Lê Vân - Yêu và sống - Chương 08 phần 1

8

… chỉ tại ông Trương Nghệ Mưu.

Năm
1979, làm phim Những Con Đường với cụ Nông Ích Đạt về, xem nháp thấy
mình ngớ ngẩn quá, bù lại, tôi có một niềm vui lớn: được hai cụ nhận làm
con gái nuôi. Vì không con, lại thấy tôi hiền lành nên hai cụ đem lòng
quí mến. Các cụ lên nhà, gặp bố mẹ nói: “Chúng tôi muốn nhận nó làm con
nuôi, gọi là con thế thôi, chứ chúng tôi nuôi gì được nó”.

Dù cụ
bà bị bệnh tim nặng, cụ ông cũng chẳng khỏe khoắn gì, lại chẳng biết nấu
nướng, nhưng thỉnh thoảng, đích thân các cụ vẫn nấu món ăn đặc sản quê
hương của hai cụ cho cô con nuôi ăn, đó là món phở chua Cao Bằng. Để nấu
được món này, các cụ phải lích kích chuẩn bị từ hôm trước. Đi đâu các
cụ cũng kể, tôi là người duy nhất được hưởng cái đặc ân ấy.

Thương
hai cụ không con, lại thương hơn khi nghe chuyện trước đấy, vì bất mãn,
hai cụ rủ nhau quyên sinh, nhưng không chết. Tối hôm trước khi quyên
sinh, các cụ đi chào hỏi suốt lượt hàng xóm, rồi về uống thuốc. Sáng hôm
sau, cụ bà mê mệt như sắp đi, cụ ông thở rất to đến nỗi hàng xóm cũng
nghe thấy. Họ như linh cảm thấy điều chẳng lành, bèn đạp cửa xông vào,
đưa hai cụ đi cấp cứu.

Nghe chuyện thương quá, các cụ cũng yêu quí
tôi, hai bên đi lại chăm sóc nhau. Thỉnh thoảng tôi xuống thăm các cụ.
Đôi khi, cụ ông được cụ bà sai đi chợ, lại đạp xe vòng lên thăm tôi. Rất
tự nhiên, một sợi dây tình cảm nối liền chúng tôi và ngày càng bền
chặt. Đi nước ngoài về, bao giờ tôi cũng cố gắng có chút quà nhỏ tặng
hai cụ. Lần đầu tiên đi Pháp, dành dụm mua được hai chỉ vàng, tôi giữ
cho mình một chỉ, một chỉ biếu hai cụ. Vì trước đó, tôi có hứa, bao giờ
con được đi nước tư bản, nhất định con sẽ biếu bố mẹ một chỉ vàng. Các
cụ rất nghèo, cả tài sản chỉ có một cái sổ tiết kiệm lấy lãi hàng tháng,
phụ thêm vào lương chứ chả biết buôn bán gì. Sau này, một chỉ vàng
chẳng là gì giá trị, nhưng lúc bấy giờ thì quí lắm, hai cụ cứ khoe mãi
với mọi người ở cùng khu tập thể là con gái nuôi biết giữ đúng lời hứa,
biết chia sẻ. Lần khác, đi Đức về, tôi chỉ mua được một chiếc khăn len
màu đen choàng vừa ấm vừa đẹp. Tôi mê màu đen nhưng cụ bà cũng thích,
thế là tôi mang lên tặng mẹ nuôi. Tôi muốn mang lại chút niềm vui ấm áp
cho cuộc đời quá nhiều giá lạnh của hai người.

Cụ Đạt là người
hiền lành, sống chân thành, thật thà cả ngoài đời lẫn trong nghệ thuật.
Xuất thân từ dòng dõi con nhà quyền quí, lại được đào tạo với chuyên gia
nước ngoài từ lớp đạo diễn đầu tiên, cụ Đạt đã có những thành công nhất
định với bộ phim Kim Đồng làm về quê hương rừng núi của cụ. Bộ phim
cũng được ghi nhận bằng một giải thưởng gì đó, nhưng khi xét phong tặng
danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú thì cụ lại không được. Dường như người ta đã
phủi hết công lao đóng góp cho ngành điện ảnh của cụ. Có lẽ vì chán cảnh
không con, đồng lương không đủ sống, lại không được ghi nhận… hai cụ
còn sống làm gì? Thế mà lại không chết được mới khổ chứ!

