Vườn tình - Chương 22 (Hết)
Cổ họng tôi bỗng thắt lại khi nói những lời này. Tim tôi đập
nhanh và mạnh. Marie nhìn tôi không rời mắt, vẻ rất cứng rắn và nghiêm
khắc.
- Đồng ý, anh Alex ạ. Thế giờ phải làm gì? Ta cứ để Khu vườn
Tình yêu trở thành một nghĩa địa chăng? Ta cứ nhìn những ngôi mộ mọc
lên, mọc nữa, mọc mãi? Chỉ có thế thôi. Những ngôi mộ tít tắp. Ta lang
thang như những con ma giữa những con ma khác, cho đến khi đêm tối nhấn
chìm tất cả? Ta tiếp tục khinh đời?... Hay ta gieo những hạt quý còn
lại? Ta gieo từ từ. Kiên nhẫn. Và ta tưới nước với hy vọng những bông
hoa khác sẽ mọc lên, những bông hoa này sẽ không thay thế những bông hoa
cũ, sẽ không làm biến mất mồ mả, nhưng chí ít cũng trang trí cho những
ngôi mộ đó và tưởng nhớ những người đã khuất, vì họ xứng đáng được như
vậy.
Marie im lặng một lúc. Tôi vẫn mím môi như thế. Em tiếp tục nói:
-
Matthieu đã lựa chọn. Anh ta đã gieo hạt và sẽ chiến đấu. Bất chấp sức
mạnh của hắn, bất chấp những “quyền lực” của hắn, Ariel không thể làm
gì. Ariel chỉ có thể cúi đầu và trở về nơi mà nhẽ ra hắn đã không nên
chui ra. Triều đại của hắn kết thúc như vậy đó.
Matthieu chỉ làm
mỗi việc là chỉ cho anh con đường nên đi, anh Alex ạ!... Phải biết tha
thứ cho mình. Phải biết tự mình tha thứ nếu muốn câu chuyện tiếp tục...
Édouard Dayms đã tự tiêu diệt mình. Hắn không thể làm gì hơn. Hắn cho
anh tự do. Hắn dâng cho anh cơ hội thứ hai. Anh phải biết cách nắm lấy!
Nói
xong, Marie đứng dậy và bắt đầu dọn dẹp. Tôi nhìn em mà không có phản
ứng gì. Người nặng như chì, cứng tựa si. Dù sao tôi cũng đã nói được
câu:
- Thông điệp hòa bình của em hử?
- Không phải của em, Marie nói mà không quay lại. Của hắn!
Tôi
đã tự thề với mình là sẽ không bao giờ bén mảng tới Saintes-sur-Mer
nữa, nhưng tôi không còn lựa chọn nào khác. Địa chỉ mà cảnh sát trưởng
Georges Hasbro tuồn cho tôi nằm ở đó. Thông tin đáng tin cậy, đúng là
Florence Mazeau đang ở trong thành phố này. Nếu nghĩ kỹ thì ta thấy có
một logic nào đó. Sau khi đã đi một vòng, ta lại trở về điểm xuất phát.
Quay lại từ đầu.
Lý do mà tôi đến đây là để làm sáng tỏ những vùng tối cuối cùng.
Những
bóng tối trong mắt tôi. Chẳng hạn như tôi những muốn biết điều gì đã có
thể xảy ra giữa ngày mồng một tháng Giêng năm 2000, ngày mà Ariel tự
sát được ghi trong cuốn sổ tay, và lúc mà Édouard Dayms tự bắn vào đầu
mình - sau khi đã gửi cho tôi cuốn sổ tay của mình. Bốn năm đã trôi qua
giữa hai sự kiện, những năm tháng trôi qua trong im lặng mà thực ra là
có thêm chín năm vắng bóng nữa. Hắn đã làm gì trong suốt thời gian này?
Vẫn
còn những câu hỏi liên quan đến những cuốn nhật ký mà Matthieu có nêu.
