Gái công xưởng - Phần I - Chương 03 phần 1
3. Chết nghèo là
có tội
25 tháng Năm, 1994
Sau khi bị đuổi việc ở nhà máy Vĩnh Thông (Yongtong
Factory), thật may là mình còn được trả lương đầy đủ. Mình có hơn một trăm đồng
và mình không sợ sệt gì hết. Mình có hơi lo lắng một chút, vì mình thậm chí còn
chẳng có cả chứng minh thư nữa. Nhưng chẳng còn cách nào hơn, mình đành lấy tạm
cái chứng minh thư ghi rằng mình sinh năm 1969 và thử vận may vậy. Ai ngờ mình
lại may đến thế chứ? Mình đã được vào làm trong bộ phận ép nhựa dẻo của cái nhà
máy này rồi.
Từ lúc mình đến Quảng Đông, mình đã nhảy việc ở các nhà máy
bốn hay năm lần rồi, cái sau luôn tốt hơn cái trước. Quan trọng hơn cả là trong
mỗi lần như thế, mình đều dựa vào chính bản thân. Mình không bao giờ cầu xin sự
giúp đỡ của bất cứ ai. Mặc dù mình có vài người bạn tốt, nhưng không ai giúp
được mình trong lúc mình cần nhất cả.
Mình nhớ khi mình trốn về từ Thâm Quyến. Vào thời gian ấy,
mình thực sự chẳng có gì cả. Ngoài chính bản thân mình ra, mình chẳng có gì
hết. Mình lang thang ngoài đường suốt một tháng, hoàn toàn không xu dính túi,
thậm chí có lần còn phải nhịn đói hai ngày liền mà chẳng ai hay biết... Mặc dù
hai vợ chồng anh họ mình sống ở ngay Long Nhãn, mình không muốn đến tìm họ, vì
họ thực sự không thể giúp mình được. Mình thường xuyên muốn dựa vào người khác,
nhưng họ không phải là những người có thể dựa dẫm. Chỉ có thể dựa vào chính
mình mà thôi.
Phải, mình chỉ có thể dựa vào chính bản thân.
Ngô Xuân Minh không hề nói với cha mẹ khi cô rời bỏ quê
hương lần đầu tiên. Đó là mùa hè năm 1992, ly hương là điều gì đó liều lĩnh và
nguy hiểm. Ở một làng nhỏ thuộc tỉnh Hồ Nam quê cô, người ta nói rằng cô
gái nào lên thành phố sẽ bị lừa vào nhà chứa và từ đó bặt vô âm tín.
Mùa hè năm đó Xuân Minh mười bảy tuổi. Cô đã tốt nghiệp
trung học cơ sở và đang bán rong rau quả ở thành phố gần nhà; cô ra đi cùng với
một người em họ vẫn còn đang đi học. Hai cô gái vay tiền mua vé tàu đến Đông
Quản và tìm được việc trong một nhà máy sản xuất sơn cho đồ chơi. Mùi hóa chất
làm họ đau đầu, và họ đã trở về sau hai tháng, nghèo khó như xưa. Mùa xuân năm
sau, Xuân Minh lại ra đi lần nữa. Cha mẹ cô phản đối, mắng mỏ và khóc lóc.
Nhưng khi cô quyết định bất chấp tất cả để ra đi cùng vài người bạn ở mấy ngôi
làng bên cạnh, mẹ cô đã đi vay tiền cho cô mua vé tàu.
Quảng Đông năm 1993 thậm chí còn hỗn loạn hơn ngày nay.
Những người di trú từ nông thôn tràn ngập các con phố, tìm kiếm việc làm, ngủ
trong trạm xe buýt và dưới gầm cầu. Cách duy nhất để tìm việc là gõ cửa các nhà
máy, Xuân Minh và những người bạn của mình bị xua đuổi khỏi rất nhiều cánh cửa
trước khi được nhận vào làm trong nhà máy đồ chơi Quốc Thông. Công nhân bình
thường ở đó kiếm được khoảng một trăm nhân dân tệ một tháng, tức là khoảng mười
hai đô la. Để chống lại con đói, họ mua những túi mì ăn liền khổng lồ, đổ muối
và nước sôi vào ăn. “Chúng tôi nghĩ nếu có khi nào kiếm được hai trăm đồng; một
tháng,” sau này Xuân Minh nói, “chúng tôi đã cực kỳ hạnh phúc rồi.”