Một lần
trên xe cùng đoàn phim, tôi hóng hớt nghe thấy ông quay phim và cụ Đạt
nói chuyện với nhau. Cụ Đạt hỏi: “Theo mày, con Vân còn có thể tiếp nối
con đường điện ảnh không?”. Ông quay phim gật gù: “Được, em cho là nó
còn đóng được dăm bảy phim nữa”. Nghe hai người nhận định thế, tôi chỉ
thấy buồn cười, bỏ ngoài tai, nghĩ bụng: “Đóng tiếp hay không là do mình
nữa chứ, mà mình thì đã thề là không muốn đóng nữa rồi, làm gì có
chuyện dăm, bảy phim nữa”.

Hồi đó, thỉnh thoảng được về Hà Nội xem
nháp, tuy không phải dân điện ảnh, nhưng tôi cũng biết mình ngớ ngẩn
lắm, thấy ngượng, tự thề sẽ không bao giờ nhận lời đóng phim nữa. Sau
này, ông quay phim còn nhắc mãi về lời tiên đoán của ông cho nghiệp diễn
của tôi. Chắc lúc nói thế, ông cũng chỉ muốn làm đẹp lòng cụ Đạt thôi,
vì cụ Đạt vẫn tự hào nói: “Con Vân là do tôi phát hiện ra, tôi đưa nó
vào điện ảnh”. Hôm cụ Đạt mất, tôi đi công tác xa, nhưng khi cụ bà ốm,
tôi may mắn còn được chăm sóc cụ trước lúc cụ ra đi. Ngày thay áo các
cụ, tôi đều có mặt. Người con nuôi, hai cụ mang từ Việt Bắc về Hà Nội
sống cùng, đã làm được một việc rất ý nghĩa. Khi cụ ông mất, anh chị mua
ngay một chỗ để hòm tiểu tại nghĩa trang Văn Điến, lại còn mua sẵn luôn
một chỗ nữa dành cho cụ bà. Sau khi thay áo, cụ bà được đưa lên nằm
cạnh cụ ông trên cái kệ xi măng xám ngoét lạnh lẽo tận tầng thứ năm…

Tôi
đau xót nghĩ, nằm lại đây nhé hai nắm xương tàn. Thế là hết một đời
người! Hai bộ hài cốt có hạnh phúc như đã từng mơ ước, hay vẫn còn ấm ức
khôn nguôi cho cõi đời lận đận cô đơn?

***

Còn chưa hết
ngượng với vai diễn đầu tiên của bộ phim đang duyệt nháp, đạo diễn Phạm
Kỳ Nam lại đã mời tôi thử vai cho một phim khác, phim Tự thú trước bình
minh.

Ấn tượng của ông Nam về tôi: “Trời ơi, trông sao mà quê
thế?”. Là dân Tây học ở Pháp về, ông Nam có phong cách hào hoa chau
chuốt cả ngoài đời lẫn trên phim ảnh. Ông chê tôi quê là muốn nói đến
cái khía cạnh hấp dẫn quyến rũ của một cô gái. Thế mà rồi ông vẫn mời.
Ngoặt một cái, tôi phải vào vai một cô tiểu thư con nhà tư sản, khác hẳn
chất cô thanh niên xung phong ngờ nghệch của phim trước.

Hôm đi
thử vai, tôi nghĩ “Đã không thích đóng nữa rồi, mà cứ phải thử”. Nhưng
mọi người ở nhà cứ thúc: “Thôi thì bác ấy đã mời, cứ chịu khó đi thử đi
chứ có mất gì đâu. Được thì được mà chẳng được thì thôi”. Một cách uể
oải, tôi đến nhà riêng của ông Nam ở phố Cao Bá Quát để chụp ảnh thử
vai. Sau này, con trai ông Nam, bằng tuổi tôi, kể lại: “Gớm, sao hồi ấy
bà đến nhà tôi trông bà ngờ nghệch buồn cười thế”. Tôi 21 tuổi, tóc dài,
quần lụa đen, nom quê thật. Thế mà lại được vào vai cô tiểu thư
miền Nam đài các, một vai không định mà lại thành. Lại phải dấn thân
tiếp.

Ba tháng quay ở Nha Trang là ba tháng khắc khoải lo lắng và
mòn mỏi mong ngày về Hà Nội. Lúc đó, tôi vừa mới nhận lời yêu, nhưng cứ
thấy im ắng vì mất liên lạc, ngỡ mình bị bỏ rơi. Nghe nói chưa được về
là òa lên khóc. Trong tiếng khóc ấy còn có cả nỗi hoảng sợ vì bị đạo
diễn Phạm Kỳ Nam “mê”. Chỉ thấy lo lắng chứ chẳng thích thú gì. Không
hiểu sao ông lại lãng mạn thế?

