Gái công xưởng - Phần I - Chương 02 phần 3
Tôi đi khắp nơi bằng xe buýt. Làm vậy một phần là để quan sát thế giới của những người di trú hết mức có thể, song nó cũng rất thực tế. Lái xe taxi là những tên lừa gạt giỏi nhất ở đây - không chỉ một lần tôi nhận ra mình đang lao vút trên con đường tối om khi tay tài xế dọa sẽ bỏ tôi lại giữa đường nếu tôi không chịu trả thêm tiền. Một chiến thuật đàm phán hiệu quả nhanh khác nữa là đề nghị chở một hành khách đi một phần quãng đường tới nơi đến với giá thấp hơn, tài xế là những người suy nghĩ ngắn đến nỗi họ chấp nhận lấy ít hơn để được trả tiền sớm hơn. Thậm chí cả những bác tài thành thật nhất cũng mắc phải những lỗi lầm rất “nông dân”: một khi rời khỏi khu vực họ thông thạo, họ cũng lạc đường hệt như tôi vậy.
Nhân viên trong hệ thống xe buýt làm việc theo từng cặp: lái xe thường là người địa phương, còn người bán vé là một phụ nữ di trú. Đôi khi họ hét với qua đầu hành khách suốt dọc chiều dài chiếc xe để trò chuyện, và đôi khi có một màn hình ti vi nhỏ gắn trên bảng điều khiển để tài xế có thể vừa xem ti vi vừa lái xe. Mỗi khi gần đến điểm dừng, người bán vé thò người qua cửa trong khi xe vẫn di chuyển và khản giọng hét to điểm tới tiếp theo. Những người đang đợi thường dễ bị ảnh hưởng bởi áp lực, nếu bị hét gọi đủ lâu, vài người sẽ leo lên.
Những chàng trai trên xe buýt bốc mùi mồ hôi nồng nặc, mùi của những người đã đi bộ những quãng dài bên ngoài và chưa bao giờ được hưởng cái thú xa xỉ gọi là điều hòa nhiệt độ. Các cô gái lại thường sạch sẽ: họ không bao giờ bốc mùi, mái tóc luôn suôn mượt. Trên xe buýt nào cũng có vài người di trú khư khư cầm túi nilon giơ lên mồm lặng lẽ nôn ọe. Chứng say xe là nỗi sợ của những người đến từ nông thôn, những người không quen đi lại bằng ô tô. Túi nhựa màu nâu treo lơ lửng trên trần xe thành từng chuỗi một, trông như những quả chuối chín nẫu sắp hỏng. Hành khách trên xe buýt mang theo nhiều loại đồ đạc một cách đáng kinh ngạc; ở nông thôn, người ta chẳng vứt đi thứ gì cả. Trong những chuyến đi khác nhau, tôi thấy có người mang theo một cái ti vi cổ lỗ sĩ, cả một giỏ dây điện, một xô đóng đầy vữa bùn đựng các đồ lề thợ xây, và một cái cờ lê dài đến nửa mét trông phát khiếp. Có lần, tôi còn thấy một chàng trai trẻ vác theo một cái cán chổi dài gần hai mét.
Các trạm dừng xe buýt không được đánh dấu, và chẳng có tấm bảng nào hiển thị tuyến đường. Bạn phải hỏi; thông tin truyền đạt bằng miệng, như thể chúng ta sống vào thời cổ đại trước khi chữ viết được phát minh ra. Tôi đã hai lần mua bản đồ thành phố có bảng giờ xe buýt nhưng cả hai lần các tuyến đường đều lỗi thời, mọi thứ xảy đến quá nhanh để có thể ghi chép lại. Những hành khách khác cũng bối rối chẳng kém gì tôi, họ thường lớn tiếng gọi tên những trạm vừa mới đi qua và hoảng hốt xuống xe. Tôi đi đến đâu cũng bị hỏi đường. Một buổi chiều, tôi đã rối beng vì các tuyến đường với một người đàn bà di trú, bà này sau đó đã hỏi tôi: “Cô là dân Hồ Bắc hả?” Đó là một lời châm chọc hay lời khen đây? Tôi chỉ muốn về nhà thôi.
Buổi tối xe buýt ngừng chạy rất sớm, một sự bất công đối với những ai không đủ điều kiện sử dụng các phương tiện giao thông khác. Sau tám giờ tối, người ta chắc chắn phải qua đêm ở chỗ của bạn bè, mặc dù hầu hết các nhà máy cấm khách ở lại qua đêm và bị phát hiện đồng nghĩa với một khoản phạt lớn. Tôi không bao giờ thấy người già trên xe buýt.
