành phố trên đất Trung Quốc, những nơi mà yêu cầu để tìm một công việc là bằng đại học, tiền và các mối quan hệ, đó là một câu hỏi hiếm khi được đặt ra. Ở chợ việc làm Đông Quản, bạn sẽ không bao giờ nghe thấy: Anh,cô học ở trường nào? Anh,cô biết ai? Hay ít nhất là, Quê anh,cô có ở gần đây không? Lúc nào cũng chỉ là: Anh,cô có thể làm gì? Có biết sử dụng máy tính không? Có biết tiếng Anh không? Danh sách công việc, thường được viết tay trên những tấm thẻ in sẵn, thường là điền lung tung bừa bãi vào các ô có sẵn. Ở chỗ đáng lẽ phải điền địa chỉ, người sử dụng lao động thường xác định giới tính của nhân viên mà mình muốn tuyển, thay vì điền nghề nghiệp chuyên môn, một công ty có thể đưa yêu cầu chiều cao vào chỗ đó.
Không phải ai đến chợ việc làm cũng dám đi vào bên trong. Một đám đông tập trung trên vỉa hè trước một tấm bảng điện tử khổng lồ thông báo tìm việc, như thể người ta đã được định sẵn chỉ có thể mơ ước về một miền đất hứa mà họ không bao giờ đặt chân vào. Danh sách công việc chuyển động liên tục từ dưới lên trên, giống kiểu bảng giá chứng khoán, và đám đông nhìn chằm chằm như bị thôi miên.
***
Đến chợ việc làm lần thứ hai, Mẫn biết chính xác cần làm gì. Cô đặt mục tiêu cao, chỉ tiếp cận những công ty có công việc ở bộ phận nhân sự. “Thư ký là một vị trí rất thấp trong công ty, vì vậy tôi không tìm việc đó nữa.” Trong các cuộc phỏng vân, cô hỏi về tốc độ thay thế công nhân và quy mô công ty, cô đang tìm một nhà máy nhỏ hơn, có nghĩa là ít cấp trên phải làm vừa lòng hơn. Cô né tránh những câu hỏi lý do tại sao cô lại bỏ công việc cũ. Đó là chuyện cá nhân, Mẫn đáp, rằng tốt hơn là không nói chuyện đó.
Và lần này, cô không còn thành thực hơn những người khác nữa. Ở quầy tuyển dụng của nhà máy cao su Thẩm Tinh, cô nói với người tuyển dụng rằng mình đã làm trong bộ phận nhân sự được một năm. “Nếu chị nói ít hơn,” cô giải thích với tôi sau đó, “họ sẽ nghĩ chị không đủ kinh nghiệm.” Cô được nhận với mức lương cao hơn lương người mà cô thay thế sáu đô la một tháng.
Mẫn bắt đầu làm việc ở bộ phận nhân sự của công ty ấy hai ngày sau đó, công ty này sản xuất các thành phần bằng cao su cho điện thoại di động và bàn phím máy tính.. Ngày làm việc của cô kéo dài tám giờ, nghỉ ngày Chủ nhật. Các nhân viên ở cấp độ cô ngủ bốn người một phòng tập thể, trong phòng có buồng tắm riêng và điện thoại. Cô kiếm được tám trăm nhân dân tệ một tháng, bao ăn bao ở - giống như công việc trước, kèm cơ hội thăng tiến nếu cô làm tốt.
Công việc mới của Mẫn là theo dõi các ghi chép về người lao động, biểu hiện, sai phạm và lương lậu của bốn trăm công nhân nhà máy. Cô đã từng giám sát máy móc, giờ thì cô chịu trách nhiệm ấy với con người, và có vẻ như đó là một công việc phù hợp hơn. Mỗi khi các công nhân đi tới cửa nhà máy, cô lại chặn họ lại để tuyển dụng. Anh,chị có chứng minh thư không? Anh,chị có kế hoạch ở lại bao lâu?
Cám ơn, cô đáp lại những người không trả lời đúng ý mình.Chúng tôi chưa tuyển người ngay lúc này.
Ngày mùng mười hằng tháng, bà vợ người Đài Loan của ông chủ nhà máy lại đến để trả lương cho công nhân và cầu Phật phù hộ. Mẫn sẽ theo bà chủ đi vòng quanh nhà máy - đến nhà ăn, cổng trước, và cùng chiếc máy nguy hiểm - hai người họ sẽ cầu Phật bảo vệ cho các công nhân và khiến công việc làm ăn thêm hưng vượng. Mẫn sẽ lặng lẽ cầu khấn cho gia đình và bạn bè cũng như ông bà đã sang thế giới bên kia của mình, nhưng cô không nói điều ấy với bà chủ.
Cô dần tiến bộ trong công tác chính trị văn phòng. Không lâu sau khi vào làm, ông chủ lớn gọi Mẫn đến văn phòng của ông ta. Người ở vị trí cô trước đây, ông ta bảo, nói rất nhiều và đã gây lỗi. “Cô không thích nói quá nhiều,” ông ta khen ngợi.
