Vườn tình - Chương 11
Tôi dành cho Marie ba giây để nắm bắt được vấn đề rồi nói lại:
-
Matthieu không tồn tại. Và người có tên là Ariel cũng không luôn. Chí
ít là không phải như người ta tưởng. Họ không có sự tồn tại nào cụ thể.
Đó là hai sáng tạo, hai nỗ lực hiện thân của một và chỉ một ảo ảnh, một
thực thể, thực thể này cũng chỉ xuất phát từ bộ não của một kẻ tâm thần
chó chết nào đó! Em hiểu chứ? Như thể thằng điên này lấy từ túi áo ra
hai lá bài phăng-teo mà rằng: “Các người thấy đấy, có phải tôi đâu, họ
đấy chứ!”. Những lời xin lỗi chỉ là những lời xin lỗi!
Tôi đấm tay
lên bàn. Tách cà phê của tôi rung lên. Lúc đó tôi nhận ra mình đã cao
giọng. Một lần nữa, tôi cảm thấy mồ hôi vã trên trán. Nhìn vào nét mặt
của Marie thì kẻ sa sút trí tuệ mà tôi tả chính là tôi.
Tôi nhắm mắt lại và ngả người trên lưng ghế.
- Xin lỗi em... Tôi thì thầm.
Không khí căng thẳng hạ nhiệt dần dần. Marie tinh tế chờ đợi mà không bình luận gì. Cuối cùng, tôi tiếp tục:
-
Có vẻ điên rồ đấy, nhưng thế đó. Không những Matthieu và Ariel chỉ là
một, như mặt trước mặt sau của một lá bài, mà sự tồn tại của họ không
được xác thực. Người ta tưởng tượng ra họ thế thôi.
Tôi nhận ra những lời giải thích này tối nghĩa đến mức nào. Marie cố hiểu, cố nắm bắt những thông tin mới này.
- Những nhân vật chứ gì? Như trong tiểu thuyết phải không?
- Có thể nói như thế.
- Có nghĩa là chuyện này chỉ là... chỉ là hư cấu?
-
Không. Thật không may là không. Lẫn lộn hết. Những nhân vật đó được
phịa ra, nhưng phần lớn hành động của họ đã xảy ra thực sự. Những án
mạng đã xảy ra thực sự. Những nạn nhân được tả là có thật. Vả lại, tên
của họ đã không được thay đổi. Anh có thể xác thực một số yếu tố như
thế. Có thể nói thằng đểu đó đã cố gắng thêm thắt một số chi tiết có
thật, chỉ để người ta tin, chỉ để người ta lần theo dấu vết mà hắn đã
vạch ra trong cánh rừng rậm rịt chết tiệt đó! Ngoài những chi tiết này
ra, phần còn lại chỉ là những thứ rác rưởi. Hãy tự tìm kiếm đi! Hãy dò
dẫm trong những bụi cây rậm rịt thì các người ắt sẽ tìm ra!
- Cái gì?
- Cái gì là cái gì?
- Có thể tìm ra cái gì? Dấu vết đó sẽ đưa chúng ta tới đâu?
Tôi phác một cử chỉ bâng quơ. Tay tôi thả lỏng trên đầu gối.
-
Tới hắn, anh nghĩ vậy... Hay nói đúng hơn là: trong hắn. Ngay trong bộ
não rối loạn của hắn. Tận sâu trong bóng đêm u tối của hắn!... Đó là câu
trả lời mà anh thấy có thể chấp nhận được. Điểm xuất phát cũng là hắn,
điểm đến cũng là hắn. Câu trả lời đó khá phù hợp với nhân cách của hắn.
-
Hắn? Marie hỏi. Hắn là ai? Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi đầu tiên của
em, anh Alex. Nếu tên Matthieu này không có thật, thế... “kẻ bị tâm thần
chết tiệt” đó là ai? Ai đã viết cái đó?
