Gái công xưởng - Phần I - Chương 02 phần 2
Trong hơn hai năm sau đó, mỗi tháng tôi ở Đông Quản khoảng một đến hai tuần. Tôi đã quen thân với vài người, và gặp rất nhiều người khác, những người chỉ kể cho tôi nghe chuyện của họ rồi biến mất, giống như hai cô gái ở quảng trường mà tôi sẽ không bao giờ gặp lại nữa. Khả năng chấp nhận rủi ro của những cô gái này thật đáng kinh ngạc. Nếu họ không thích một nhà máy hay ông chủ hoặc đồng nghiệp nào đấy, họ sẽ nhảy việc ngay sang nơi khác và không bao giờ nhìn lại, khi họ kể lại câu chuyện của mình với tôi, có những khoảng trống thời gian không thể giải thích được, những khoảng thời gian ở các nhà máy mà họ không còn nhớ nữa. Bố mẹ họ ở quê nhà chỉ lờ mờ ý thức được rằng con gái mình đang làm gì. Sinh tồn, đối với các nữ công nhân, là một thứ hiện tại trường cửu, có vẻ như giải phóng cho họ rất nhiều, nhưng cũng mang lại khá nhiều phiền não lo âu. Lên thành phố, đồng nghĩa với việc cắt đứt toàn bộ những mối liên hệ mà họ biết trước đây.
Những cô gái trẻ thân thiết với tôi nhất đều có một vài điểm chung: họ hiểu những chi tiết gây xúc động trong câu chuyện của mình và tại sao tôi muốn biết về những điều đó. Tôi nghĩ họ cũng hiểu tôi, nhiều hơn tôi mong đợi. Tôi đến từ nước Mỹ và tôi đã học đại học; về học vấn và tầng lớp, tôi cách xa họ cả triệu dặm đường. Nhưng tôi biết thế nào là ở một mình, là một người đàn bà đơn độc trong thành phố. Tôi cũng bị đám đàn ông Trung Quốc quấy rối, bị công an quát tháo, bị đám tài xế xe buýt lừa gạt; tôi cũng có những vấn đề nan giải về bạn trai và bố mẹ lo lắng rằng tôi vẫn còn độc thân. Khi tôi lấy chồng vào mùa xuân năm 2006, một trong những phụ nữ di trú biết rõ về tôi nhất đã làm tôi hết sức ngạc nhiên. “Mẹ chị hẳn là phải hạnh phúc lắm” là điều đầu tiên cô nói. “Tôi có cảm giác bà ấy là một người Trung Quốc kiểu truyền thống.”
Có lẽ liên kết chắc chắn nhất giữa tôi và các cô gái là một điều mà họ không bao giờ biết: tôi cũng đã ra đi khỏi mái nhà mình. Sau khi tốt nghiệp đại học ở Mỹ, tôi chuyển đến Prague, Tiệp Khắc cũ. Tổng cộng tôi đã sống ở nước ngoài mười lăm năm, một hai năm lại về thăm gia đình một lần, giống như những người di trú ở đây. Trong một thời gian dài, tôi đã cưỡng lại sức hút của Trung Quốc. Ở trường đại học, tôi lảng tránh các tổ chức của người Mỹ gốc Hoa và chỉ tham gia một khóa học tiếng Trung; tôi học chuyên ngành lịch sử và văn học Mỹ, viết luận văn tốt nghiệp đại học về tiểu thuyết chủ đề Miền Tây nước Mỹ của Larry McMutry. Ở Prague, tôi viết về chính trị và xã hội Tiệp cho một tờ báo của những người xa xứ. Một ngày mùa đông năm 1992, một cặp vợ chồng người Trung Quốc kéo lê những chiếc va li của họ trên vỉa hè lấm bùn hỏi đường tôi bằng tiếng Trung phổ thông. Tôi lặng mất một lúc lâu mới trả lời, một cách bực dọc, bằng thứ tiếng của họ - như thể họ buộc tôi phải trở lại với cái thế giới mà tôi đã bỏ lại phía sau.