Một lần, tôi được đi theo ông vào
Sài Gòn xem nháp. Đoàn đi gồm chủ nhiệm, đạo diễn, quay phim và tôi.
Những người khác ở lại Nha Trang. Trên đường đi, ông bỗng nhiên đổi cách
xưng hô, nói năng kiểu à ơi, ỡm ờ. Trong khi tôi gọi ông Nam bằng bác
thì ông lại cứ hồn nhiên gọi tôi bằng em và xưng trống không làm tôi
thấy vừa ngại, vừa sợ. Trên xe ô tô có những híc ông cứ làm như vô tình
nắm vào tay tôi, chú Dân quay phim thấy như thế hình như là quá lố nên
chuyển chỗ cho tôi lên ngồi phía trước.

Ở Pháp về, ông lấy vợ toàn
là những người đẹp, diễn viên nổi tiếng. Người vợ đầu của ông từng là
hoa khôi Hà Nội. Bà thứ hai là diễn viên nổi tiếng cũng đẹp lộng lẫy
không kém. Tôi chả là cái gì, có mà xách dép cho mấy bà ấy không đáng,
cho nên, làm gì ông đạo diễn lừng lẫy chả tự tin! Nếu không đủ tự tin,
làm sao ông dám nghĩ đến chuyện tỏ tình cảm với tôi. Có lẽ ông nghĩ, đạo
diễn rất dễ lấy diễn viên chính chăng? Chắc là như thế? Hồi ấy đạo diễn
điện ảnh là một nghề rất danh giá. Và quan trọng là thời điểm đó, ông
đạo diễn đang độc thân.

Trong khi quay phim, ông ra sức chiều
chuộng tôi. Quay xong, về Hà Nội, ông liên tục đến nhà, đến một cách
không bình thường, và nói thẳng với bố mẹ tôi: “Tôi đến xin làm rể đây”.
Với tôi, ông tuyên bố: “Tôi trồng cây si đấy!”.

Bố mẹ phải biến
chuyện ấy thành chuyện đùa. Vì người ta là đàn anh nên chẳng thể phản
ứng một cách phũ phàng. Thế đấy, ông Nam cứ hồn nhiên chẳng một chút e
ngại thất bại, có lẽ vì ông từng thành công với toàn những người đẹp vai
chính rồi chăng?

Chẳng được học hành gì về điện ảnh. tôi hoàn
toàn phải dựa vào bản năng của mình để đối phó với các tình huống trên
trường quay. Trong hoàn cảnh ấy, với lời thoại ấy, tôi phải nhập vào
nhân vật để hóa thân. Không còn cảm giác bị “đẩy xe bò” nữa. Với những
diễn viên không nhạy cảm, đạo diễn rất vất vả để đẩy cảm xúc của họ lên.
Rất may, tôi lại sẵn có sự nhạy cảm đó. Với lại, sau khi xem phim thứ
nhất tôi đã thấy tiết tấu của mình là quá chậm, quá ngờ nghệch. Đến phim
này, đã có kinh nghiệm rồi, tôi tự làm là chủ yếu.

Tôi luôn nhận
được sự khích lệ từ đạo diễn ngay từ lúc đóng thử. Ông tỏ ra hài lòng
hơn cái mức mà tôi chờ đợi. Ông nhận xét, ở tôi có một nét gì đó giống
Natasa trong phim Chiến tranh và Hòa bình. Vì vai đầu tiên trên màn ảnh
của tôi là vai một cô diễn viên múa chẳng phải nói gì, chỉ múa một chút
thôi. Cô hóa trang đã cột mái tóc của tôi lên để lộ cái cổ balet trông
rất quí tộc, cái miệng lại hơi dầy dầy, thế là tôi thành giống cô diễn
viên Nga. Đến phim này, ông lại bảo tôi giống cô diễn viên đóng trong
phim Doctor Zhivago. Ông cứ liên tưởng như thế, có lẽ là “cảm” mình rồi
hay sao nên cứ lãng mạn hóa tất cả.