Sau bốn tháng, Xuân Minh nhảy sang một nhà máy khác, nhưng
rồi lại nhanh chóng bỏ đi sau khi một công nhân làm cùng nói họ hàng cô ta nghe
đồn công việc ở Thâm Quyến tốt hơn. Xuân Minh và vài người bạn đã tới đó, qua
đêm dưới cầu vượt bắc qua đường cao tốc, rồi gặp người họ hàng của cô gái kia
vào sáng hôm sau. Anh ta đưa họ đến một tiệm cắt tóc rồi dẫn lên gác, trên đó
có một người đàn bà trẻ trang điểm lòe loẹt mặt bự phấn đang ngồi trên ghế mát
xa đợi khách. Xuân Minh hết sức kinh hoảng trước cảnh tượng đó. “Em được nuôi
dạy theo cách rất truyền thống,” cô nói. “Em nghĩ mọi người ở nơi đó đều xấu xa
và muốn em trở thành một con điếm. Em nghĩ rằng khi bước vào đấy, mình cũng trở
nên xấu xa theo họ.”
Họ bảo các cô gái nên nghỉ ngơi và tắm qua trong một buồng
tắm công cộng, nhưng Xuân Minh khước từ. Cô bước lùi xuống cầu thang, cẩn thận
quan sát cửa trước, và chạy, bỏ lại các bạn và cả chiếc va li đựng tiền, một
chứng minh thư được chính quyền cấp và tấm ảnh mẹ cô. Có tiếng bước chân phía
sau. Cô rẽ vào một ngõ hẻm rồi lại một ngõ khác, rồi tiếng bước chân dừng lại.
Xuân Minh chạy vào một cái sân và thấy một cái chuồng gà bỏ không ở đằng sau.
Xuân Minh trèo vào chuồng trốn trong đấy, cả ngày và cả đêm. Sáng hôm sau, hai
cánh tay cô hằn lên đầy vết muỗi đốt, Xuân Minh đi ra phố và quỳ trên vỉa hè để
xin tiền, nhưng không ai cho cồ đồng nào. Một người qua đường đưa cô tới đồn
công an; nhưng không có tên hay địa chỉ tiệm cắt tóc, công an cũng không thể
giúp gì cho cô được. Họ cho cô hai mươi nhân dân tệ để mua vé xe buýt trở về
nhà máy.
Tài xế xe buýt bỏ cô giữa đường trở về Đông Quản. Xuân Minh
phải đi bộ, và một gã đàn ông trên phố đã đi theo cô. Cô để ý thấy một phụ nữ
trẻ mặc đồng phục nhà máy và hỏi xem cô gái đó có thể lén giúp cô vào nhà máy
một đêm được không. Cô gái kia mượn chứng minh thư của một công nhân đưa Xuân
Minh vào, sau đó cô trốn cả đêm trong nhà tắm. Sáng hôm sau, Xuân Minh trộm một
bộ quần và áo phông sạch sẽ đang hong khô trong nhà tắm và trèo qua cổng nhà
máy để ra ngoài. Cho đến lúc ấy, đã hai ngày liền cô chưa ăn gì. Một tài xế xe
buýt mua cho Xuân Minh một cái bánh mì và cho cô đi nhờ về Đông Quản, nơi vợ
chồng anh họ cô làm việc.
Xuân Minh không kể cho họ chuyện gì đã xảy ra với mình. Thay
vì thế, cô đi lang thang trên các con phố. Cô quen với một đầu bếp ở công
trường xây dựng, cô này cho Xuân Minh ăn chung với những công nhân khác, đến
tối cô lẻn vào nhà tập thể trong nhà máy của bạn bè ngủ nhờ. Không có chứng
minh thư, cô không thể tìm được việc mới. Sau một tháng trời lang thang, Xuân
Minh thấy một quảng cáo tuyển người làm trong dây chuyền lắp ráp ở nhà máy sản
xuất đồ chơi Ngân Huy. Cô tìm thấy một cái chứng minh thư ai đó đánh rơi hoặc
bỏ đi và dùng nó để xin việc, về mặt hành chính tên cô là Đường Tùng Vân, sinh
năm 1969. Điều đó làm cô già hơn tuổi thực của mình năm năm, nhưng chẳng ai để
ý đến những chuyện như thế cả.