Mới đầu, sự hấp dẫn của Trung Quốc đối với tôi khá thực dụng - đầu những năm 90 của thế kỷ trước, nền kinh tế phát triển bùng nổ của đất nước này bắt đầu thu hút sự chú ý của toàn cầu, tiếng Trung lưu loát của tôi bỗng nhiên trở thành một tài sản quý giá. Tôi đến Hồng Kông năm 1993 làm phóng viên cho tờ Wall Street Journalvà bắt đầu đọc sách về lịch sử Trung Quốc lần đầu tiên, loại bỏ hết mọi thứ khác; đối với tôi, Trung Quốc luôn luôn mang lại cảm giác như một bài kiểm tra mà tôi lơ là không học. Khi tôi chuyển đến Đài Loan hai năm sau đó, người ở đây thường xuyên hỏi tôi rằng tôi xuất khứ, tôi ra đi sang Mỹ năm nào - họ ngầm mặc định rằng mọi người trên đời này đều là người Hoa hết. Sau đó, khi thuyên chuyển đến Trung Quốc, tôi vẫn thường xuyên nghe những câu hỏi tương tự. Đó là một trong những phương diện mà Trung Quốc và Đài Loan, về mặt hình thức thì vẫn còn đang chiến tranh với nhau cho đến tận gần đây, giống nhau hơn là họ nghĩ.
Một trong những điều đầu tiên hầu hết người Mỹ gốc Hoa nào cũng làm khi họ tới Trung Quốc là đến thăm quê hương của tổ tiên, nhưng tôi đã sống ở Hồng Kông, Đài Loan và Trung Quốc mười hai năm mà không thực hiện chuyến đi đó. Tôi lo rằng mình chưa sẵn sàng để hiểu những gì mình tìm thấy ở ngôi làng quê hương, trong sâu thẳm, tôi sợ rằng điều đó sẽ chẳng có ý nghĩa gì hết. Bằng cách này hay cách khác, tôi hiểu được các nữ công nhân khi họ nói lên cảm xúc phức tạp của mình đối với quê nhà.
NHỮNG PHỤ NỮ TRẺ đến từ các miền quê dạy cho tôi về thành phố. Nhờ họ, tôi biết được nhà máy nào đang hoạt động tốt; không cần phải rời khỏi Đông Quản một lần nào, những công nhân này cũng hiểu được thứ bậc của các quốc gia trên thế giới. Các ông chủ Mỹ và châu Âu đối xử với công nhân tốt nhất, tiếp đó là Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông và sau nữa là những ông chủ nhà máy đến từ Đài Loan. Các nhà máy của người Trung Quốc bản địa là tệ nhất, vì “tất cả bọn họ đều phá sản hết” một người di trú giải thích với tôi. Họ cũng biết khi nào các chính sách lớn sắp có sự thay đổi - đầu năm 2005, một số công nhân nói với tôi mức lương tối thiểu sẽ tăng lên, trước khi điều đó được công bố chính thức.
Rất nhiều điều tôi đọc về người di trú ở Trung Quốc trước đó không đúng sự thật. Họ không còn sống trong nỗi sợ bị công an bắt mà thay vào đó, nhà chức trách đơn giản là lờ họ đi. Chuyện họ bị người địa phương kỳ thị cũng không thực sự là một vấn đề, vì người di trú hầu như không bao giờ chạm trán với người địa phương cả. Và tôi cũng lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng mức độ thay đối việc làm ở đây rất cao. Hầu hết những người ở nấc cao hơn trong các nhà máy mà tôi gặp mặt đều bắt đầu từ dây chuyền lắp ráp. Các cô gái tôi quen biết không có vẻ như là đã được định sẵn sẽ trở về với ruộng đồng, vì họ chưa bao giờ làm ruộng cả. Họ thường không biết gia đình mình có bao nhiêu đất hay khi nào thì mùa vụ bắt đầu. Suy nghĩ ngầm định này của tôi bắt nguồn từ những nghiên cứu về người di trú ở Trung Quốc được hoàn thành vào khoảng giữa thập kỷ 90; gần một thập kỷ sau đó, thế giới này đã hoàn toàn thay đổi, nhưng nhiều thứ diễn ra quá nhanh để có thể kịp ghi chép lại.