Tôi cảm thấy day dứt khi nêu tên hắn trước mặt em. Như thể thực sự đã đến lúc cầm tay em để cùng thực hiện một cú nhảy rất xa.
- Hắn tên là Édouard Dayms, tôi nói. Hắn đã từng mang tên đó.
- Đã từng ư?
- Hắn đã chết. Tự sát. Anh đã tìm thấy thi thể của hắn mới hôm qua. Marie ngoảnh mặt đi, hai chân khép lại.
- Thế thì, Marie thở phào, không thể nói là anh trở về tay không!
- Anh thì...
- Không, em vừa nói vừa lắc đầu. Anh đừng có đụng tí là xin lỗi. Em xúc động. Em rất xúc động khi anh tìm đến với em.
Tôi nhìn Marie chằm chằm. Tôi nói:
- Anh không còn ai khác, Marie ạ.
Một
lần nữa Marie ngoảnh mặt đi. Gương mặt mịn màng. Cổ dài như thiên nga,
trắng trẻo và mảnh dẻ. Điệu bộ quý phái. Tất cả những câu chuyện đầy
hình ảnh này rất hợp với em. Đứng cạnh em, tôi cảm thấy mình nặng nề,
bẩn thỉu, xấu xa. Một biến cố bất ngờ.
- Anh xem đấy, em có biết
bao nhiêu là câu hỏi lúc nhúc trong đầu, Marie nói tiếp. Tốt hơn hết là
anh kể cho em nghe. Kể một cách chi tiết. Anh nghĩ là mình có thể làm
được chứ?
Cửa sổ vẫn còn mở. Một phần tư mặt trăng xuất hiện phía
trên cánh cửa, bị che phủ bởi những đám mây xám xịt và lùng nhùng. Giống
như ánh đèn trên tấm kính. Marie chờ đợi. Tôi nhìn xuống cái túi nhựa
nham nhở bên cạnh.
- Anh sẽ cố gắng, tôi nói.
Những sự việc
đó xảy ra ở thế kỷ khác. Chúng diễn ra lùi lại mười lăm năm. Hồi đó, tôi
đã là một cảnh sát già dặn. Theo hộ tịch thì tôi ba mươi sáu tuổi,
nhưng gần một nửa số năm ấy ở trong nhà giam. Một số quãng thời gian
được tính gấp đôi, thậm chí gấp ba. Một số quãng khác lòng vòng không
dứt. Không ngừng tí nào.
Trước tiên, tôi buộc phải nói qua về cuộc đời tôi.
Nhìn
chung, quãng đời mà tôi đã đi qua không có gì độc đáo lắm. Mười tám
tuổi, tôi chuyển thẳng từ học viện âm nhạc sang trường cảnh sát. Từ
những nút ngà sang báng súng bằng kim loại. Có trở lại những động cơ của
tôi thì cũng chẳng để làm gì.
Kể từ đó, tôi theo dốc mà đi. Lúc
đầu là lên cao. Chính đấu trường là nơi tôi chứng tỏ được mình, nhờ thế
tôi được lên lon. Tôi là một cớm giỏi. Tôi có năng khiếu. Đặc biệt, tôi
có niềm tin. Chưa bao giờ ngần ngại lao vào cuộc, đơn giản là bởi vì tôi
tin vào chính nghĩa. Niềm tin, tôi nghĩ đó là điều tối thiểu phải có
khi phải chĩa súng vào một thiếu niên nghiện ma túy mười bốn tuổi đang
trên đà xuống dốc, tay cầm dao rựa, hay chĩa súng vào một kẻ hám lợi mặc
đồ trắng đang bán thuốc phiện cho thiếu niên đó. Tôi đã có thể làm
được. Tôi đã có thể bóp cò nếu cần thiết, nếu chắc chắn là mình đang bảo
vệ người vợ góa chồng, đứa con côi cút và sự an bình của thế giới. Một
anh lính vì hòa bình.