Xuân Minh làm việc ở Nhà máy Ngân Huy trong một năm, việc
của cô là trộn lẫn các bình nhựa lỏng lớn với nhau, sau đó thứ này sẽ được đổ
vào khuôn để làm ô tô, máy bay và tàu hỏa đồ chơi. Xuân Minh rất bạo dạn và
thích nói chuyện, nên cô kết bạn khá dễ dàng. Những người bạn mới gọi cô là
Đường Tùng Vân. Cô đã trở thành, gần như là theo nghĩa đen, một người khác.
Nhiều năm sau khi rời nhà máy, cô vẫn nhận được thư gửi cho
Đường Tùng Vân. Xuân Minh không bao giờ tìm được cô “Đường Tùng Vân” ấy là ai.
TÔI ĐÃ QUEN XUÂN MINH hai năm trước khi cô kể cho tôi câu
chuyện này. Đó là một buổi chiều Chủ nhật cuối năm 2006, cô đang ngồi trong một
quán nước ở Đông Quản sau một ngày đi mua sắm quà sinh nhật. “Em chưa bao giờ
kể với ai về những chuyện xảy ra với em khi ấy cả,” cô nói trong khi nhấm nháp
cốc nước ép hoa quả của mình. “Khi kể ra, em có cảm giác như nó vừa xảy ra hôm
qua thôi vậy.”
“Cô có tìm hiểu chuyện gì xảy ra với những người bạn cô bỏ
lại ở tiệm cắt tóc không?” Tôi hỏi.
“Không,” cô nói. “Em không biết đấy có phải một nơi xấu xa
thực sự hay chỉ là nơi người ta có thể làm nhân viên mát xa nếu muốn. Nhưng em
sợ họ sẽ không để chúng tôi đi.”
Bạn thân nhất của Xuân Minh là một trong những người mà cô
bỏ lại ở tiệm cắt tóc. Họ gặp nhau ở thành phố, bên dây chuyền lắp ráp, nên
Xuân Minh không biết tên làng của bạn cũng như không biết cách nào để tìm lại
cô. Nhiều năm sau đó, Xuân Minh gặp một cô gái quen người bạn kia, cô gái kể
rằng bạn của Xuân Minh đã về quê rồi sau đó lại rời quê hương đến Đông Quản lần
nữa. Xuân Minh phải kết luận từ những lời kể vắn tắt đó rằng bạn cô cuối cùng
cũng bình yên. Nhưng không có cách nào để biết chắc cả, có lẽ người bạn của cô,
đã bị lừa vào trong nhà chứa và không bao giờ có tin gì của cô ấy nữa, như
những người trong làng vẫn nói. Người bạn tốt của Xuân Minh đã bị tách khỏi cô,
giống vô vàn những người khác cô gặp trên đường đời. Một năm ở Đông Quản rất
dài, mà Xuân Minh đã sống trong thành phố này được mười ba năm rồi.
* * *
24 tháng Năm, 1994
Bọn mình bắt đầu làm việc vào bảy giờ sáng và nghỉ lúc chín
giờ tối. Sau đó bọn mình tắm và giặt quần áo. Khoảng mười giờ, những ai có tiền
thì ra ngoài ăn bữa khuya, ai không có thì đi ngủ. Bọn mình ngủ đến sáu rưỡi
sáng. Không ai muốn dậy cả, nhưng phải làm việc lúc bảy giờ. Hai mươi phút để
làm những việc sau: bò ra khỏi giường, dụi cặp mắt đang phù lên, đánh răng và rửa
mặt. Còn lại mười phút: ai muốn ăn sáng thì tận dụng đế ăn sáng, nhưng mình
thấy nhiều người không ăn. Mình khổng biết có phải vì họ không muốn ăn, hay để
tiết kiệm, hay để giữ eo...
Chắc chắn là mình không hy sinh sức khỏe để giữ eo hay tiết
kiệm rồi. Rốt cuộc, di trú đến đây làm việc là để làm gì? Có phải chỉ là để
kiếm một chút tiền còm này thôi hay không!