Tôi bắt đầu thấy thích Đông Quản, thành phố có vẻ như là một biểu hiện tai quái nhất của Trung Quốc: Chủ nghĩa vật chất, môi trường bị hủy hoại, tham nhũng, giao thông, ô nhiễm, tiếng ồn, nạn mại dâm, lái xe ẩu, suy nghĩ thiển cận, stress, vật lộn, và hỗn loạn. Nếu sống được ở đây, bạn có thể sống được ở bất cứ nơi đâu. Tôi đã cố gắng hòa nhập hết mức có thể. Tôi ăn những bát mì hai mươi lăm xu(6) cho bữa trưa và đi khắp nơi bằng xe buýt. Tôi mặc đồ vải jean và đi dép xăng đan, giản dị hơn rất nhiều cô gái di trú đến đây, họ mặc áo sơ mi thêu diềm trang trí và đi giày cao gót khi ra ngoài. Tôi trở nên vô hình ở Đông Quản và tôi cũng thích điều đó. Ở những nơi khác: trên đất nước Trung Quốc này, một người nhìn chằm chằm vào người lạ và ghi ghi chép chép các thứ trong một cuốn sổ sẽ thu hút sự chú ý; ở đây, mọi người đều quá tập trung vào các mối quan hệ của bản thân nên không để ý đến tôi. Chỉ một lần duy nhất có người đến làm phiền: tôi đang đứng trong hội chợ việc làm, chép lại hướng dẫn trong một quảng cáo trên tường. Một người bảo vệ bước lại hỏi xem tôi đang làm gì. Tôi nói mình đang luyện tiếng Anh, vậy là anh ta liền để tôi yên.
(6) 25 xu Mỹ tương đương 2 nhân dân tệ.
Đông Quản là một thành phố vô hình với thế giới bên ngoài. Hầu hết các bạn của tôi ở Bắc Kinh đã đi qua thành phố này nhưng tất cả những gì họ nhớ được - với một cái nhún vai - là các nhà máy kéo dài vô tận và những cô gái mại dâm. Tôi đã tình cờ tìm thấy thế giới bí mật này, thế giới mà tôi chia sẻ với bảy triệu, hoặc tám triệu, hoặc thậm chí là mười triệu con người khác. Sống ở Đông Quản giống như là đến đây lần đầu tiên, lao vút đi bảy mươi dặm một giờ trên đường vậy, cảnh vật thay đổi quá nhanh để có thể ghi nhớ chút gì. Đông Quản là vùng đất không có ký ức.
***
Đông Quản đồng thời là một thành phố của những đối nghịch, bởi lịch sử Trung Hoa hiện đại đã bắt đầu ở đây. Vào thế kỹ mười chín, thuốc phiện nhập lậu của người Anh hủy hoại đất nước và rút cạn quốc khố. Mùa hè năm 1839, đại thần Lâm Tắc Từ của triều đình Mãn Thanh đã ra lệnh công khai thiêu hủy hai mươi nghìn thùng thuốc phiện tại bến cảng Hổ Môn, một thị trấn ở Đông Quản. Hành động ấy khiến hai quốc gia bước vào cuộc Chiến tranh Nha phiên lần thứ nhất, xảy ra ở Quảng Đông và nhanh chóng kết thúc khi tàu chiến Anh đè bẹp lực lượng quân đội Trung Hoa. Hiệp ước Nam Kinh đã cắt Hồng Kông cho nước Anh, buộc triều đình phải mở cửa các cảng Trung Quốc cho thương mại quốc tế, cho các quốc gia khác đặc quyền thương mại và pháp lý xưa nay chưa từng có trên lãnh thổ Trung Quốc. Trong các bài lịch sử được dạy ở trường học Trung Quốc, ngọn lửa đốt thuốc phiện ở Hổ Môn đã nhóm lên thời kỳ hiện đại: khuất phục trước sức mạnh của nước ngoài, theo đó là sự sụp đổ của triều đình Mãn Thanh, cách mạng, chiến tranh và chiến thắng của Đảng Cộng sản năm 1949.