MỘT BUỔI TỐI, tôi bắt xe buýt từ Thâm Quyến trở về Đông Quản. Được khoảng nửa đường, chiếc xe dừng lại và tài xế quát đuổi các hành khách chuyển sang một xe khác. Chuyện này khá phổ biến, dù bất hợp pháp: vào buổi tối khuya, những chiếc xe trống một nửa ghế ưa chuyện dồn khách gộp khách hơn là tiếp tục chuyến đi để chịu lỗ. Tài xế xe này sẽ trả cho người kia một giá ấn định cho mỗi hành khách chuyển khỏi xe mình.
Sau khi chiếc xe buýt thứ hai đã lên đường cao tốc, người bán vé mới tuyên bố rằng chúng tôi sẽ không đến Đông Quản. Chuyện này cũng phổ biến: sau khi xe thứ hai được trả tiền để nhận khách, mục tiêu duy nhất của nó chính là thoát khỏi họ càng sớm càng tốt.
Chiếc xe dừng lại. “Người nào đi Hậu Nhai xuống ở đây.” Người bán vé là một gã người Quảng Đông gầy trơ xương lúc nào cũng thét lên bằng giọng mũi. Y đi dọc theo hai dãy ghế, chỉ vào từng người một và ra lệnh cho họ đi xuống. Gã ta chỉ vào tôi.
Một hành khách ngồi trước tôi đã xuống xe, biến mất vào màn đêm tối tăm. Tôi đi ra phía trước xe ngó ra ngoài từ bậc lên xuống dưới cùng. Chúng tôi đang ở trên đường cao tốc tối đen như mực bên cạnh một công trường xây dựng bỏ hoang.
“Ở đây không có taxi,” tôi nói với gã bán vé. “Tôi không xuống đâu.”
“Có taxi đây,” gã hét lên bằng giọng Quảng Đông cáu kỉnh.
“Tôi không xuống đây.”
Gã bước tới sau lưng và đặt bàn tay lên vai tôi.
“Đừng có chạm vào tôi!” Tôi bước lên bậc thang trở lại xe ngồi xuống một chỗ ở hàng đầu tiên. Những hành khách khác không ai nhúc nhích.
Và chiếc xe lại tiếp tục lên đường. Nó đã thất bại trong việc tống khứ đống hàng hóa mình đang chở, vì vậy nó lại chạy tiếp. Hành khách lại tiếp tục xuống ở trạm của họ như chưa từng có chuyện gì xảy ra. “Bọn xe buýt này bẩn lắm,” một phụ nữ trẻ có gương mặt ngăm đen gầy gò ngồi cạnh tôi nói. “Cô chỉ nên bắt xe buýt nào có tài xế mặc đồng phục thôi.” Nói vậy nhưng cô vẫn ở trên chiếc xe này, giống như tôi.
“Cái bọn làm trên cái xe này toàn lũ xấu xa cả,” cô cao giọng nói, “lại toàn nói tục chửi bậy nữa.” Chỉ ngồi bên cạnh cô tôi cũng đã thấy an toàn, nhưng rồi cô cũng xuống xe.
Chiếc xe ngoặt vào ven đường và dừng lại lần nữa. “Được rồi, tất cả xuống xe,” gã bán vé quát lên. Lần này gã đi đi lại lại dọc lối giữa hai hàng ghế, đưa cho mỗi người hai nhân dân tệ.
Tôi bước xuống chỗ gã đang đứng. “Tôi trả hai mươi lăm đồng để đến Đông Quản, giờ tôi muốn lấy lại tiền ấy.”
Gã bán vé quay lại đối mặt với tôi. Tất nhiên, gã cao hơn tôi và là đàn ông. Trong khoảnh khắc ấy, tôi nhận ra thực tế mình bất lực đến nhường nào.
“Nếu cô trả một trăm đồng thì tôi cũng phải trả cô một trăm đồng hả?” Gã hét lên. “Nếu tôi tụt quần ra, cô có trả tôi một trăm đồng không?”
Câu đó chẳng có nghĩa gì và cũng chẳng buồn cười nữa, nhưng gã thích cái kiểu ấy và nói lại một lần nữa. “Nếu tôi cởi quần ra, cô có trả tôi một trăm đồng không?”
“Con mẹ mày,” tôi nói bằng tiếng Anh. “Thằng khốn. Đồ đầu...” Điều này đã vi phạm quy tắc chủ đạo của tôi khi sống ở Trung Quốc - không bao giờ chơi bài Mỹ - nhưng thỉnh thoảng chỉ có chửi thề bằng tiếng Anh mới có hiệu quả. Gã đàn ông nhìn tôi với sự tôn trọng mới.