Không bao lâu sau khi lên thành phố, Xuân Minh bắt đầu viết
nhật ký. Trong những cuốn sổ bìa màu hồng nhạt, cô miêu tả cuộc đời trong nhà
máy, sự khắc nghiệt của người chấm công, cả những khoảnh khắc thư nhàn ngắn
ngủi được dùng để tán chuyện, ăn vặt và tơ tưởng các chàng trai. Phải
viết lại mọi thứ bạn nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy và nghĩ hằng ngày, cô
viết. Như thế, không chỉ có thể nâng cao trình độ viết mà còn thấy được
quá trình trưởng thành của mình nữa. Trong những trang tiếp theo, cô vạch
ra kế hoạch trốn thoát khỏi thế giới nghèo đói của mình bằng một chương trình
tự rèn luyện bản thân hà khắc: đọc tiểu thuyết, luyện viết chữ, và học nói - để
xóa giọng Hồ Nam
của mình và tinh thông tiếng Quảng Đông, thứ ngôn ngữ của các chủ nhà máy. Nỗi
sợ lớn nhất của cô là bị kẹt cứng lại nơi mình đang ở. Thời gian là kẻ thù của
Xuân Minh, bởi nó nhắc cô rằng lại một ngày nữa đã trôi qua và cô vẫn chưa đạt
được mục tiêu của mình. Nhưng thời gian cũng là bạn cô, bởi cô vẫn còn rất trẻ.
Các mục ghi trong nhật ký thường không ghi ngày tháng và lộn
xộn. Xuân Minh ghi tốc ký, miêu tả những ngày của mình, viết nháp những bức thư
gửi cho cha mẹ, chép những câu khẩu hiệu truyền cảm hứng và lời bài hát, và
thúc giục bản thân làm việc chăm chỉ hơn. Đôi khi những câu của cô được viết
theo đường chéo vắt qua hai trang giấy, to dần lên cho đến khi mỗi chữ phải cao
đến hơn hai xăng ti mét. Như thể cô đang gào lên trong đầu mình vậy.
MÌNH KHÔNG CÓ THỜI GIAN ĐỂ BUỒN VÌ CÓ QUÁ NHIỀU ĐIỀU MÌNH
MUỐN LÀM.
“THỜI GIAN LÀ CUỘC SỐNG.”
“CHÚNG TA CÓ THỂ BÌNH THƯỜNG NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC TẦM
THƯỜNG.” - NGÔ XUÂN MINH
“NGAY BÂY GIỜ MÌNH CHẲNG CÓ GÌ CẢ. ĐỒNG VỐN DUY NHẤT CỦA
MÌNH LÀ MÌNH VẪN CÒN TRẺ.”
Đã gần một giờ rồi! Mình không thể đặt số báo Công
nhân di trú này xuống được nhưng tối nay lại phải làm lúc bảy giờ rồi.
Mình cũng nên đi ngủ nữa.
Ái chà! Mình thật sự khó chịu khi có quá ít thời
gian. Hằng ngày mình phải làm việc mười hai tiếng; trong mười hai tiếng còn lại
mình phải ăn, tắm, giặt quần áo và ngủ. Còn bao nhiêu thời gian để đọc chứ? Làm
ca đêm, thời gian còn bị xé nhỏ ra nữa: sau khi hết giờ làm và ăn, mình phải
đợi một tiếng đồng hồ để tắm. Buổi chiều mình ngủ đến sáu giờ, sau đó phải dậy.
Bữa tối lại tốn thêm một tiếng nữa... Mình đọc vào buổi tối cho đến nửa đêm;
chỉ còn chưa đầy sáu tiếng để ngủ. Vậy là chỉ có một tiếng nữa để làm những thứ
khác.
MÌNH ĐÃ THẤT BẠI, THẤT BẠI PHẢI CHĂNG TRÊN CON ĐƯỜNG ĐỜI NÀY
SỐ PHẬN CỦA MÌNH ĐÃ ĐỊNH SẴN ĐỂ THẤT BẠI?
MÌNH KHÔNG TIN
MÌNH TUYỆT ĐỐI KHÔNG TIN
Ngô Xuân Minh, mày không thể tiếp tục sống ngày nào cũng như
ngày nào thế này được! Nghĩ đi: mày đã ở trong nhà máy này được tròn nửa năm
rồi, nhưng mày thực sự kiếm được gì rồi? Mày biết rằng làm công nhân trong cái
xưởng ép nhựa này cả đời sẽ chẳng có triển vọng gì hết, nên mày muốn thay đổi
và tìm một công việc hài lòng hơn. Trước tiên mày phải học nói tiếng Quảng Đông
đã. Tại sao mày vô dụng thế? Có thực là mày ngu thế không? Tại sao mày không
thể học những thứ người khác học được? Mày cũng là một con người, Ngô Xuân
Minh. Mày có vô dụng đến nỗi thế hay không? Đã hai tháng rồi mà tiếng Quảng của
mày chẳng tiến bộ thêm chút nào cả. Mày có nhớ rằng mục tiêu của mày khi vào
nhà máy này là học tiếng Quảng hay không? Nếu mày không thể học tiếng Quảng
trong năm nay, mày là một con lợn ngu, một con bò ngu và mày không cần phải đến
tận Quảng Đông làm việc nữa đâu. Với hai hay ba trăm đồng một tháng thế này,
thà mày ở nhà còn hơn.