Nhưng nơi này còn có một lịch sử khác. Mùa thu năm 1978, hãng túi xách Thái Bình của Hồng Kông đã mở nhà máy tại nước ngoài đầu tiên ở Đông Quản. Thu nhập trong năm hoạt động đầu tiên là một triệu đô la Hồng Kông. Nhà máy này xử lý các nguyên vật liệu nhập từ Hồng Kông, biến chúng thành thành phẩm, sau đó sẽ được vận chuyển trở về Hồng Kông để bán đi khắp thế giới. Nó đã tạo ra hình mẫu cho hàng ngàn nhà máy khác học theo. Hơn hai năm sau đó, Trung Quốc thành lập bốn “đặc khu kinh tế” làm nơi thử nghiệm cho các chính sách tự do kinh tế như đầu tư nước ngoài và ưu đãi thuế. Đặc khu lớn nhất là Thâm Quyến, cách Đông Quản năm mươi dặm về phía Nam, nó nhanh chóng trở thành biểu tượng của một guồng quay Trung Quốc sẵn sàng rộng mở cho việc kinh doanh. Thâm Quyến là một thành phố kiểu mẫu được hoạch định, được các lãnh đạo ở Bắc Kinh quyết định cho ra đời và được các bộ ngành cùng những công ty bên dưới hỗ trợ.
Đông Quản thì khác. Thành phố này mọc lên chẳng theo một sắc lệnh của bất cứ ai, đơn giản là cứ mọc lên mà thôi. Khi Thâm Quyến đặt mục tiêu vào công nghệ tiên tiến và đổi mới, thì Đông Quản nhận lấy những gì có thể, nghĩa là thu nhận các nhà máy kỹ thuật lạc hậu từ Hồng Kông và Đài Loan sản xuất quần áo, đồ chơi và giày dép. Tất cả những gì họ cần chỉ là giá đất và lao động rẻ mạt, cũng như chính quyền địa phương để cho họ yên. Thứ họ xây dựng ở đây vào thuở ban đầu không thể gọi là công nghiệp hiện đại được. Rất nhiều nhà máy vào thời kỳ ấy chỉ là những ngôi nhà hai hay ba tầng, nơi các công nhân ngồi ở bàn, năm chục người một phòng, cắm cúi thực hiện các tác vụ đơn giản như khâu vỏ cho thú nhồi bông hay gắn tóc giả cho búp bê. Một số nhà máy chỉ là những gian nhà tạm bợ bằng kim loại tấm, vì chủ nhân của chúng không muốn phải tốn tiền cho những tòa nhà tử tế.
Trong những ngày đầu, tuyến xe lửa từ Hồng Kông còn chưa mở. Các doanh nhân đi tới biên giới giữa thuộc địa Anh và Thâm Quyến, đi bộ qua, và bắt taxi đến nhà máy của họ tại Đông Quản ở phía bên kia, trên đường đi qua các cánh đồng. “Ở đây không có đường, không có ô tô, không có ti vi, thậm chí cả cái rèm cũng không có nốt,” Allen Lee, cán bộ quản lý ngành công nghiệp sản xuất giày Đài Loan, đã chuyển đến thành phố năm 1989 nhớ lại. “Người ta không thể mua những thứ đó ở đây được.” Tháng Sáu năm 1989, ông ta đã phải đạp xe bốn mươi phút để xem tin tức trên ti vi về vụ bắn giết những người chống đối ở Quảng trường Thiên An Môn.
Nguồn cung cấp lao động địa phương nhanh chóng cạn kiệt nên người di trú bắt đầu đến từ các tỉnh lân cận. Lâm Tuyết, người phụ nữ viết bài cho một tạp chí dành cho người di trú mà tôi quen biết, đã đến Đông Quản từ miền quê Tứ Xuyên vào năm 1990. “Chúng tôi đến đây mà chẳng biết gì cả,” cô nói với tôi. “Tôi đến gặp ai đó bán vé và hỏi: “Tôi nên mua vé đi đâu bây giờ?” và chúng tôi làm theo những gì họ nói.” Lâm Tuyết tìm được một công việc trong nhà máy với mức lương bảy mươi nhân dân tệ một tháng, còn em gái cô làm công việc ép gỗ dán trong một xưởng gỗ.
Những năm 1990, sản xuất chính của thành phố chuyển sang đồ điện tử và linh kiện máy tính. Ngày nay Đông Quản sản xuất ra 40 phần trăm đầu tư dùng trong máy tính cá nhân và 30 phần trăm ổ cứng trên toàn thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình trong hơn hai thập kỷ qua khoảng trên 15 phần trăm một năm. Nhưng có một số điều vẫn không thay đổi. Người di trú vẫn tiếp tục đến. Các nhà máy đòi hỏi nhiều nhân công vẫn thống trị. Mặc dù các sản phẩm đã trở nên tinh vi phức tạp hơn nhiều, bản thân công việc vẫn không hề khác, vẫn còn rất nhiều tòa nhà kiểu căn hộ, nơi công nhân ngồi ở bàn cắm cúi vào những tác vụ thủ công đơn giản.