Những cuốn sổ của Ariel và những quyển vở màu xanh của Florence. Tôi
chưa bao giờ thấy những cuốn sổ này. Tôi tin là chúng chỉ tồn tại trong
cơn mê sảng của Édouard Dayms, và những trích đoạn được viết lại chẳng
qua là do hắn viết. Nhưng chỉ có Florence mới có thể giúp tôi khẳng định
điều đó.
Georges đã gọi lại cho tôi một tuần sau. Họ đã nhận được
đơn của tôi. Cậu ấy nói thật với tôi là cho đến lúc đó vẫn không thể
tin. Đầu dây, cậu ta có vẻ xúc động. “Mình tiếc là cơ sự lại như thế,
Alex ạ...”. Cơ sự nào? Tôi thầm nghĩ. Giọng cậu ta trầm lắng. Thô ráp.
Không còn kiêu căng. Không còn là một cấp trên khó gần, bận bịu, chỉ còn
là một đồng nghiệp của thủa ban đầu. Đồng đội. Người bạn. Người cùng
tôi ra chiến trường trên cùng một xe - những người sắp chết đang chào
bạn. “Nếu mình can đảm thì có lẽ mình cũng đã làm như cậu”, cậu ta nói.
Trước khi đắm chìm trong chuyện tình cảm, tôi đã cảm ơn cậu ta về lời
chỉ dẫn. Cậu ta bảo tôi thỉnh thoảng gọi điện. Tôi không hứa. Cả cậu ta,
cả tôi đều không tin.
Cơn gió mistral đã làm cho bầu trời quang
đãng. Một ngày đầy nắng và gió. Lúc bốn giờ chiều, tôi lái xe đi về
hướng Saintes. Đài phát thanh phát Bản giao hưởng kỳ ảo. Tôi không thích
Berlioz, nhưng kệ. Tôi đi lòng vòng một lúc rồi mới tìm ra địa chỉ. Lúc
17 giờ 30, tôi đậu xe trước nhà Florence. Đêm bắt đầu xuống.
Đó
là một khu chung cư ba tầng, bên cạnh có xây thêm hai tầng giống đúc.
Phía dưới có một nhà đậu xe tập thể rải sỏi. Trên những hộp thư của khu
chung cư đó, có một cái không đề tên. Tầng trên cùng, cửa phía bên phải.
Tôi đi lên. Tôi bấm chuông. Trong vài giây, tôi mong đừng có ai cả. Tôi
không nghe bước chân đi lại. Nhưng cánh cửa đã mở.
Florence
Mazeau đang đứng trước mặt tôi. Như lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau,
cách đó mười ba năm, cô ta không có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi. Tôi tự
nhủ có lẽ đã từ lâu lắm rồi, không có gì còn làm cho cô ta ngạc nhiên.
Mà có lẽ cô ta đang chờ tôi đến thì đúng hơn.
Cô ta nhìn tôi chằm chằm một lúc mà không nói gì, rồi tránh ra cho tôi đi vào. Tôi không cần trình thẻ.
Florence
không còn dáng vẻ yếu ớt và yểu điệu nữa, cô ta đã phát tướng rất
nhiều. Ít nhất là từ người cô ta toát lên cảm giác đó. Một người phụ nữ
chín chắn, trần thế. Lúc đầu, tôi cứ nghĩ là cô ta vẫn dùng thuốc phiện.
Sau đó, tôi nhận ra là tôi không biết tí gì về cuộc sống của cô ta
trong những năm tháng qua. Sau khi Édouard Dayms bỏ trốn, cô ta bị quản
thúc một thời gian, với hy vọng hắn sẽ liên lạc lại với cô ta. Không
phải như vậy. Rồi người ta đã bỏ qua. Không thể khép cô ta vào tội gì.
Không thể chứng minh cô ta là tòng phạm, hoặc đơn giản là biết những án
mạng đã xảy ra. Con chim cổ đỏ đã được thả vào thiên nhiên. Chả ai lo nó
sống hay là chết. Tôi cũng không hơn gì.
Cô ta đi trước, tôi theo
sau, dọc theo hành lang cho đến phòng ăn. Chúng tôi vẫn chưa nói với
nhau câu nào. Cô ta vào phòng trong khi bỗng nhiên, tôi dừng lại ở cửa.