Ngày 23 tháng Ba,
Ái chà, thực sự có quá nhiều thứ mình muốn làm, và có
quá ít thời gian. Vài người nói họ phiền muốn chết đi được, ái chà! Những người
khác khó chịu, nhưng mình chẳng có thời gian mà khó chịu.
Một, mình phải tập thể dục. Béo là không chấp nhận được.
Hai, mình phải đọc thật nhiều và rèn luyện khả năng viết, để
sau này có thể sống hạnh phúc và sung túc.
Ba, mình phải học nói tiếng Quảng. Chuyện này không thể gấp
mà phải học từ từ.
Còn thời gian ngủ, nhiều nhất sáu tiếng là đủ rồi.
29 tháng Ba,
Hôm nay bọn mình được trả lương. Mình được 365 đồng. Trả nợ
năm mươi đồng, mình vẫn còn ba trăm. Mình muốn mua một cái đồng hồ đeo tay,
quần áo và vài món vật dụng cá nhân. Sau đó mình còn bao nhiêu nữa?... Mùa hè
rồi và mình chẳng có quần áo gì hết... Mình phải mua một cái đồng hồ. Không có
đồng hồ, mình không thể sử dụng thời gian tốt hơn được.
Còn chuyện gửi tiền về nhà lại càng ít khả năng hơn. Khi
nhận lương tháng sau, mình sẽ đăng ký học ở trường Đại học Hàm thụ kỹ năng Thư
ký và Tốc ký. Mình phải có bằng đại học. Mình dứt khoát không đến Quảng Đông
chỉ để kiếm hai hay ba trăm đồng một tháng thế này... đây đơn thuần chỉ là điểm
dừng tạm thời mà thôi. Đây chắc chắn không phải nơi mà mình sẽ dừng chân mãi
mãi.
Sẽ chẳng ai hiểu cho mình cả, mình không cần người nào hiểu
mình hết.
Mình chỉ có thể đi con đường của riêng mình và mặc người ta
nói gì thì nói!
22 tháng Năm,
Nhiều người bảo mình đã thay đổi. Mình không biết là mình có
thay đổi hay không nữa... giờ mình ít nói hơn rất nhiều và mình không thích
cười như trước nữa. Thỉnh thoảng mình cười nếu bắt buộc phải thế. Thỉnh thoảng
mình có cảm giác mình đã tê liệt cảm giác. “Tê liệt cảm giác.” Tê liệt cảm
giác. Không! Không! Nhưng mình thực sự không biết nên dùng từ ngữ nào để diễn
tả cái đứa mình bây giờ nữa.
Dù sao chăng nữa, mình rất mệt, rất mệt.
Thực sự, thực sự đấy, mình thấy mệt lắm.
Thân thể và tinh thần mình đều rất mệt.
Quá mệt, quá mệt.
Mình không muốn sống như thế này nữa.
Mình không muốn sống như thế này nữa.
Không bao giờ sống như thế này nữa.
Mình nên sống thế nào bây giờ?
* * *
Đồng thời với việc đặt kế hoạch phát triển trong thế giới
của các nhà máy, trong những lá thư gửi về nhà, Xuân Minh vẫn cố gắng tỏ ra là
một cô con gái ngoan ngoãn theo kiểu truyền thống.
Mẹ, con đã đan cho mẹ một cái áo len... Nếu không đan áo
len, con đã có thể dùng cả ngày đó đọc bao nhiêu là sách. Nhưng mẹ ạ, thỉnh
thoảng con nghĩ: con nên làm con gái ngoan của mẹ, một đứa con hiếu thảo hơn,
thậm chí là phải gạt bỏ đống sách con rất thích đọc sang một bên.
Mẹ, con đã đan tình yêu của con dành cho mẹ vào chiếc áo
len này... Mẹ, còn nhớ hồi con vẫn ở nhà, mẹ lúc nào cũng nói con gái người ta
biết đan áo len còn con thì quá thiếu kiên nhẫn. Nhưng hôm nay, mẹ thấy con gái
mẹ cũng biết đan chưa? Mẹ nhớ nhé, con gái mẹ sẽ không bao giờ ngu ngốc hơn
người khác đâu.