Vậy, Đông Quản là một vùng đất có các phiên bản hoàn toàn trái ngược nhau trong quá khứ - một phiên bản cương quyết phản đối sự hiện diện của người nước ngoài ở Trung Quốc, một phiên bản kia lại lẳng lặng nhiệt tình đón tiếp. Mọi học sinh Trung Quốc đều học về sự kiện đốt thuốc phiện. Nhưng từ Nhà máy túi xách Thái Bình, thứ chẳng xuất hiện trong bất cứ cuốn sách giáo khoa nào, tôi có thể vạch một đường thẳng đến bất cứ người nào tôi từng gặp ở Đông Quản, từ những lao động di trú học cách sử dụng Microsoft Word đến những chuyên gia tự học hoặc đến đại diện bán hàng của hãng Mercedes, người đã kể cho tôi rằng hai loại xe đắt nhất, S-Class và E-Class, bán chạy nhất ở thành phố này, bởi vì “đây là sản phẩm tốt dành cho những ông chủ muốn nâng tầm hình ảnh của mình.” Đối với tất cả họ, lịch sử hiện đại bắt đầu từ nhà máy sản xuất túi xách.
* * *
Tôi đã ở đây vài tháng mà không gặp một người Đông Quản gốc nào. Trong thế giới công xưởng, từ quản lý cấp cao nhất của dây chuyền lắp ráp, là lĩnh vực chỉ toàn dân di trú, cho tới sếp cao nhất đôi khi cũng đến từ Hồng Kông hoặc Đài Loan. Dân địa phương nói tiếng Quảng Đông, nhưng các nhà máy hoạt động chủ yếu bằng tiếng Trung phổ thông, bởi đó là cách duy nhất để người từ những tỉnh khác nhau có thể nói chuyện với nhau. Dân di trú không đánh giá cao dân bản địa cho lắm: dân bản địa là những nông dân thất học, sống bằng cách cho các nhà máy thuê đất nông nghiệp, họ không thể sống sót được một ngày trong môi trường làm việc khắt khe của nhà máy. “Hai bên khinh thường lẫn nhau,” Lâm Tuyết bạn tôi miêu tả mối quan hệ giữa người bản địa và dân di trú.
Sáu tháng sau khi đến Đông Quản lần đầu tiên, tôi đã phỏng vấn phó thị trưởng. Ông ta tên Trương Thuận Quang và là người gốc Đông Quản: người bản địa đầu tiên mà tôi gặp. Chúng tôi ngồi ở phòng tiếp khách lớn trông một tòa nhà công sở, uống trà bằng những cốc giấy bé xíu. Vài tay trợ lý của ông ta tụ tập ở đó, tán chuyện với nhau bằng tiếng Quảng Đông. Tôi chưa bao giờ gặp một người Đông Quản, thì ra tất cả bọn họ đều tập trung ở đây, bên trong chính quyền.
“Chị có nói tiếng Quảng Đông không?” Một tay trợ lý hỏi tôi.
“Xin lỗi, không,” tôi đáp. Chưa ai trong thành phố hỏi tôi một câu tương tự như vậy cả.
“Đây có phải lần đầu tiên chị đến Đông Quản không?”
“Không, tôi đến đây nhiều lần rồi.”
“Ồ, có phải tất cả đều là những chuyến đi bí mật không?”
“Nếu anh không biết về nó thì nó là bí mật à?”
Chúng tôi đã cảm thấy không ưa nhau. Giữa cuộc phỏng vấn, tôi săm soi nhìn tay trợ lý và anh ta cũng nhìn chòng chọc lại tôi. Người phụ nữ trẻ ngồi cạnh anh ta đã lăn ra ngủ. Cụm từ khinh thường lẫn nhau nảy ra trong đầu tôi.