Sau này, nghe tin đạo diễn
Phạm Kỳ Nam chết cô độc ở Đồn Đất, một cơ sở của Hãng phim truyện ở
miền Nam. Ông chết hồi đêm mà không ai hay biết. Nghe đồn, lúc đó, ông
đang trong mối tình với một cô ca sĩ Sài Gòn và người ta tìm thấy những
vỏ thuốc lăn lóc còn lại quanh chỗ ông nằm…

Giờ chỉ còn là kỷ niệm. Người đạo diễn thứ hai của tôi đã ra đi, cầu cho linh hồn ông được thanh thản.

***

Khi
được mời làm vai chị Dậu của đạo diễn Phạm Văn Khoa, tôi cũng rất
“khủng khỉnh”. Chẳng phải tôi kiêu kỳ cao giá gì, đơn giản vì kế hoạch
của đoàn làm phim có mâu thuẫn với kế hoạch riêng của tôi. Tôi đề nghị
lùi ngày quay lại cho trùng với đợt nghỉ phép. Cả một đoàn phim phải lùi
lại chờ thì rất sốt ruột, họ quyết định không chờ nữa. Tôi cũng bảo:
“Không chờ được thì cháu cũng đành thôi vậy”. Nhưng mà nào có thôi được
đâu?

Cụ Khoa trả lời báo chí, cụ đã ấp ủ làm phim Chị Dậu từ lâu
nhưng vì không tìm được diễn viên chính, nên thôi. Bẵng đi, mãi đến mười
năm sau, cụ lại nhớ đến, vẫn muốn làm, và cụ lại đi tìm chị Dậu. Tìm cả
trong ngành, ngoài ngành, nhưng vẫn không tìm ra một gương mặt thật
Việt Nam.

Lúc ấy, sau bộ phim Những con đường mà tôi phát ngượng,
hóa ra lại được một điều, nó lưu lại một gương mặt mộc mạc hiền hậu, rất
Việt Nam. Sau mấy phim, giới trong nghề nhận xét, ở tôi toát ra một nét
đẹp tiềm ẩn của người đàn bà Việt Nam, đặc biệt là người phụ nữ nông
thôn vùng Bắc bộ.

Tìm mãi không được, họa sĩ Đào Đức, người đã đi
với tôi phim Đất Mẹ của đạo diễn Hải Ninh; nam diễn viên Anh Thái, người
từng làm thư ký phim Những con đường và sẽ đóng vai chồng chị Dậu và cô
hóa trang Anh Thư, người đã hóa trang cho tôi một hai phim nào đó…, cả
ba người ấy xúm lại nói: “Sao anh không thử con Vân nhà ông Tiến nhỉ?”.
Cụ Phạm Văn Khoa gạt phăng đi: “Nó trẻ thế, đẻ ra giữa Hà Nội thì chị
Dậu cái gì”. Mọi người bảo: “Anh nhầm rồi, nó Hà Nội 100% nhưng trên
phim trông nó rất nông thôn Việt Nam, nó làm được đấy. Anh cứ thử đi, có
mất gì nào”.

Cuối cùng, tôi được mời thử vai chị Dậu. Thử thì
thử, nhưng trong lòng tôi nghĩ: “Làm sao mình có thể vào được cái vai
ấy, một người đàn bà nông thôn nhếch nhác, bất hạnh như thế, mình có vận
dụng hết bản năng ra chắc cũng khó”.

Riêng vai chị Dậu phải quay
thử chứ không chỉ chụp ảnh hay phỏng vấn. Tôi phải diễn thử cảnh Chị Dậu
đi bán con mà không có con, cũng không có Nghị Quế để tạo cảm xúc, chỉ
có máy quay trước mặt.

Hoá trang mặt xong, nhìn trong gương, tôi
chẳng thấy mình giống chị Dậu tí nào, chẳng thấy “động đậy” một tí chị
Dậu nào ở trong người cả, cũng thấy run. Rồi chị phục trang mang ra nào
váy đụp váy xòe, áo nâu vá chằng vá chịt, rách như tổ đỉa. Rồi họ bắt
đầu độn người mình lên, với ba tầng mút, tôi thoắt cái có một bộ ngực đồ
sộ xộc xệch ngất ngưởng, cái mông cũng phải độn bằng một cái quần bồng
lồng mút, (sau mỗi lần nghỉ quay, tôi thường ngồi phệt xuống đất, cảm
giác êm ái như ngồi salon). Cuối cùng, trùm cái váy tổ đỉa ra ngoài, cắp
cái thúng, tôi đi bộ từ phòng hóa trang trên con đường đá rẽ trái vào
phòng quay thử của xưởng phim…