Tôi gạt gã sang một bên đi tới phía trước xe tìm thứ gì đó để ném. Tôi muốn giật cái túi tiền đeo ở thắt lưng của gã quăng qua cửa sổ, nhưng tất nhiên là gã giữ nó rất chặt. Có một cái khăn bông bẩn thỉu trên bảng đồng hồ, tôi bèn hất nó vào mặt gã tài xế. Sau đó tôi nhảy xuống xe và chạy. Tim tôi đập thình thịch; tôi nghĩ có thể hắn sẽ đuổi theo. Rồi tôi dừng lại, nhận ra chắc hẳn là trông mình ngu ngốc lắm.
Trên một con phố ngang, tôi thấy một chiếc taxi và hỏi tài xế đến Đông Quản thì bao nhiêu tiền. Tám mươi nhân dân tệ - mười đô la. Tôi lên xe. Tôi bực đến nỗi run bần bật. Tôi nghĩ đến tất cả những phụ nữ trẻ sống ở đây mà tôi quen biết, và mỗi người đã bị một kẻ nào đó giống như gã người Quảng Đông gầy trơ xương kia, những kẻ sáng sớm thức dậy đã thấy nổi giận với cả thế giới này, lừa gạt, nhục mạ và quát tháo như thế nào. Không thể trông đợi gì ngoài nước mắt và nổi giận với sự bất lực của chính bản thân mình. Trong một cuộc cãi vã, mọi chuyện sẽ lập tức chuyển thành bạo lực, người phụ nữ sẽ luôn thua cuộc. Tôi có tiền, và với tiền, tôi có thể trả tiền để đi lại thoải mái và an toàn. Họ thì không.
Nhưng cũng có những người tử tế, giống người phụ nữ trẻ trên xe buýt đã chửi đổng gã tài xế thay cho tôi. Bạn phải tập trung vào những điều đó, nếu không bạn sẽ không bao giờ sống nổi.
* * *
Đông Quản có thể giống một nơi không có quá khứ, nhưng quan chức thành phố không nghĩ như vậy. Ở khu trung tâm mới, họ đã dựng lên một nhà bảo tàng lịch sử - một khu nhà rộng mênh mông bằng đá xám, thấp lè tè và kiên cố như lăng mộ của một nhà độc tài đã chết. Các tài xế taxi không biết chỗ ấy - họ luôn đưa tôi tới một trung tâm triển lãm thương mại dưới phố - nhà bảo tàng ấy vắng tanh vắng ngắt trong cả ba lần tôi đến thăm vào mùa hè năm 2005.
Bảo tàng lịch sử Trung Quốc là nơi vô cùng lộn xộn. Nền văn minh cổ xưa rất vĩ đại, hoặc lối thuyết minh chính thức nói như thế, nhưng nó phong kiến và lạc hậu. Trung Quốc thời kỳ cận hiện đại bị người nước ngoài cướp bóc tàn phá, nhưng nhân dân Trung Hoa là những anh hùng bị làm nhục và bại trận. Trung Quốc vùng đứng lên năm 1949 khi những người Cộng sản lên nắm quyền lực, nhưng có một số năm sau đó - 1957, 1966 và đặc biệt là 1989 - đã hoàn toàn không được nhắc đến. Tất cả những điều rối tung, không gắn kết với nhau và tốt hơn là không nên nói ra ấy phải được dàn xếp sao cho thành một khuôn mẫu hợp lý, bởi vì mục đích của lịch sử từ thời của Khổng Tử là phải truyền đạt những bài học đạo đức cho đời sau.
Ở Đông Quản, tiền sảnh mở rộng của nhà bảo tàng là một biểu trứng cho sự phí phạm đất đai và cho hệ thống điều hòa công suất lớn. Các tấm biển chỉ đến khu Lịch sử, thẳng phía trước, và Kinh tế, tầng hai. Trong lần tham quan đầu tiên, tôi vào khu Lịch sử. Căn phòng đầu tiên trưng bày từ các hóa thạch sinh vật biển thời tiền sử đến các hiện vật đời nhà Thanh, với các tủ kính trưng bày thứ gì đó trông như mấy cục đá. Nhìn kỹ hơn, chúng là mấy cục đá với dòng chú thích bằng thứ tiếng Anh không thể nào hiểu nổi: Whetstone appearing from Haogang shell mound remains. (Đá mài xuất hiện từ di chỉ gò vỏ sò (?) Hào Cương). Một cảnh nổi khổ lớn bằng cả căn phòng với hình các thợ dệt nữ minh họa nghề thủ công truyền thống ở Đông Quản thuở trước. Một cuộn băng tiếng dập khung cửi phát đi phát lại ám ảnh tôi suốt các gian phòng.