Sau này, tôi cũng đã có thể làm như thế.
Nhưng không có mối bận tâm nào khác là tự cứu lấy mạng của mình, và bảo
vệ những thành quả của bản thân.
Đồng thời, tôi không thể nói
chính xác điều gì đã xảy ra. Có hay không một lúc cụ thể nào đó mà tất
cả đã lung lay, đổ vỡ. Tôi không tin. Người ta thường buông xuôi một
cách từ từ và với một sự thoải mái nào đó. Phải để cho ý thức có thời
gian thích nghi với hành động, một cách chậm rãi, nhẹ nhàng.
Sau
mười hay mười hai năm trong nghề, tôi thuộc lòng những cống rãnh của xã
hội. Bởi vì, gần như một cách tự nhiên, bên kia bờ dốc dẫn tới những
cống rãnh đó. Tất cả diễn ra ở đó. Chí ít là về phần tôi. Vì cứ muốn vớt
vát phần mình, tôi có thể nhắm mắt mà vẽ cái hệ thống dơ dáy đó. Kể cả
những phân nhánh nữa. Tôi đã thấy quá nhiều thứ, đã nghe quá nhiều điều
nên có thể biết rõ hệ thống đó vận hành như thế nào. Tôi đã nhấn chìm sự
ngây thơ, khờ dại, sự liêm khiết, niềm tin của mình ở đó. Tất cả những
thứ ấy ngày càng xa lìa tôi như những vảy da hoại tử trôi theo dòng nước
uế. Tôi đã quen với bóng đêm của những đường hầm và mùi hôi thối trong
đó. Tôi có thể nêu tên và nắm chân của từng con chuột từ đó ngoi lên.
Tại sao ư? Bởi vì từ giờ trở đi, tôi là người của chúng, ngay cả khi tôi
không quan niệm điều đó một cách sống sượng và hiển nhiên như thế. Cả
thập kỷ tôi đã ngụp lặn trong bùn, và tôi đã bắt đầu ham thích.
Lỗ của tôi đã đào xong, nó nằm giữa đáy trũng. Cái ổ của tôi.
Tất
nhiên, tôi tiếp tục công việc của mình, tiếp tục truy bắt những kẻ độc
ác - một cách hiệu quả là đằng khác, khi tôi cố gắng. Nhưng kinh nghiệm
chỉ bảo cho tôi ít nhất hai điều căn bản: lựa chọn và thỏa hiệp. Kẻ ác ở
khắp nơi mọi chốn, rốt cuộc, người ta nhận ra là vô bổ biết bao nhiêu,
kiêu ngạo biết bao nhiêu khi nghĩ mình có thể quét sạch bọn chúng. Thế
thì phải lựa chọn. Ở đây, bất cứ kẻ nào có chút lương tri cũng chỉ có
đúng một con bài: trong lũ người ghê tởm chuyên gặm nhấm này, có những
kẻ có ích cho chúng ta, rồi còn có những kẻ khác nữa. Với hạng người đầu
tiên, chúng ta thỏa hiệp, với hạng người thứ hai, chúng ta tiêu diệt.
Khi
đeo lon quận trưởng, người ta có quyền lựa chọn. Nhưng đó là sự lựa
chọn duy nhất mà người ta có, duy nhất, đừng có tưởng bở.
Tôi nghe
tiếng ai đó kêu lên phản đối, tôi nghe những câu chửi tục: “thối nát”,
“tha hóa” v.v... Không đơn giản thế đâu. Ai lại đi trách một bác sĩ nào
đó vì ông ta đã bị lây bệnh khi chữa bệnh? Ai dám cho rằng đó là bằng
chứng cho thấy sự thiếu trung thực và sự vô dụng của ông ta?... Cảnh sát
thường thao diễn trong một thế giới mà anh ta phải biết cách hòa hợp.