Đứng như trời trồng. Bị chôn chân tại chỗ bởi ánh mắt của một bé gái
đang nhìn thẳng vào tôi. Một ánh mắt hoàn toàn không biểu cảm, đến nỗi
chỉ có thể là ánh mắt của người chết. Phản ánh một tâm hồn vô chủ. Bất
động vĩnh viễn.
Tôi nhận ra ngay bức tranh đã được tả trong cuốn
sổ tay. Một bé gái bước đi giữa cảnh tuyết trắng. Món quà của Florence
tặng Matthieu. Có thể nói như thế. Tôi những tưởng đó chỉ là bịa đặt,
thế mà bức tranh đang ở đó, treo trên tường ngay trước mắt tôi. Trong
cuốn sổ, Matthieu nói rõ là nó được ký hai chữ cái E.D. Tôi cố gắng đi
lại gần. Tôi cố nhìn kỹ toàn bộ bức tranh cũng vô ích, chẳng thấy một
chữ ký nào hết. Khi tôi quay lại, Florence đã ngồi trên tràng kỷ và bình
thản nhìn tôi. Cô ta hoàn toàn không biết những câu hỏi câm lặng của
tôi. Câu đầu tiên cô ta nói với tôi là:
- Ông có uống gì không, thưa ông Astrid?
Giọng của cô ta vẫn lừng chừng như thế, nét mặt vô cảm. Chỉ có chút gì mỉa mai lóe ra từ đôi mắt của cô ta.
Tôi lắc đầu.
- Không, không uống gì.
Cô
ta ra hiệu mời tôi ngồi. Tôi ngồi trên một chiếc ghế dựa, đối diện với
cô ta. Cô ta chờ tôi nói. Tôi không biết nên bắt đầu từ đâu. Tôi hắng
giọng, rồi nói thẳng:
- Édouard Dayms đã chết.
Nếu như cái
tin đó có làm cho cô ta bị sốc thì cô ta cũng đã che giấu rất kỹ. Mi mắt
hơi chớp một cái. Hoặc là cô ta không tin, hoặc là cô ta đã biết.
Tôi nói tiếp:
-
Hắn đã tự sát. Người ta đã tìm ra xác hắn trong ngôi nhà mà chị biết, ở
đây, Saintes. Hắn nằm dưới đất, trong căn phòng cũ của mình, ngay dưới
mái nhà. Chính tôi đã nhận dạng hắn.
Tưởng như tôi phải nhắc lại những chi tiết này để cô ta tin vào điều đó. Một lúc sau, Florence không còn im lặng nữa. Cô ta nói:
- Édouard Dayms đã chết lâu rồi, thưa ông Astrid.
- Dù sao thì vẫn chưa quá ba tuần.
- Ồ! Hơn chứ... Florence Mazeau nói.
Tôi
định cãi cô ta một lần nữa, nhưng tôi đã hiểu ý cô ta là gì. Tôi ngoảnh
mặt về phía bức tranh: đôi mắt con bé đang nhìn tôi. Cái nhìn trống
rỗng chết tiệt đó. Cái nhìn vô hồn, hướng về hư vô đó. Không phải tôi
đang thấy một bé gái, đó không phải là thực tế mà chỉ là một hình ảnh.
- Chị vẫn còn theo dõi những chuyện này nhỉ? Tôi nói.
Cô ta không có thời gian trả lời tôi. Có tiếng gì đó trong căn hộ, từ phòng khác vọng lại. Tôi lắng tai nghe, kinh hãi.
- Không chỉ có mình chị à? Tôi hạ giọng. Có ai khác à?
- Đúng thế, Florence nói.
Lại
có tiếng động. Tiếng đẩy hay kéo ghế gì đấy. Rồi những bước chân vội
vã, tiếng bước chân nhanh và nhẹ trên sàn nhà. Tôi bật người dậy và nhìn
vào khung cửa. Theo bản năng, tôi hạ tay xuống hông: không có khẩu súng
nào ở đó.