Kỳ vọng của gia đình đè nặng lên cô. Các cô gái trẻ đến từ
nông thôn luôn cảm thấy áp lực rất lớn từ phía gia đình. Nếu họ không nhanh
chóng tiến lên phía trước, cha mẹ họ sẽ thúc giục trở về quê để lấy chồng.
Cuối cùng mình cũng nhận được thư nhà... Ngoài bố ra, còn ai
viết thư được cho mình nữa đây? Mẹ thậm chí còn không nhắn vào được một dòng
nói rằng bà nhớ mình... Trong lá thư trước, mẹ nhắn một dòng bảo mình đừng tìm
người yêu bên ngoài. Mặc dù chỉ có một dòng ấy thôi, nhưng nó khiến mình rất
vui, như thể mẹ đang ở bên cạnh dạy dỗ mình vậy.
Mình muốn tuôn trào tất cả những từ ngữ chôn giấu trong lòng
cho mẹ biết nhường nào, nhưng mình không thể. Mẹ! Mẹ của con, tại sao mẹ lại
thất học? Thất học cũng được thôi. Vậy tại sao mẹ không viết được cả một bức
thư nữa? Mẹ không thể viết thư cũng được thôi. Mẹ viết được vài chữ cũng tốt
rồi. Cho dù mẹ chỉ viết vài chữ để nói lên những gì mẹ muốn nói với con, con
cũng hiểu được suy nghĩ thực sự của mẹ rồi.
Mẹ, con biết mẹ có nhiều điều muốn nói với con, chỉ là bố
không viết vào thôi...
Bố, mẹ, có vẻ như chúng ta không thể hiểu nhau. Bố mẹ sẽ
không bao giờ biết và hiểu được trong lòng con gái bố mẹ đang nghĩ gì. Có lẽ bố
mẹ nghĩ rằng con đã tìm thấy nhà máy lý tưởng, lương ba trăm đồng một tháng. Có
lẽ bố mẹ nghĩ con sẽ không bao giờ nhảy việc nữa. Có lẽ bố mẹ mong rằng con
không bao giờ nhảy việc nữa, mong rằng con làm việc ở nhà máy này trong hai năm
rồi trở về lấy chồng, có một gia đình giống như tất cả những cô gái nông thôn
khác. Nhưng con không nghĩ đến những điều ấy...
Con muốn tạo cho bản thân một thế giới riêng ở Quảng Đông
này... Kế hoạch của con là:
1. Học đại học hàm thụ
2. Học tiếng Quảng Đông
3. Chưa có gì và chưa đạt được thành tựu gì, tuyệt đối không
kết hôn
Ba năm đầu tiên ở thành phố, Xuân Minh không về thăm nhà một
lần nào. Cô bảo với bạn bè rằng kỳ nghỉ của nhà máy quá ngắn, nhưng trong nhật
ký cô lại viết: Có ai biết tại sao mình không về thăm nhà vào dịp Tết
chứ? Lý do chính là: mình không muốn phí thời gian. Bởi vì mình phải học! Cô
cũng bỏ qua lời khuyên của mẹ và viết thư tình cho một anh chàng đẹp trai làm
việc ở công xưởng. Các chàng trai trẻ là của hiếm ở chỗ làm, những anh đẹp trai
hơn thường được rất nhiều cô gái chú ý. Anh chàng này không quan tâm đến Xuân
Minh, đưa thư của cô cho những người khác đọc.
Sau sáu tháng làm việc ở dây chuyền lắp ráp, Xuân Minh tìm
hiểu được rằng nhà máy cô tuyển văn thư bên trong nhà máy, vậy là cô viết một
bức thư cho trưởng bộ phận của mình để bày tỏ sự quan tâm đến việc ấy. Người
quản lý đã nghe đến thành tích theo đuổi con trai của cô và ra lệnh cho cô phải
chuyển sang một bộ phận khác. Nhưng mệnh lệnh của anh ta không hiểu sao lại bị
hiểu lầm, thế là Xuân Minh được chuyển lên làm văn thư. Cô thực hiện công việc
rất tốt và ông chủ đã thay đổi ý kiến của mình với cô. Công việc mới được trả
ba trăm nhân dân tệ một tháng - gấp ba lần lương của cô một năm trước.