Anh ta ngụp lặn. Chìm đắm hoàn toàn. Đến nỗi mà mặt nước mỗi lúc mỗi rời
xa, mỗi lúc mỗi mờ đục. Rốt cuộc ta cũng quên là nó tồn tại. Quên ở
phía trên còn một thế giới khác. Rốt cuộc người ta cũng không biết bầu
trời màu gì nữa.
Không ai, hoặc gần như thế, có thể trốn tránh quy luật.
Tôi
cũng đã trục lợi. Không hơn không kém. Lợi dụng chức vụ của mình, thậm
chí chưa đến mức lạm dụng - tôi chưa bao giờ hoang tưởng. Thói quen của
tôi phụ thuộc vào đẳng cấp khiêm tốn của tôi. Như thế đã quá đủ. Một số
con nợ bảo đảm cho tôi có cái ăn cái ở, được đặt bàn ăn ở những cửa hàng
sang trọng, nơi mà tôi được gặp những bậc đại gia sống trong khu phố cổ
nơi tôi ở. Tôi không cần quần áo chỉnh tề. Đêm tôi thường ngủ trên một
tấm thảm dạ phớt, trong phòng sau cửa tiệm ngụt khói hoặc trong phòng
khách sang trọng của một vị dân biểu nào đó. Tôi đặt cược ở đó khoản
lương phụ cấp của mình, hàng ngày tôi nghiến răng nghiến lợi trích ra
một khoản tiền nhỏ. Chơi thì phải thế.
Trong những năm tháng đó,
tôi đã bắt đầu uống rượu. Uống cầm chừng thôi. Cốt để giữ cho cái đầu
được lạnh, cốt để nhấn chìm những âm vang xa xôi phát ra từ ý thức tội
nghiệp của tôi, một cái lương tâm đang thét gào với kẻ phản bội.
Rượu như một chất kích thích khả dĩ biến màu xanh lục thành màu hồng. Cũng chẳng có gì độc đáo cả.
Thật
là thảm hại, nhưng đó là cuộc sống của tôi. Và tôi cảm thấy thoải mái.
Sướng như tiên. Những tưởng điều đó sẽ kéo dài mãi mãi - phần lớn trường
hợp là như thế. Mỗi khi đến giai đoạn này, người ta thường ổn định và
cứ thế lần ra lối thoát cuối cùng. Về phần tôi, tôi có thể nói rõ ngày
mà mọi chuyện kết thúc. Buổi sáng tháng Mười, vào lúc bình minh. Ngày mà
tôi sẽ chết.
Bởi vì tôi cũng phải nói về Léna. Và về những thiên thần.
Những
kẻ ngu ngốc như tôi chỉ hiểu những cú đánh đấm mà thôi. Sự đau đớn. Chỉ
khi nào mắt bị thủng thì họ mới bắt đầu nhìn thấy. Tất nhiên là đã quá
muộn. Không còn ai để thấy, cũng chẳng còn gì để thấy. Nếu không phải là
cái mõm khốn nạn của chính mình.
Khi Hélène xuất hiện trong đời
tôi, nàng xấp xỉ mười lăm tuổi. Nàng vừa “làm tình” với Rachmaninov
trước khoảng ba mươi người, ba mươi người sững sờ, đờ dại. Không hổ
thẹn, không ý tứ, với một sự hăng say mãnh liệt xuất phát từ tình yêu
lẫn cuộc chiến đấu chí mạng. Thêm một điều mà mãi sau này tôi mới hiểu.
Chính tôi cũng chưa đến mười bảy tuổi và tôi chẳng biết gì về ân ái cả.
Hiến thân cũng không. Chuyện đó xảy ra trong giảng đường của nhạc viện.
Khi Hélène đã buông phím đàn, một sự im lặng bao trùm sau đó. Cũng chẳng
có ai vỗ tay hoan hô. Tôi thấy ông thầy già hiếu chiến ngáp dài. Bản
thân ông ta cũng đang hoàn hồn. Tôi gần như chắc chắn là đúng vào ngày
đó, tôi đã quyết định không chơi piano nữa. Hélène học trên tôi hai lớp.