Đứa bé lao ra như một mũi tên. Nó dường như không thèm để ý đến tôi.
Nó lao thẳng về phía Florence và nói:
- Mẹ ơi, xong rồi. Con đã vẽ xong!
Nó đưa cho mẹ nó một tờ giấy vẽ đủ màu sắc. Tay kia nó cầm một chiếc bút dạ. Đầu ngón tay của nó thấm đỏ.
Florence cầm lấy tờ giấy, vừa nhìn bức tranh vừa xoa đầu thằng nhỏ.
- Cái gì đây? Cô ta hỏi. Thằng nhỏ lắc đầu.
- Con không biết.
Nó oặn ẹo ôm lấy mẹ.
- Đẹp quá! Florence nói. Con đi vẽ tranh khác đi, thiên thần của mẹ.
Thằng
bé không chịu đi. Sự có mặt của tôi bắt đầu làm cho nó phải suy nghĩ.
Nó nhìn tôi từ dưới lên, ánh mắt tràn đầy sức sống. Một thiên thần nhỏ
tóc vàng, mắt xanh. Rất đẹp. Chỉ thiếu mỗi cái sẹo phía trên lông mày.
Có cái gì đó từ từ dâng lên trong người tôi, tôi biết nó bắt đầu nhấn
chìm tôi.
- Đây là… Đây là con của chị à? Tôi lắp bắp.
Florence gật đầu. Tôi nuốt nước bọt.
- Nó mấy tuổi rồi?
- Sắp bốn tuổi, cô ta trả lời.
Một cơn rùng mình lan khắp người tôi, từ gáy đến phía dưới vùng thắt lưng. Thằng bé bắt đầu ngậm bút.
- Cháu tên gì? Tôi hỏi.
- Ông có thể tự mình hỏi nó, Florence nói.
Tôi nhìn thằng bé một lúc. Không thể nhắc lại câu hỏi. Florence đặt tay lên vai nó.
- Con tên là gì, con yêu? Con nói cho ông nghe kìa.
Thằng bé ngập ngừng. Rồi nó bỏ chiếc bút ra khỏi miệng. Nó nói, giọng thỏ thẻ:
- Nathan.
Tôi biết câu trả lời. Tôi chỉ muốn nghe thôi. Tôi khép mi một lúc rồi mở ra. Tôi cay cay mắt. Nước mắt dâng lên, dâng lên.
Thằng bé lại vùi đầu vào ngực mẹ nó. Cô ta khẽ đẩy con ra.
- Nào, Nathan, cô ta nói. Quay vào phòng vẽ đi con. Mẹ đến ngay mà.
Thằng
bé bỗng nhiên nghe lời. Nó lon ton chạy đi. Nó mất dạng ở chỗ ngoặt.
Tôi biết một gian phòng trống rỗng đầy âm vang là gì. Sau khi nó đi, đầu
gối tôi khẽ trùng xuống. Florence khinh khỉnh nhìn tôi, còn tôi lảo đảo
trong ánh mắt của cô ta.
- Thế còn người cha? Tôi thì thầm. Cha nó đâu? Tôi phải trả giá cho từng lời nói của mình.
- Cha nào? Florence hỏi.
Môi
cô ta khẽ nở một nụ cười. Ranh mãnh. Có đôi chút tàn nhẫn. Tôi nhận ra
trong con ngươi của cô ta ánh mắt ngày nào, ánh mắt sẵn sàng đốt cháy
tất cả. Cô ta nói thêm:
- Đó là câu hỏi mà tôi vẫn thường đặt ra cho mình: “Cha nó ở đâu?”... Hình như ông ấy ở trên trời cao!
Hình
như cô ta nấc một cái, rồi cô ta cười phá lên, cuồng loạn, điên rồ,
những tiếng cười tâm thần xuyên thủng màng nhĩ và con tim của tôi. Hơn
cả những gì tôi có thể chịu đựng. Tôi rời phòng, chân run run. Bỏ mặc
những vùng tối tăm còn lại. Tôi đi ra cửa. Trước khi mở cửa, tôi còn
quay lại.
Thiên thần nhỏ bé đang đứng phía bên kia hành lang.