Cuộc phỏng vấn cũng khá hữu dụng: không tận mắt chứng kiến, tôi sẽ không bao giờ tin được rằng chính quyền lờ người di trú đi một cách triệt để tới mức nào. Ngài phó thị trưởng không có nổi con số chính xác về số lượng dân di trú - đó là việc của ủy ban điều tra dân số, không phải việc của cơ quan ông ta. Ông ta thú nhận rằng chính quyền địa phương thiếu nguồn lực để kiểm tra điều kiện trong các công xưởng. “Nếu tôi thanh tra mỗi nhà máy một ngày,” ông ta nói, “tôi sẽ mất năm mươi năm để thanh tra tất cả các nhà máy ở đây. Vì vậy chúng tôi phải trông vào việc tự kiểm soát của các nhà máy.”
Sau đó, ông ta nói về một kế hoạch để “nâng cao chất lượng người dân Đông Quản,” nhưng nỗ lực này không có lợi ích gì cho những người không phải gốc Đông Quản. Giống như tất cả dân thành phố này, ông ta luôn mang một sự coi thường trong suy nghĩ đối với waidiren (ngoại địa nhân), người nơi khác, thuật ngữ thông dụng dành cho dân di trú. “Chất lượng của lao động nhập cư không cao” ông ta nói, “nhưng đấy là trách nhiệm của các công ty. Họ nên tổ chức các lớp học cho công nhân.”
Tôi hỏi ngài phó thị trưởng xem tại sao không có người Đông Quản nào trong các nhà máy, ngay cả ở tầng lớp cao nhất, và ông ta mâu thuẫn với chính những gì mình vừa nói mà không hề thấy ngượng mồm.
“Những người từ nơi khác đến,” ông ta nói, “có chất lượng cao hơn và nhận lương thấp hơn.”
Sau cuộc phỏng vấn, ngài phó thị trưởng bắt tay tôi và khen ngợi hiểu biết của tôi về thành phố. Tôi không nói với ông ta những người cung cấp thông tin của mình đều là các cô gái di trú còn rất trẻ có chất lượng thấp và đồng lương thậm chí còn thấp hơn.
MỘT NĂM SAU KHI ĐẾN THÀNH PHỐ này, tôi thuê một căn hộ đơn ở trung tâm thành phố với giá 160 đô la một tháng. Tòa nhà cao tầng này có tên Đông Quản City Holiday, đối tượng nó nhắm đến là phụ nữ độc thân, các bảng quảng cáo tấm lớn rực rỡ chăng khắp nơi: NHÀ CHO MỘT NGƯỜI, SỰ TRÁNG LỆ CHO MỘT NGƯỜI. Tôi nghĩ mình sẽ gặp các phụ nữ trẻ và nghe họ kể chuyện, nhưng không ai nói một lời nào với tôi trong hành lang và thang máy, và tôi không bao giờ thấy một người nào trong phòng công cộng. Mọi người quá bận rộn với cuộc sống của riêng mình nên chẳng buồn lo chuyện của người khác. Tôi nhận được hầu hết các tin tức từ bảng thông báo trong khu căn hộ, khắc họa một cộng đồng toàn tội phạm vặt vãnh và việc xây dựng diễn ra suốt ngày đêm.
VÌ SỰ YÊN TĨNH CỦA CÁC HỘ DÂN, VIỆC SỬA CHỮA SẼ TẠM DỪNG VÀO NGÀY 1 THÁNG MỘT VÀ SẼ TIẾP TỤC VÀO NGÀY 2 THÁNG MỘT.
KHI CÓ NGƯỜI GÕ CỬA NHÀ, KHÔNG NÊN MỞ CỬA NGAY TRƯỚC KHI XÁC ĐỊNH ĐƯỢC NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI ĐÓ.
AI CÓ THÔNG TIN VỀ BẢNG TRỘM Ở KHU NAMTHÀNH HÃY BÁO NGAY VỚI CẢNH SÁT.
Chủ nhà của tôi chuyển đến thành phố từ vùng nông thôn Quảng Đông từ nhiều năm trước. Chị ta thường xuất hiện trước căn hộ của tôi trong bộ pyjama hồng và dép lê đi trong nhà để thu tiền, có lần tôi đã nghe thấy chị ta hét “mả mẹ nhà anh” vào điện thoại với chồng mình vì anh ta vừa bảo sẽ trở về muộn sau chuyến công tác. Chị ta làm nhân viên bán hàng ca đêm ở một khách sạn. Tôi băn khoăn không hiểu chị ta bán loại hàng gì mà phải làm từ nửa đêm đến sáu giờ sáng như thế, nhưng tôi không bao giờ đủ dũng khí để hỏi. Bà chủ nhà luôn có cách để chuyển hướng các câu hỏi.