Nhiều đống đá hơn nữa được bày tiếp theo, sau đó lịch sử đột nhiên lao vọt về phía trước với sự chính xác đến đáng ngạc nhiên.Dân số tăng lên và đạt 150.378 người vào năm Thiên Thuận thứ sáu triều Minh (1462). Chợ búa được xây dựng, ngành sản xuất muối phát triển rực rỡ, nông nghiệp thịnh vượng. Trong một căn phòng lớn, một cái cây giả rủ bóng xuống một cái hồ giả, một con thuyền giả, một cái cầu cạn vòm cuốn giả, ba con ngỗng giả và hai con vịt cũng giả nốt. Tiếng quạc quạc vang lên không dứt.
Còn một khó khăn khác nữa trong việc kể về quá khứ. Mọi nơi đều phải phản ánh tính liên tục của năm ngàn năm lịch sử Trung Quốc, nhưng ở hầu hết mọi nơi, có rất ít thứ được ghi chép lại và chẳng có gì cụ thể còn lại cả. Các mẫu vật có giá trị đã được yêu cầu chuyển về Bắc Kinh hoặc mất mát trong chiến tranh cũng như những cuộc vận động chính trị, vì vậy các nhà bảo tàng buộc phải tự sáng tác ra phần còn lại. Họ đúc súng thần công, chuông và các bộ giáp giả, rồi in những văn bản cũ lên các tấm formica và treo lên tường. Cảnh nổi ba chiều ở khắp nơi trong phòng - một kiểu trưng bày được ưa thích, có lẽ bởi vì chúng chiếm rất nhiều không gian. Những mẫu vật gần như là duy nhất ở bảo tàng Đông Quản chính là các đống đá.
Đến khi lịch sử cận hiện đại bắt đầu bằng cuộc Chiến tranh Nha phiến thế kỷ mười chín, mọi chuyện thật sự trở nên khó hiểu. Một mẫu trưng bày có tiêu đề “Phẫn nộ chống lại quân Anh” gồm có ma nơ canh các sĩ quan hải quân Anh và một viên quan triều đình Trung Quốc có vẻ mặt giận dữ. Thất bại trong cuộc Chiến tranh Nha phiến luôn luôn là một nỗi nhục, là nỗi đau sâu sắc với Trung Quốc. Nhưng có lẽ không thể dồn được đủ nỗi phẫn uất cần thiết để chống lại người Anh trong một thành phố thương mại phồn vinh, cho nên mẫu trưng bày tiếp theo đã chuyển sang cung bậc tình cảm khác. Năm 1878, thống đốc Hồng Kông cho thành lập Bảo lương cục(7) để bảo vệ phụ nữ và trẻ em Trung Quốc. Vật trưng bày lướt nhanh qua Chiến tranh thế giới thứ hai và thẳng tiến đến thắng lợi của Cộng sản, một tấm ảnh mờ mờ đầy những gương mặt hạnh phúc. Hàng triệu con người hân hoan vì được giải phóng.
(7) Tiếng Anh trong nguyên bản: Inferior Protection Bureau. Còn gọi là: Po Leung Kuk (Bảo lương cục), hoặc Society for the Protection of Women and Children; một tổ chức xã hội để ngăn ngừa việc bắt cóc.
Một tấm bảng có đèn trưng bày những tấm ảnh đại hội Đảng Cộng sản mà tại đó Đặng Tiểu Bình đã đề ra chương trình cải cách kinh tế và mở cửa đối với phương Tây. Đó là năm 1978. Từ phòng nọ đến phòng kia, triển lãm đã nhảy cóc ba mươi năm, bỏ qua sự thành lập nước Trung Quốc Cộng sản, cải cách ruộng đất và các hoạt động thanh trừng những kẻ phản cách mạng, công kích “kẻ thù giai cấp” và sự thành lập các công xã, công cuộc Đại Nhảy Vọt và nạn đói đã giết chết ít nhất là hai mươi triệu người, và cả một thập kỷ Cách mạng Văn hóa.