Chỉ qua một đoạn đường ngắn ngủi đó
thôi, tôi đã tự biến mình thành chị Dậu từ trong ra ngoài lúc nào không
hay, đến nỗi cụ Khoa bảo tắt máy, tôi vẫn không ngừng lại được. Cứ như
là bị một thứ bùa mê gì đó không thoát ra được. Cả đoàn thở phào: “Chị
Dậu đây rồi, không phải tìm nữa!”. Trước tôi, họ cũng thử nhiều người
rồi nhưng đều thất bại. Tôi biết, tôi được một lợi thế là nhập vai hóa
thân rất nhanh.

Lúc đó, cũng có ý kiến phản đối: “Sao lại chọn một
cô trẻ thế vào vai chị Dậu”. Cụ Khoa, vì được thuyết phục rồi, bèn ra
sức bảo vệ: “Tôi đưa sách của cụ Ngô Tất Tố ra cho các ông các bà xem
nhé. Đây này, Phạm Thị Đào, sinh năm Ất Dậu, 24 tuổi, đúng bằng tuổi con
Vân bây giờ. Đúng như cụ Tố tả,, Thế là chả ai còn thắc mắc gì nữa.

Khi
quay thật cảnh bán con bán chó ở làng Đồng Kỵ, tôi đã có rất nhiều kỷ
niệm với dân làng. Chiều ảm đạm, chị Dậu một tay dắt con Tí, tay kia dắt
chó, đi qua cánh đồng để đến nhà Nghị Quế. Chưa đến cảnh quay, mới chỉ
từ nhà dân, chỗ ở của đoàn phim đi sang hiện trường, dân làng đi theo đã
ngậm ngùi nước mắt. Họ nói: “Đời chúng tôi đã khổ mà trông cô còn khổ
hơn”. Cứ cảnh quay nào có chị Dậu, dân làng lại khóc Sau phim Chị Dậu,
tôi thực sự rút ra được một bài học lớn về nghề diễn. Có một sự ân hận
không thể sửa được vì phim đã xong. Tôi bị cảm xúc thật chi phối đến mức
bị “chìm nghỉm” luôn, không biết kiềm chế. Tôi đã đẩy nhân vật đến chỗ
dấn quá sâu vào mảng bi lụy. Lúc đó cứ ngỡ, người diễn viên càng say sưa
hoá thân vào đời nhân vật càng tốt. Cứ chỗ nào thương cảm là rơi nước
mắt, thậm chí máy dừng rồi vẫn cứ khóc, không thoát ra được. Dường như
là tôi khóc thương chị Dậu chứ không phải chị Dậu khóc thương chồng
thương con. Đến khi xem phim, thấy nó bị luỵ quá, triền miên quá, hễ
buồn là nức nở đầm đìa. Đáng lẽ ra phải biết, có rất nhiều cấp độ và
cách biểu hiện sự đau buồn, ngay cả khi khóc cũng có cái khóc ra ngoài,
có cả cái khóc vào trong.

Tiếc là cụ Khoa cũng quá say sưa, thấy
mọi thứ diễn ra thật quá, cứ để cho tôi nhập vai không cần điều chỉnh,
không dừng diễn viên lại. Giá mà lúc dựng phim, đạo diễn tỉnh táo hơn,
cắt bớt những đoạn khóc lóc thê thảm đi, bộ phim sẽ đỡ “cải lương” hơn.
Chị Dậu, cũng giống như phần lớn phim của cụ Khoa, vẫn chưa đạt được sự
sâu sắc về tư tưởng hay đổi mới về nghệ thuật, mặc dù cụ là một đạo diễn
đầy kinh nghiệm.

Tuy nhiên, vai diễn của tôi vẫn được báo chí ưu
ái khen ngợi, chỉ có tôi âm thầm và nghiêm khắc nhận những cái rất dở
trong diễn xuất của mình.

***

Nếu cụ Phạm Kỳ Nam quá lãng
mạn, cụ Nông Ích Đạt quá thật thà, cụ Phạm Văn Khoa quá cảm tính… thì cụ
Hải Ninh lại quá lý trí. Cụ là một đạo diễn có nghề, kỹ tính nên đôi
khi khó làm việc. Cụ dành nhiều thời gian chăm chút tỉa tót khuôn hình,
góc máy cho đẹp mà quên mất rằng, quan trọng hơn, người diễn viên phải
cảm thấy thoải mái thì mới diễn được. Nhanh nhậy trong việc bắt lấy
những đề tài nóng bỏng mang tính thời sự, đạo diễn Hải Ninh có nhiều cơ
hội để mang phim ra nước ngoài, đến với các Liên hoan phim thế giới.