Chúng tôi định học nhạc với nhau. Cái cớ lý tưởng để đến nhà nàng chơi
vào những buổi chiều mùa đông, trong một căn hộ mà không khí làm cho tôi
rất vui thích. Tôi thích ở đó. Mẹ của Hélène, bà Doukas, tiếp đãi tôi
như một hoàng tử thất thế, lưu vong. Tôi bấm chuông là bà mở cửa và kêu
lên: “Các con ơi, Alexandre đến!”. Tôi thích bà kêu tên tôi với giọng
miền Đông ngọt ngào ấy. Trước đây, bà đã từng là diễn viên múa balê, giờ
bà vẫn còn giữ được dáng dấp và điệu bộ đi lại như nhón gót trên mười
đầu ngón chân. Quê bà ở Budapest. Chồng bà cũng thế. Chồng bà là nhà vật
lý thiên văn – là chuyên nghiên cứu về sao ấy. Ông chết trong một tai
nạn tàu hỏa hai năm sau khi đến Pháp, và hai tháng trước khi Hélène chào
đời. Bà Doukas gọi tôi là anh và năn nỉ tôi gọi bà là Anna. Tôi có thể
ép mình nuốt thứ trà vừa đen vừa đắng mà bà liên tục mời tôi, tôi không
phải trả giá quá đắt để có chỗ trong nhà họ. Giờ tôi vẫn tin là bà rất
mến tôi.
Chủ nhật, Anna Doukas hoán cải thành nhà chiêm tinh. Bà
có một quả cầu pha lê thật, thỉnh thoảng, bà mời tôi ngồi phía sau quả
cầu pha lê đó. Số phận mà bà tiên đoán cho tôi chỉ toàn may mắn và thành
công. Con đường hạnh phúc trải dài bất tận trước mặt tôi. Những lời
tiên đoán may mắn. Nếu bà thực sự đọc được tương lai, có lẽ không bao
giờ bà mời tôi đến nhà nữa. Có lẽ không bao giờ bà cho phép tôi bén mảng
đến những người con gái của bà, dù cách cả một dải thiên hà. Chính từ
miệng bà mà Hélène trở thành “Léna” và Marie trở thành “Maria”. Đó là
những cách gọi chứa đựng biết bao yêu thương.
Hoặc là những người
láng giềng sống trong chung cư bị điếc, hoặc họ là những người mê âm
nhạc. Chưa ai có lời ra tiếng vào bao giờ. Khi Hélène chơi nhạc, khi
những ngón tay của nàng lướt trên phím đàn, thế giới không còn như cũ
nữa. Bất cứ bài tập nào, bất cứ gam nhạc nào của nàng cũng mang một giai
điệu có khả năng làm cho chúng ta bay cao bay xa. Những bản nhạc khó về
kỹ thuật mà tôi phải mất hai tuần làm việc cật lực liên tục mới vượt
qua được thì nàng chỉ mất chưa đến hai tiếng đồng hồ. Nàng chơi dễ dàng
biết bao nhiêu! Điêu luyện biết bao nhiêu! Đó không chỉ nhờ tài năng.
Hélène có năng khiếu thẩm thấu âm nhạc để rồi sau đó có thể trình bày
lại. Đó là sự khác nhau cơ bản giữa một tay thợ thủ công, dù anh ta có
khéo léo đến mấy, và người nghệ sĩ.
Cho dù Hélène chơi nhạc phẩm nào đi chăng nữa thì nhạc phẩm đó cũng trở thành tác phẩm “của nàng”.