“Không ạ,” cô đồng ý.
Ông chủ mỉm cười. “Khi nào cô cần phải nói,” ông ta lên tiếng, “cô nên nói. Nếu cô không được phép nói, thì đừng nói.” Đó là quy tắc bí mật để tồn tại trong các công sở Trung Quốc, nhưng chưa từng một ai chia sẻ nó với Mẫn cả.
Lần này cô đã đối phó với cha mẹ mình một cách thành thục hơn. Cô không kể với họ rằng mình đã nghỉ việc. Thay vào đó, cô tìm một việc khác, gửi về nhà 120 đô la, sau đó gọi điện báo tin cho họ; cú chuyển tiền mặt là một đòn phủ đầu khiến họ sững sờ trong im lặng. “Họ không biết mọi việc bên ngoài diễn ra thế nào hết,” Mẫn kể với tôi. “Vì vậy tôi làm chuyện gì đó trước, rồi kể cho họ biết sau.”
Mọi người cô biết đều thay đổi, nhiều người trong số họ cũng đang vươn lên cao. Chị gái Mẫn ở Thâm Quyến đã được đề bạt lên làm thư ký điều hành, anh họ cô giờ là một quản lý ở Quảng Châu. Hai người bạn ở nhà máy cũ của Mẫn đã chia tách. Lương Dung về quê kết hôn với ai đó mà cha mẹ cô đã chọn lựa. Hoàng Kiều Nga, người đã chuyển tới làm việc ở nhà máy của Mẫn, đã nghỉ việc cùng ngày với cô và chuyển sang làm thư ký phụ trách sản phẩm ở đâu đó trong thành phố. Và sếp cũ của Mẫn cũng trở về Đông Quản. Anh ta rời Bắc Kinh về đây để làm cho một nhà máy sản xuất bít tất của Đài Loan, nhưng Mẫn không chịu gặp anh. Các công nhân ở nhà máy cũ của cô nói anh ta có ý đồ lãng mạn với cô. Cô đọc lại tin nhắn cũ của anh ta - Anh trai đang nhớ em gái đây - và cho rằng tin đồn đó là sự thật. Xét cho cùng thì người trưởng thành duy nhất đã tử tế với cô cũng không đáng tin cậy nốt.
Các nhà máy nhỏ cũng có vấn đề của riêng chúng, Mẫn đã nhanh chóng nhận ra những vấn đề ấy là gì. Nơi làm việc rất lộn xộn vô tổ chức, trách nhiệm của cô không bao giờ được làm rõ; cô phải hết sức vất vả để theo kịp tất cả nhũng nhiệm vụ ném lên đầu mình. Giống như người cũ, ông chủ mới của cô lúc nào cũng bấp bênh và có ý thức rất rõ rệt về địa vị. Mẫn tìm hiểu được rằng có rất nhiều người đàn ông Trung Quốc mắc khiếm khuyết này. Ông ta không thích cái kiểu Mẫn không xin phép ông ta trước khi làm bất cứ việc gì. Ông ta không thích việc Mẫn cư xử thân thiện với đám bảo vệ. Ông ta phản ứng lại bằng cách bắt đầu phỏng vấn các ứng viên vào vị trí của Mẫn - một đồng nghiệp, một đối thủ cạnh tranh hay một kẻ sẽ thay thế Mẫn.
Tháng Tám năm 2004, hai tháng sau khi đến làm việc tại công ty này, Mẫn nhận tiền lương và ra đi mà không nói với bất cứ người nào. Một đồng nghiệp cũ đã vào làm ở một nhà máy tại Thâm Quyến mời cô đến đó làm với anh ta, thế là cô quyết định đi. Cô ngủ qua đêm trong một khách sạn gần nhà máy; khi đang ngủ, kẻ trộm đã phá khóa và lấy đi chín trăm nhân dân tệ cùng chiếc điện thoại di động của Mẫn, nơi duy nhất cô lưu giữ số điện thoại của mọi người cô quen biết trong thành phố này; người đồng nghiệp cũ, mối liên hệ duy nhất với công việc mới, những bạn bè cô đã có từ khi rời khỏi quê hương lên thành phố, và cả người bạn trai ở quê nữa.
***
Chiếc điện thoại di động là khoản chi mua sắm lớn đầu tiên của hầu hết dân di trú. Không có điện thoại, gần như là không thể giữ liên lạc với bạn bè hay tìm một công việc mới. Thư từ giữa các nhà máy thường xuyên bị thất lạc, và gọi điện cho một công nhân qua số của nhà tập thể, nơi mà có thể có tới một trăm con người dùng chung một cái điện thoại cố định ngoài hành lang, là rất khó khăn. Điện thoại ở văn phòng trong nhà máy thường được lập trình sẵn để không cho thực hiện cuộc gọi ra bên ngoài hoặc tự động ngắt sau vài phút. Mà dù sao chăng nữa, người ta nhảy việc quá thường xuyên nên số điện thoại nhà tập thể và văn phòng đều nhanh chóng trở nên lỗi thời. Trong thế giới của những chuyển động vĩnh hằng này, chiếc điện thoại di động chính là kim chỉ nam, thứ ghim giữ một con người ở một nơi nào đó.