NHỮNG CÂU CHUYỆN CỦA CÁC CÔ GÁI DI TRÚ có nhiều điểm chung.
Những người đến thành phố thường mơ hồ, bối rối và đều bị lừa đảo ít nhiều. Các
cô gái trẻ vẫn nói họ ra đi một mình, mặc dù sự thật là họ đi chung với những
người khác nữa; họ chỉ cảm thấy mình cô đơn. Họ nhanh chóng quên tên các nhà
máy, nhưng những ngày tháng đặc biệt thì in sâu vào tâm trí họ, chẳng hạn ngày
họ rời bỏ quê hương hoặc bỏ việc ở một nhà máy tồi tệ. Một nhà máy sản xuất thứ
gì chẳng bao giờ là điều quan trọng; vấn đề là làm việc ở đó khổ sở thế nào
hoặc có cơ hội ra sao. Điểm ngoặt trong vận mệnh của một người di trú luôn xuất
hiện khi cô ta thách thức ông chủ của mình. Trong khoảnh khắc cô ta mạo hiểm
với tất cả mọi thứ của mình, cô gái đó bước ra khỏi đám đông và buộc cả thế
giới phải nhìn vào cô như một cá nhân riêng biệt.
Bạn rất dễ đánh mất mình trong các nhà máy, nơi có hàng trăm
cô gái với hoàn cảnh giống hệt như nhau: sinh ra ở làng quê, thất học, và nghèo
khó. Bạn phải tin rằng bạn quan trọng cho dù sự thực bạn chỉ là một người giữa
hàng triệu người khác.
1 tháng Tư, 1994
Phải, mình là một đứa bình thường đến nỗi không thể bình
thường hơn, đơn giản đến mức không thể đơn giản hơn, một cô gái giống vô vàn
các cô gái khác. Mình thích ăn vặt, thích vui đùa, và thích làm đẹp.
Đừng mộng tưởng rằng mình là siêu nhân.
Mày chỉ là một con bé bình thường, chân chất, bị hấp dẫn bởi
mọi thứ đẹp, ngon miệng hay vui vẻ.
Vì vậy, mình sẽ bắt đầu từ bình thường và đơn giản.
* * *
Trong một nhà máy ở Đông Quản, giới tính được phân biệt rất
rõ ràng. Phụ nữ làm văn thư và trong bộ phận nhân sự, bán hàng, cũng như thực
hiện hầu hết công việc ở dây chuyền lắp ráp; các ông chủ cảm thấy phụ nữ trẻ
thì siêng năng hơn đồng thời cũng dễ quản lý hơn. Đàn ông độc quyền trong các
công việc kỹ thuật như thiết kế khuôn và sửa máy móc. Họ thường giữ những vị
trí cao nhất trong nhà máy và cả những vị trí ở tận dưới đáy: bảo vệ, đầu bếp
và lái xe. Bên ngoài nhà máy, phụ nữ làm tiếp viên phục vụ, giữ trẻ, cắt tóc và
gái điếm. Đàn ông làm việc ở công trường xây dựng.
Sự phân biệt giới tính này được phản ánh trong những mẩu
quảng cáo tìm người:
NHÀ MÁY TÚI XÁCH CAO BỘ TUYỂN NHÂN VIÊN
BÁN HÀNG: NỮ, TIẾNG ANH MỨC BỐN
TIẾP TÂN: NỮ, BIẾT NÓI TIẾNG QUẢNG ĐÔNG
BẢO VỆ: NAM, DƯỚI 30, CAO 1,7 MÉT TRỞ LÊN, CỰU QUÂN NHÂN,
BIẾT CỨU HỎA, BIẾT CHƠI BÓNG RỔ LÀ MỘT LỢI THẾ
Sự chia tách giới tính đó ngầm định một số điều. Các cô gái
trẻ được hưởng những công việc linh động hơn, họ có thể vào làm việc trong dây
chuyền ở một nhà máy và chuyển lên làm văn thư hoặc bán hàng. Các chàng trai
khó vào nhà máy hơn, một khi đã vào họ thường bị kẹt cứng trong đó. Phụ nữ, bên
trong hoặc bên ngoài nhà máy, tiếp xúc rộng hơn và nhanh chóng tiếp nhận quần
áo, kiểu tóc và khẩu âm thành phố; đàn ông có khuynh hướng khóa chặt mình với
thế giới bên ngoài của họ. Phụ nữ hòa nhập vào đời sống thị thành dễ hơn đàn
ông, và họ có nhiều động lực khuyến khích ở lại thành phố hơn.