Tôi
chỉ còn nước ngồi xuống và thả mình theo điệu nhạc. Căng tai ra, mở to
đôi mắt, mở rộng trái tim. Tất cả những gì tôi được ban tặng là vẻ đẹp
và sự hài hòa. Ngoài kia là mùa đông, là gió, là mưa. Là lạnh giá. Tôi ở
đây suốt cả buổi chiều. Marie ở đâu giữa tất cả những thứ đó? Nàng ở đó
và tôi không quên.
Maria dịu dàng, kín đáo. Đó là bản chất của
em. Léna là vầng dương, Maria là ánh nguyệt. Hai chị em khiến tim tôi
bỏng cháy. Vào lúc đó, hình như chưa có gì chắc chắn. Marie là chị cả.
Em cùng tuổi tôi. Khi nghĩ đến điều đó, tôi buộc phải chấp nhận là giữa
Marie và tôi có nhiều điểm chung hơn là giữa tôi và Hélène. Hélène quyến
rũ tôi, nhưng chính trong ánh mắt sáng ngời của Marie tôi mới tìm thấy
sự yên bình. Một ánh sáng khác, một hào quang khác. Tôi khát khao được
đắm mình trong đôi mắt đó. Khi hai chị em chơi với nhau, tôi là hoàng tử
lưu vong hạnh phúc nhất.
Vâng, tôi có thể nói về thuở “hàn vi”.
Ba người chúng tôi. Không phải trong khu vườn rộng mênh mông, trước biển
khơi, chuyện trò trên ghế đu, mà trong phòng khách một căn hộ cũ rích,
giữa một cây đàn piano và viôlôngxen.
Không bao giờ nên tách rời các yếu tố.
Bà
Anna Doukas đáng kính đã đi gặp chồng mình trên những vì sao trước khi
nhận ra những tiên đoán của bà sai lầm biết bao nhiêu. Bà là người duy
nhất không để cho tôi có thời gian làm cho bà thất vọng.
Những
ngày đẹp trời, chúng tôi làm như những chàng trai cô gái cùng trang lứa:
chúng tôi đi biển. Những khu phố mùa hè. Nơi mà chúng tôi thích nhất là
một vũng nhỏ bị kẹp giữa những hốc đá. Sỏi hồng và be. Đủ chỗ cho cả ba
chúng tôi. Người ngoài cứ tưởng vũng đó là của chúng tôi. “Bãi biển yêu
tinh” là có thật. Léna đã đặt tên như thế.
Quỷ thật.
Nếu
chúng tôi không ở bên bờ biển, thì chắc chắn là đang ườn mình sưởi nắng ở
bờ hiên nào đó nơi bến cảng. Giờ tôi vẫn còn cảm nhận được dư vị của
nước chanh Gambetta. Tôi còn cảm thấy nắng táp lên da thịt mình. Tôi
ngồi giữa hai chị em. Tôi những muốn choàng tay ôm lấy cả hai. Vòng tay
bá cổ hai chị em. Tôi biết một số người tưởng cả hai cô gái đều thuộc về
tôi. Tôi không phản đối. Hẳn đó là ước muốn lớn nhất của tôi. Ngay cả
trong những giấc mơ của tôi, gương mặt của hai chị em cũng lẫn lộn nhau –
có Chúa mới biết tôi đã mơ bao lần. Tôi cảm thấy ngực tôi đủ rộng để cả
hai chị em ngả đầu lên đó. Nhưng thực tế là tôi chưa sở hữu được cô
nào.
Cuộc đời đã rành rọt với chúng tôi. Bệnh viêm họng tác quái,
tuy không nghiêm trọng nhưng đã khiến Marie phải nằm liệt giường vài
ngày. Ngay giữa tháng Tám. Chỉ cần tí chút thôi là mọi việc đã thay đổi.
Sự cân bằng bị phá hủy. Hélène và tôi cặp kè với nhau. Tò mò. Quyến rũ.
Xác thịt.
Sự thể đã diễn ra như thế.