“Làm sao chị có được hai đứa con thế?” Một lần tôi hỏi chị ta. Hầu hết các gia đình ở thành thị đều bị giới hạn chỉ có một con.
“Làm sao cô lại nghĩ tôi có hai đứa con?” Chị ta đáp.
Môi trường buôn bán bên ngoài căn hộ của tôi luôn luôn thay đổi. Vào hôm chuyển đến, tôi đã rất hưng phấn khi thấy một tấm biển PIZZA LÒ GẠCH bên cạnh lối vào tòa nhà, một hương vị dễ chịu của quê nhà. Lần tiếp theo, tấm biển đó đã chuyển thành SIÊU THỊ ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG ĐẠI CHÍ. Đúng là những gì Trung Quốc cần: một cửa hàng bán diện thoại di dộng khác. Trong hai tuần tiếp sau đó, không gian bên dưới căn hộ của tôi biến đổi từ căn phòng trống với dây điện nhỏ lòng thòng trên trần thành một cửa hàng điện thoại di động hoạt động hết công suất, với những người bán hàng trông như người máy và tiếng nhạc phát ra từ những chiếc loa khổng lồ hướng về phía bãi đỗ xe vắng tanh. Vào hôm tiếp theo, công tác tiếp thị đã bắt đầu, một cô gái trẻ đứng ở cửa vào và đọc tên các đời máy và giá bán vào microphone, hết loại này đến loại khác. Một tấm biển khác hiện lên phía trước tòa nhà tôi ở: CÓ CỬA HÀNG KFC Ở CẠNH NHÀ BẠN! LỢI NHUẬN 8% HÀNG NĂM MÀ KHÔNG PHẢI LÀM BẤT CỨ ĐlỀU GÌ. Tôi không thích thú lắm với việc có một cửa hàng KFC ở cạnh nhà mình. Thứ bất biến duy nhất trong khu này là nhà máy Nescafé ở bên kia đường. Vào những ngày hè, mùi cà phê bọc kín lấy tôi ngay khi bước ra ngoài, một trận tắm ấm áp cả ngọt lẫn đắng.
Khi sống ở Bắc Kinh, bạn bị che đậy khỏi rất nhiều thứ, nhưng ở các thành phố xa trung tâm bạn có thể thấy cận cảnh khuynh hướng của sự phát triển ở Trung Quốc. Xe buýt công cộng thường xuyên rẽ khỏi lộ tuyến cố định để đổ thêm nhiên liệu, thiếu xăng dầu là chuyện rất thường tình, vì vậy trạm xăng nào cũng đáng dừng lại ngay cả khi trên xe có đầy khách. Mất điện cả ngày là chuyện thường xuyên xảy ra, và các nhà máy phải sắp xếp lại lịch sản xuất vì chính quyền phân phối điện theo định mức. Trong các thông báo trên tấm bảng ở khu nhà tôi ở, có một cái không bao giờ thay đổi: ĐƯỜNG DÂY TRỤC CUNG ỨNG ĐIỆN CÁP HIỆN TẠI KHÔNG THỂ THEO KỊP NHU CẦU PHÁT TRIỂN VÀ PHẢI THAY THẾ.
Suốt mùa hè năm 2005, mỗi chuyến đi đến Đông Quản của tôi đều gặp phải ít nhất một ngày không có điện. Nếu được thông báo trước, tôi sẽ sắp xếp lại kế hoạch, nhưng nhiều khi điện bị cắt mà không có một lời cảnh báo, buộc tôi phải ở trong nhà cả ngày trong cái nóng 32 độ C và di chuyển càng ít càng tốt. Tôi bèn gọi điện cho phòng quản lý tòa nhà, trút cơn giận dữ, nhưng đó không phải lỗi của họ. Không phải lỗi của bất cứ ai. Nền kinh tế Trung Quốc phát triển mười phần trăm mỗi năm, ở miền Nam còn nhanh hơn thế, nên chỉ có phép màu mới khiến mọi thứ có thể gắn kết như chúng đã từng.
* * *