Phụ nữ chiếm hơn một phần ba dân số di trú Trung Quốc. Họ có
khuynh hướng trẻ hơn dân di trú nam giới cùng lứa và có lẽ là độc thân nhiều
hơn, họ đi xa hơn và ở lại lâu hơn. Họ có nhiều động lực để thay đổi bản thân
theo hướng tích cực hơn và đánh giá sự di trú vì khả năng thay đổi cuộc đời của
nó. Trong một cuộc thăm dò, đàn ông cho rằng mục đích chính của việc ly hương
là để có thu nhập cao hơn, trong khi đó phụ nữ lại khát khao “có thêm nhiều
kinh nghiệm sống”. Không giống đàn ông, phụ nữ không có nhà để trở lại. Theo
truyền thống của Trung Quốc, một người con trai luôn được trông đợi trở về ngôi
nhà của cha mẹ cùng với vợ mình sau khi anh ta kết hôn; một người con trai luôn
có một ngôi nhà ở làng quê nơi anh ta sinh ra. Con gái, khi đã trưởng thành, sẽ
không bao giờ trở về nhà sống - trước khi lấy chồng, họ chẳng thuộc về bất cứ
nơi nào cả.
Ở một mức độ nào đó, sự thành kiến giới tính thâm căn cố đế
này lại tốt cho phụ nữ. Nhiều bậc cha mẹ ở nông thôn muốn người con trai trưởng
thành ở gần nhà, chẳng hạn như đưa hàng hoặc bán rau củ ở thị trấn gần làng.
Những người đàn ông trẻ với viễn cảnh không mấy hấp dẫn ấy có thể chỉ đơn giản
là hun (hỗn) – sống bừa bãi - làm những việc lặt vặt, hút sách
nhậu nhẹt và đánh bạc hết số tiền ít ỏi kiếm được. Các cô gái trẻ - ít được coi
trọng, ít được cưng chiều hơn - có thể đi xa nhà và có kế hoạch cho riêng mình.
Nói một cách chính xác, chính vì họ không quan trọng, nên họ được tự do làm
việc họ muốn hơn.
Nhưng đó là một lợi thế bấp bênh. Nếu sự di trú giải thoát
các cô gái trẻ khỏi làng quê, nó đồng thời cũng thả họ vào một vị trí chơi vơi.
Hầu hết các cô gái nông thôn kết hôn khi mới ngoài đôi mươi, còn người phụ nữ
di trú nào trì hoãn việc kết hôn sẽ phải đánh liều với khả năng từ bỏ chuyện đó
mãi mãi. Giới tính mất cân bằng nghiêm trọng ở Đông Quản, theo thống kê có tới
70% lực lượng lao động là phụ nữ, đầy cạnh tranh trong việc kiếm một tấm chồng
tử tế. Và cả sự lưu động về mặt xã hội cũng khiến chuyện tìm một người chồng
trở nên phức tạp. Những người phụ nữ đi lên từ dây chuyền lắp ráp coi thường
đàn ông ở quê, nhưng đàn ông thành phố lại coi thường họ. Những người di trú
gọi tình trạng này là gaobucheng, dibuiju (cao bất thành, đê bất tựu - cao
không tới, thấp không xong) - không phù hợp với một vị trí cao hơn
nhưng lại không muốn chọn cái thấp hơn.
Những phụ nữ di trú mà tôi biết không bao giờ phàn nàn về sự
bất công đối với phụ nữ. Cha mẹ có thể yêu quý con trai hơn con gái, các ông
chủ thích những cô thư ký xinh đẹp, và bảng thông báo tuyển người thì phân biệt
một cách rõ ràng, nhưng họ chấp nhận tất cả những điều đó một cách thoái mái -
hơn ba năm ở Đông Quản, tôi không bao giờ nghe một người nào biểu thị thứ gì đó
kiểu như một ý kiến đòi hỏi nam nữ bình quyền cả. Có lẽ họ đã coi cuộc sống khó
khăn với tất cả mọi người là chuyện đương nhiên. Sự phân biệt giữa nông thôn và
thành thị là điều duy nhất đáng lưu ý: một khi vượt qua lằn ranh ấy, bạn sẽ
thay đổi cuộc đời mình.
* * *