Tôi đã hiểu được tất cả những điều này một cách khá đau đớn. Trong những ngày đầu tiên ở Đông Quản, tôi làm bạn với rất nhiều người mới đến, những người chưa có điện thoại di động, rồi tôi đánh mất liên lạc với họ, hết người này lại đến người khác. Khi gặp Mẫn, tôi quyết định mua cho cô một cái máy nhắn tin, nhưng dịch vụ đó đã bất ngờ tan biến từ mấy năm trước, nên người bán hàng ở tiệm đồ điện tử chỉ cười giễu tôi khi tôi nói mình muốn mua một cái. Vậy nên tôi cho Mẫn một chiếc điện thoại di dộng để khỏi mất luôn cả cô nữa.
Trong thế giới của người di trú, chiếc điện thoại đi động là một ẩn dụ của nhịp sống đô thị không ngừng nghỉ. Một quản lý nhà máy giày đã tổng kết lại sự thiếu kết nối với thế giới xung quanh của người di trú như thế này: “Ở nhà họ chẳng có điện thoại gì hết, và rồi đột nhiên họ ở đây và nó là Nokia 6805.” Để mô tả lại cuộc sống ở nông thôn, một phụ nữ trẻ bán bảo hiểm nói với tôi rằng, “Ở nhà họ chuyền tay nhau một chiếc di động.” Người ta nói về mình bằng những thuật ngữ dùng cho điện thoại di động: Mình cần sạc. Mình đang tự nâng cấp. Các ông bố bà mẹ của những cô gái di trú xa quê hương không tin tưởng vào điện thoại di động một cách bản năng, một số người còn cấm con gái mình mua một chiếc. Điện thoại di động, thiết bị cho phép và thậm chí còn cổ súy liên lạc bí mật với người lạ, là tất cả mọi thứ, trừ cuộc sống ở cộng đồng làng quê.
Một cô gái có thể đánh tín hiệu tình cảm của mình với một chàng trai trẻ bằng cách đề nghị trả hóa đơn điện thoại di động của anh ta. Các cặp đôi tuyên bố tình cảm chung thủy của mình bằng cách dùng chung một điện thoại, mặc dù thi thoảng những mối quan hệ này đã tan vỡ khi một người lén đọc tin nhắn gửi riêng cho người kia. Những người di trú mà tôi biết tốn rất nhiều thời gian để chăm sóc cho những chiếc điện thoại của mình - họ đổi số liên tục để được hưởng dụng những gói cước rẻ hơn, và đổi thẻ điện thoại khi đến một thành phố khác để tiết kiệm phí chuyển đổi cuộc gọi. Đó là tâm lý ngắn hạn ở Đông Quản này: tiết kiệm vài xu lẻ vẫn tốt hơn, thậm chí việc đó có làm mất liên lạc với một số người.
Công nhân di trú là lý do chính để thị trường điện thoại di động Trung Quốc trở thành thị trường lớn nhất thế giới, nhưng cảm giác của những người làm trong ngành này đối với họ lại rất phức tạp, một người bạn làm trong ngành công nghiệp viễn thông của tôi cho biết: có vẻ như họ [các công ty viễn thông] hạ giá cước là vì họ [người dùng] chỉ muốn trả tiền cho dịch vụ nào rẻ nhất. Văn hóa đại chúng cũng bị ảnh hưởng tiêu cực: tôi cũng được nghe người ta nhận xét rằng, chất lượng nhạc pop Trung Quốc tệ hơn trong vài năm trở lại đây, bởi dân di trú thường chọn những bài hát ít phức tạp nhất làm nhạc chuông cho những chiếc điện thoại của họ.
Có hàng trăm nhà máy ở Đông Quản sản xuất linh kiện điện thoại di động, dường như mọi đại lý cấp ba trong thành phố này đều là cửa hàng bán diện thoại di động. Thành phố này cũng là một vùng thịnh vượng của ngành kinh doanh điện thoại ăn cắp. Một số quận nổi tiếng vì tỷ lệ trộm cướp điện thoại di động quá cao, một trong những chiêu được sử dụng là phóng xe máy lao nhanh trên vỉa hè và giật điện thoại khỏi tai người đi bộ, khi họ đang dở câu chuyện. Những chiếc điện thoại bị đánh cắp được thay vỏ khác và bán như đồ mới. Gia công, bán, ăn cắp, đóng gói lại và bán lại, chiếc điện thoại di động tựa hồ như một nguồn tài nguyên có thể làm mới vô tận giữa lòng nền kinh tế Đông Quản.
Điện thoại di động đồng thời cũng là sợi dây liên kết Mẫn với thành phố này. Cùng với chiếc điện thoại bị mất cắp, quan hệ bạn bè một năm rưỡi của cô cũng biến mất như thể chúng chưa bao giờ từng tồn tại. Cô lại đơn độc một lần nữa.