Tôi ra khỏi khu Lịch sử, đi vào khu Kinh tế, triển lãm trở nên sống động. Một cảnh ba chiều lớn thể hiện nhà máy túi xách Thái Bình với bốn người phụ nữ khom người xuống bàn khâu giày. Một hình mẫu của cơ quan công quyền nơi người ta đến xin giấy phép kinh doanh đặc tả hình ảnh quen thuộc của Người Đông Quản: một doanh nhân bụng phệ xách cặp táp giả da. Lịch sử tăng tốc - Nhiều thập kỷ trôi qua trong nháy mắt - và những tấm ảnh khổng lồ chụp cầu vượt bắc qua đường cao tốc, các nhà máy xử lý nước thải và những hội thảo đầu tư.
CÁC VÒNG TỐT LÀNH(8) GỒM
ĐẦU VÀO - ĐẦU RA - ĐẦU VÀO
THỊ XÃ ĐẦU TIÊN CÓ MỘT TRIỆU THUÊ BAO DI ĐỘNG
XÂY DỰNG ĐƯỜNG SÁ, CẦU CỐNG VÀ NHÀ MÁY ĐIỆN ĐỂ TẠO RA NGUỒN VỐN CHO NHIỀU ĐƯỜNG SÁ, CẦU CỐNG VÀ NHÀ MÁY ĐIỆN HƠN NỮA
(8) Nguyên văn: benign circle. Đối nghĩa với vicious circle (cái vòng luẩn quẩn).
Một gian trưng bày tương tác thể hiện GDP, kim ngạch xuất khẩu, cân bằng thu chi và khoản thu từ thuế của thành phố. Mẫu trưng bày cuối cùng là một tấm ảnh buổi lễ ký kết công nhận Trung Quốc đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2001.
MỘT THỜI ĐẠI MỚI ĐANG ĐẾN!
KHI TÔI RỜI KHỎI BẢO TÀNG, các em học sinh lớp ba và lớp bốn trong giờ ngoại khóa đang chen chúc xếp hàng ở sảnh lớn. Các em mặc quần thể thao đồng phục và đeo khăn quàng đỏ của đội viên Thiếu niên Tiền phong trên cổ. Hướng dẫn viên của bảo tàng, một phụ nữ trẻ có gương mặt nghiêm nghị và cặp giò khẳng khiu, xách theo một cái loa cầm tay. Tôi chờ đợi được nghe về Chiến tranh Nha phiến và 150 năm ê chề nhục nhã.
“Ở tầng ba, các em sẽ thấy một hình mẫu của thành phố,” cô ta bắt đầu. “Cô muốn tất cả các em tìm ra ngôi nhà của mình trong mô hình này. Các em đều biết hồ Tùng Sơn chứ?”
“Vâng ạ.” Các học sinh đồng thanh đáp.
“Hồ Tùng Sơn là khu công nghiệp công nghệ cao của chúng ta. Khẩu hiệu của Đông Quản là: “Mỗi năm một bước lớn, năm năm một thành phố mới.” Chúng ta đang ở năm thứ ba của kế hoạch ấy rồi đấy.”
Cô ta ngưng lại một chút. “Các em có biết “Xây thành phố, làm đường sá, đổi mới núi đồi, lợi dụng sông ngòi” không?”
Im lặng. Không ai biết câu này.
“Đây là chính sách của thành phố, Đông Quản cũng có một bến cảng mở rộng đón tàu nước ngoài...”
Thế kỷ thứ bảy, hoàng đế Đại Đường lệnh cho các sử quan hoàng gia soạn một bộ biên niên về các triều đại trước. Từ đó, mọi triều đại phong kiến đều viết sử cho triều đại trước mình, sửa đổi hoặc xóa bỏ một số sự thực để hỗ trợ cho chế độ cầm quyền. Từ năm 1949, Đảng Cộng sản cũng làm điều tương tự, giới thiệu về lịch sử cận hiện đại như một cuộc đấu tranh anh hùng chống lại ý chí của thế lực ngoại quốc. Nhưng ở Đông Quản này, quá khứ chứa đựng một bài học khác một cách đáng ngạc nhiên: lịch sử là mở cửa, thị trường và đầu tư nước ngoài. Lịch sử bắt đầu với một nhà máy sản xuất túi xách, và trẻ em phải được thấm nhuần tư tưởng biết trân trọng cơ sở hạ tầng tốt.
Hướng dẫn viên nhắc nhở lũ trẻ hãy trở thành “khách tham quan văn minh,” và các em lớp ba, lớp bốn lại lục tục xếp thành các hàng không được ngay ngắn lắm đi vào khu Lịch sử. Chẳng mấy chốc đại sảnh rộng mênh mông lại vắng tanh vắng ngắt và tôi bị bỏ lại một mình để suy nghĩ về một bảo tàng lịch sử Trung Quốc khác biệt, không hề nhắc một lời nào dến Mao Trạch Đông.