Thằng bé tuyệt vời, tôi nghĩ bụng. Chúng tôi nhìn nhau thật lâu, chỉ bị
chia cắt bởi một biên giới vô hình nhưng không thể vượt qua, đó là tiếng
cười của mẹ nó.
Không có câu chào tạm biệt. Một lời cũng không, một cử chỉ cũng không.
Tôi
đào một cái hố tránh gió ở góc vườn. Một chỗ trũng không sâu lắm. Tôi
quỳ xuống đất. Tôi châm lửa vào trang đầu tiên rồi thả xuống đáy hố.
Cũng như thế với những trang tiếp theo. Tất cả các trang của cuốn sổ
tay, tất cả các trang của Khu vườn Tình yêu đều được thả xuống đó, từng
trang một, và tôi nhìn những trang viết đó bốc cháy.
Tôi thoáng
nghĩ là có thể chính Florence là người đã gửi cho tôi cuốn sổ đó. Phương
tiện để thực hiện những ước muốn cuối cùng của vị quân sư của mình.
Nhưng điều đó thay đổi được gì?
Con mèo lại đến chỗ tôi. Nó cũng
như tôi, đã thấy lửa nghiến ngấu những tờ giấy, những mảnh giấy bướm tí
hon bay vật vờ trong không khí - những con bướm đen kinh hãi có đôi cánh
cằn cỗi. Có rất ít khói.
Tôi mất mười lăm phút để đốt di cảo đó.
Chỉ còn lại một đống tro tàn và tôi lấy đất vùi lên. Sau đó, tôi vào nhà
uống cà phê. Chỉ mãi sau này tôi mới biết là Marie đã lưu lại một bản
photocopy.
Hôm ấy là thứ bảy. Mười một giờ sáng. Marie hẹn gặp tôi
vào đầu giờ chiều. Tôi phải đánh xe đến đón em trước nhà. Em muốn đưa
tôi đi đâu đó, nhưng em không muốn nói. Một điều bất ngờ.
Khi tôi
đến, Marie đã chờ ở phía dưới chung cư. Em mặc một chiếc áo choàng màu
sẫm và đội một chiếc mũ không vành. Con gái miền Đông. Em lấy tay giữ
lấy mũ vì sợ nó bay mất. Thêm một ngày gió mistral thổi mạnh. Bầu trời
quang đãng. Marie chui vào xe ôtô. Tôi nhận ra mình rất thích mùi nước
hoa kín đáo của em.
Vừa đi em vừa chỉ đường cho tôi. Đường sá lúc
ấy không có nhiều xe cộ đi lại. Chúng tôi rời trung tâm thành phố, đi
dọc theo sườn treo một lúc. Nắng rọi qua kính chắn gió. Rồi Marie chỉ
cho tôi hướng Tây bắc. Đường đồi. Về phía Nhà thờ Đức Bà An Lộ. Khi đó
tôi mới hiểu.
Bỗng tôi bất ngờ giảm tốc độ theo phản xạ rồi nhìn
Marie vẻ kinh hãi và hoảng hốt. Em cầm bàn tay đang cầm tay lái của tôi.
Bóp khẽ.
- Em xin anh, Marie nói.
Con đường dốc nhẹ về phía
trên thành phố. Đỉnh dốc cao nhất là ba trăm mét so với mặt biển. Ở đó
có một nhà thờ và một nghĩa địa. Trước đây, nơi này là chỗ hành hương
của ngư dân. Một số người trong số họ đi chân trần, lưng mang một cây
thánh giá nặng bốn mươi kilôgam. Bây giờ, khách sạn đã mọc rất nhiều ở
dọc hai bên đường. Những bậc thềm để nhìn toàn cảnh. Những người cuốc bộ
và đi xe đạp địa hình thường đi dọc theo những con đường mòn từ những
ngày đẹp trời đầu tiên.
Tôi đậu xe trên bãi đất phía sau nhà thờ.