Điều
đáng quí ở đạo diễn Hải Ninh là cụ luôn đề cao vai trò của nữ diễn
viên, đặc biệt trân trọng diễn viên nữ chính. Cụ có thể dữ dằn với ai
thì dữ, mắng ai thì mắng, từ phó đạo diễn, quay phim đến thư ký trường
quay, ánh sáng… nhưng cụ chưa bao giờ mắng diễn viên nữ chính. Cụ hiểu,
nhân vật nữ luôn là trung tâm của bộ phim, nếu họ làm dở có nghĩa là
phim thất bại, nên cụ luôn rất nhẹ nhàng. Lần ấy, tôi biết mình có lỗi,
đáng tội bị mắng hẳn hoi, nhưng cụ không mắng tôi. Người bị mắng lại là
thư ký trường quay. Cụ bảo: “Diễn viên quên nhưng đấy là lỗi tại mình,
phải nhắc người ta chứ, tại sao lại để người ta quên”. Lúc đó đang ở
trên núi, tôi quên mang đèn pin để quay cảnh trong hang, làm sao mả về
lấy được. Tôi biết, cụ đã quá ưu ái tôi, vì tôi luôn có trách nhiệm với
công việc, khác hẳn kiểu ưu ái của cụ Phạm Kỳ Nam, đằng sau đó là một
tình cảm riêng tư.

Nghĩ đến cụ Hải Ninh, trong tôi lại trở về một
kỷ niệm khó quên xảy ra trên một chuyến tàu, “chuyến tàu không mang tên
dục vọng”.

Đó là thời điểm diễn ra tuần lễ phim Việt Nam tại Nga.
Tôi là nữ duy nhất trong đoàn, ngoài ra còn có đạo diễn Hải Ninh, hoạ sĩ
Đào Đức. Có một chương trình hai ngày đi từ Thủ đô Maxcơva đến thành
phố Lêningrát. Lên tàu hoả ngủ một đêm thì đến nơi. Đoàn có hai nam,
thêm một anh bạn phiên dịch dẫn đoàn nữa là ba. Cứ hai người một phòng.

Tất
nhiên, không thể xếp tôi với ông phiên dịch ấy được. Họ xếp ông người
Nga với ông Đào Đức một phòng, còn lại tôi và đạo diễn Hải Ninh một
phòng. Vừa nghe nói thế, tôi giãy nảy lên, một cách rất bản năng con
gái, một mực đòi người ta đổi chỗ, không muốn ở cùng phòng với cụ Hải
Ninh. Tôi quên cả giữ ý, rằng làm như thế rõ ràng như thể mình không tin
tưởng cụ Hải Ninh. Và tôi cứ nằng nặc đòi đổi buồng khác nhưng đó là
điều không thể.

Vẫn biết lên tàu ngủ một giấc đến sáng là tới nơi.
Nhưng cứ nghĩ sao mình lại rơi vào hoàn cảnh oái oăm buồn cười thế nhỉ,
một người đàn ông và một người đàn bà, ngủ trong một cái phòng bé tí bé
tẹo. Đó là một ý nghĩ rất con gái, rất dở dở ương ương. Không phải là
tôi lo sợ gì cụ Hải Ninh.

Rung rinh chuyện trò một lúc, chờ cho cụ
Hải Ninh ngủ, tôi mới hé cửa lẻn ra ngoài hành lang. Trong đêm tối, lật
cái ghế xuống, tôi ngồi đó, chờ trời sáng. Tất nhiên là tôi buồn ngủ rũ
rượi. Để khỏi buồn ngủ, tôi ghi nhật ký vào cái quyển sổ bé tí. Trời
lạnh, ánh đèn lờ mờ, tàu rung rinh chạy, thế mà tôi cố viết, nét chữ cứ
loằng ngoằng. Đêm sao mà thật dài…