Tôi thường tự hỏi:
Marie đã thực sự hết đau họng chưa? Em vẫn luôn tỏ ra gương mẫu. Không
khi nào em khiến cho sức nặng của tội lỗi và của sự phản bội đè nặng lên
chúng tôi. Em đã không đấu tranh. Em đã hi sinh mình, đầu ngẩng cao, nụ
cười phiền muộn trên môi. Em yêu mến chúng tôi.
Tưởng chừng như chưa có gì thay đổi. Gần như thế.
Điều
mà tôi biết, đó là ba mươi năm sau, con tim em vẫn mãi cô đơn, và tôi
vẫn luôn thấy lòng bình yên khi nhìn vào đôi mắt trong sáng của em.
Tôi
đã lấy Hélène. Chúng tôi còn trẻ. Chúng tôi đã quá nóng vội. Tôi đã đi
làm và đồng lương ít ỏi của tôi chỉ cho phép chúng tôi thuê một gian
phòng ba mươi mét vuông sát mái nhà. Trong căn phòng ấy chỉ có mỗi cái
giường đôi và một cái đàn piano nửa cánh sơn đen. Đêm, ân ái xong là vợ
tôi lại dậy chơi đàn. Tôi thiu thiu ngủ trong điệu valse của Chopin,
trong bản sonate của Bach, trong mắt tôi in dấu hình ảnh của Hélène ngồi
trên ghế đẩu, xoay lưng lại, trần truồng, tuyệt đẹp.
Chúng tôi đã từng hạnh phúc.
Đó
là thời mà tôi còn tưởng tượng Hélène trên sân khấu. Nghệ sĩ dương cầm
được mến mộ. Hàng nghìn người hâm mộ và hoa hồng phủ phục dưới chân
nàng, trên những sân khấu lớn nhất của hành tinh. Đến giờ tôi vẫn tin là
nàng có khả năng. Nhưng thời đó nàng không màng tưởng đến. Tiền bạc,
vinh quang không khiến nàng quan tâm. Nàng thường nói là nàng chỉ yêu
nhạc và tôi. Nàng thường nói tôi là khán giả duy nhất xứng đáng, khán
giả duy nhất mà nàng sẵn sàng chơi, chơi, chơi nữa và dâng hiến tất cả.
Tất cả những điều ấy, nàng nói với tôi thành lời, nàng nói với tôi bằng
những ngón tay, với những phím đàn. Làm sao nàng có thể nói dối được?
Nàng muốn có con với tôi.
Léna
muốn cho tôi những gì tốt đẹp nhất. Những đỉnh cao chói lọi. Nàng có
thể đưa tôi lên cao bằng tình yêu, bằng âm nhạc và bằng tất cả những gì
nàng có và chia sẻ với tôi. Chỉ cần tôi đồng ý đi theo nàng. Chỉ cần tôi
có cùng sở thích, cùng hy vọng, cùng mục đích. Cùng ánh mắt nhìn lên
đỉnh cao. Trong một thời gian, tôi đã có những thứ ấy. Và sau đó tôi đã
buông xuôi. Hélène đã phải đợi chờ sáu năm mới được làm mẹ. Đào sâu trí
nhớ, tôi có thể nói là tôi đã cho nàng đứa con đó, đứa con đầu tiên, để
bù đắp cho nàng. Như một cách để tự khôi phục danh dự.
Tôi đã bắt
đầu xuống dốc. Cuộc đời cảnh sát níu giữ tôi lại. Mỗi lúc tôi càng ít có
mặt, càng ngày tôi càng ít rảnh rỗi, về thể chất cũng như về tinh thần.
Tôi kéo lê những tối, những đêm. Khi tôi về nhà, Hélène giả vờ ngủ trên
phần giường của mình, còn tôi giả vờ tin như thế. Cây đàn piano lặng
tiếng cả tuần. Đơn giản thôi, Hélène quay đầu lại và nhận ra giờ nàng đã
trắng tay.