Chúng tôi xuống xe. Marie tiến về một căn nhà gỗ nho nhỏ, chỗ mà người
ta đang bán hoa. Ông chủ quán đang ngồi đọc báo trên một chiếc ghế xếp,
trong một túp lều. Ông ta theo Marie vào trong. Tôi chờ ở ngoài. Marie
đi ra với hai bó hoa trên tay. Em trao ho tôi một bó. Sau đó, em nhẹ
nhàng kéo tay tôi về phía cổng nghĩa địa.
Đẩy cổng ra, em nói:
- Thứ bảy nào em cũng đến đây. Thường là bằng taxi.
Tôi
không ngạc nhiên. Tôi thì chưa bao giờ quay lại kể từ ngày an táng. Chỉ
nghĩ đến thôi tôi cũng không thể chịu nổi. Không thể tưởng tượng nổi.
Những hình ảnh tang lễ hiện về trong khi chúng tôi bước đi. Chân tôi
cứng lại. Nhưng Marie vẫn luôn ở đó để đỡ lấy tôi và dẫn tôi đi. Chính
em là người đã từng dìu tôi lần đầu tiên. Khi đó tôi đã uống ba phần tư
chai khi đi từ nhà thờ đến nghĩa địa. Tôi không thể đứng được. Tôi xấu
hổ, sợ hãi và cảm thấy lạnh trong người.
Đến trước ngôi mộ duy
nhất, tôi bị đứt hơi. Phải mất một lúc tôi mới thở trở lại được. Tôi đọc
đi đọc lại những dòng chữ khắc trên bia đá. Những cái tên và những ngày
tháng. Tôi đã chẳng mong gì hơn.
“Anh đang nghĩ gì vậy?” Léna hỏi tôi.
Marie
khẽ đụng vào tay tôi. Em đã cất mũ và gió thổi tung mái tóc của em. Em
chỉ cho tôi chỗ đặt hoa. Tôi làm theo em. Chỉ có hai chúng tôi giữa
những ngôi mộ. Ở đây, những chỗ nghỉ ngơi vừa đắt vừa được ưa thích, có
thể nói như vậy. Những quan hệ của tôi, những mẹo vặt của tôi thời đó ít
nhất đã phát huy tác dụng: tặng chỗ xứng đáng cho những người thân đã
khuất. Chốn nương thân xa hoa cuối cùng. Tôi không biết tôi và Marie đã ở
đó trong bao lâu. Hai chúng tôi đứng bên nhau. Đứng yên và im lặng. Tôi
không thuộc những lời cầu nguyện. Tôi chỉ nghĩ đến họ rất nhiều. Đến
những đứa con quận trưởng. Đến Léna.
Nàng ngồi trước cây đàn piano
vào lúc nửa đêm, trần truồng, tuyệt đẹp. Cả thành phố đang ngủ. Nàng
đang chơi đàn cho tôi nghe. Nàng quay đầu và mỉm cười với tôi. Ánh mắt
tinh nghịch. Rồi nàng lại nằm trên nệm, bên cạnh tôi. Nàng cầm tay tôi
rồi đặt lên bụng nàng.
“Em muốn cảm nhận sự cử động của nó.” Tôi không trả lời.
“Anh đang nghĩ gì vậy?” em hỏi tôi.
Tôi cảm thấy nước mắt giàn giụa trên má. Những dòng nước ấm, từ từ và liên tục. Dành chỗ cho cái gì đó giống với sự bình yên.
Những giai điệu của Schubert. Những bản hợp xướng của Fauré. Tôi có thể nghĩ gì vào lúc đó nhỉ?
Trước
khi ra về, tôi đi ra phía góc trong cùng của nghĩa địa. Phía trên bờ
tường bao quanh, quang cảnh trải dài bất tận. Đó hẳn là cảnh đẹp nhất
trong vùng. Chúng tôi đi nghiêng qua thành phố. Gió mistral quật vào mặt
tôi. Tôi đưa mắt nhìn khắp những mái nhà. Nhìn bến cảng và bờ biển.
Nhìn những hòn đảo và nhìn xa xăm.
Ánh sáng dịu dần khi tối đến. Biển vẫn một màu xanh dương. Y như màu trời.