Không biết là mấy giờ sáng, đột
nhiên, cụ Hải Ninh lù lù xuất hiện, quát: “Đi vào ngay! Định làm pha lê
hả”. Cụ quát tôi cứ như là quát con cái vậy. Chắc cụ không thể hiểu tại
sao tôi lại phải giữ kẽ đến thế! Đành phải đi vào. Chờ một lúc, thấy cụ
có vẻ lại nối tiếp giấc ngủ ban nãy, “pha lê tôi” lại đi ra hành lang
ngồi. Mãi rồi trời cũng sáng…

***

Phim Thằng Bờm, sản xuất
năm 1986, của đạo diễn Lê Đức Tiến là một bộ phim khai thác chất liệu
dân gian, đã có hơi hướng của không khí đổi mới… Đó là một phim hài với
ẩn ý sâu cay tự cười, tự giễu mình một cách rất dễ thương. Trong phim
này, ba bố con Bờm là trung tâm, có thêm vợ Bờm (vai của tôi) để làm cho
phim mát đi, dịu đi, và phim thêm duyên dáng.

Đây cũng là thời kỳ
tôi được chủ động hơn trong việc chọn đạo diễn, chọn kịch bản. Vì vừa
phải làm phim liên tục, vừa phải thu xếp khéo thời gian xen kẽ về tập vở
với nhà hát. Thời gian này, bên điện ảnh luôn mở rộng cánh cửa mời sang
hẳn. Lúc đó, qua báo chí, tôi biết ông Lê Đức Tiến tốt nghiệp khoa đạo
diễn ở nước ngoài và đã có phim Tiếng bom hoà bình được chú ý nên cũng
yên tâm nhận lời. Tôi thích cái chất dân gian thâm thuý của phim này.

Suốt
thời gian làm phim, tuy không có một ấn tượng nào về ông đạo diễn nhưng
tôi lại có những kỷ niệm nhớ đời với Hoàng Hiệp, người đóng vai Bờm.
Hiệp rất lành, nhưng cũng rất “điên”. Đóng phim như nhập đồng. Nhớ lần
đóng cảnh tôi phải cõng Bờm mấy chục mét mà ngượng ơi là ngượng, đã thế,
đi đến đoạn mương lại phải nhảy qua, rồi ngã đến nỗi rơi mất cả chồng.
Hiện trường là một bờ ruộng thật, người ta đào một cái rãnh có nước rất
trơn. Tôi nghĩ mình chỉ có 44 cân, làm sao mình cõng nổi cái ông Bờm
kia, tôi bảo Hiệp: “Cậu phải giả vờ bám vào vai tớ, cố gồng người lên.
đu lên nhé chứ làm sao tớ cõng nổi cậu”. Mà có phải quay luôn đâu, phải
kéo lê ông Hiệp “điên” ấy tập chán chê. Xung quanh người xem tha hồ
cười. Nhảy một cái, cả hai lăn quay, ông Hiệp ngã theo chồm lên lưng
mình. Cả đoàn phim nghiêng ngả cười. Đoạn ấy trên phim cũng làm khán giả
cười rũ ra.

Rồi một cảnh nữa, đi chân đất trên đường đá dăm, càng
gọi “thằng Bờm” nó càng chạy. Máy đặt nguyên một chỗ. Đạo diễn đã hô
“dừng” rồi thế mà hai anh chị nhà Bờm không nghe thấy gì cứ thật thà
chạy mải miết. Về đến nhà mới thấy đau khủng khiếp.

Sau phim này,
từ thằng Bờm trên phim, Hoàng Hiệp trở thành một “ông Bờm” thật ngoài
đời. Nghe nói, Hiệp cũng chẳng gặp may trong cả đời sống riêng lẫn sự
nghiệp của một diễn viên kịch nói.

***

Sau phim Đất Mẹ, tôi
được khẳng định là một gương mặt điển hình cho phụ nữ Việt Nam, đúng hơn
là phụ nữ nông thôn thuần chất Việt dịu dàng đằm thắm. Phá được cái mặc
cảm con gái Hà Nội, cứ vai nào đặc chất Việt là tôi được mời. Vai chính
trong Bao giờ cho đến tháng Mười là một vai như thế.

Tôi vào vai
Duyên rất ngọt. Thời gian quay phim trùng với lịch tập vở balet
Spartacus do chuyên gia Liên Xô hướng dẫn mà tôi là vai chính, không thể
bỏ được. Quay phim xong thường đã quá đêm, 5 giờ sáng hôm sau, tôi phải
đi đánh thức lái xe dậy đưa về Nhà hát vì lo ông ấy ngủ quên.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3