Gió trắng - Chương 06 phần 1
Chương 06: Phòng chờ
1
Điểm danh! Một, hai, ba…
Đêm.
Cả phòng giật mình nhốn nháo. Tia hồ quang xanh lè quấn thành những
chiếc phễu ánh sáng bay lượn quanh trần nhà một hồi rồi dừng lại, mở ra
một vùng trắng lóa. Có tiếng ai đó giục giã. Có tiếng người phân bua.
“Tôi ở lại”. “Tôi cũng vậy, tôi chờ…”. “Chưa, cháu còn nhiều thời gian
mà…”. “Đã nhủ đừng hối nữa mờ cứ hối, nóng bừng bừng ri chịu sao thấu!”…
Ồn ào. Xôn xao. Nức nở. Rồi cũng lặng. Ai cũng muốn chờ. Mặc dù con đường phía trước sẽ dễ chịu gấp trăm lần nơi đây.
Tiếng
chó hoang sủa lan quanh khu nhà oăng oẳng, tiếng mèo “mao mao” rùng
rợn. Một chốc rồi lặng. Nhưng cả đêm, lũ chó dường như không ngủ. Chúng
khịt khịt khe khẽ. Tai giỏng lên. Cảnh giác. Chờ đợi.
Lũ
quạ vừa vỡ tổ buổi chiều, kêu “quà quà” suốt mấy tiếng đồng hồ ngoài
hàng rào, giờ cũng im lìm biến thành những chấm đen thẫm trên cây, thẫm
hơn màu đêm nhờ nhợ của Matxcơva. Chúng chờ đợi.
Tất
cả đều chờ đợi trong căn phòng rất hẹp, cửa sổ nhỏ bằng nửa cửa sổ
những căn phòng bình thường khác. Không hiểu tay kiến trúc sư nào nghĩ
ra nó. Như thể tiện tay phác thảo ra một nhà kho chứa đồ cũ. Còn lại,
các phòng khác của tòa nhà đều vuông vắn, nhiều ánh sáng. Hành lang rộng
thênh. Tòa nhà cũ rồi, tỏa mùi là lạ. Mùi của thời gian xếp dày lên
nhau chồng chéo.
Tuy vậy, căn phòng vẫn được đánh số. Số 13.
Và
nắng từ ngoài vẫn tràn vào ô cửa nhỏ, khi mùa xuân đến. Và khung cửa
vẫn xanh. Nửa đêm về sáng, có con chim ở đâu đó dưới mái nhà cất tiếng
hót lảnh lót. Tiếng nước chảy róc rách trên mặt đất lúc tuyết tan, tiếng
những nhũ băng nứt vỡ, dù khẽ khàng đến mấy cũng vẫn vọng vào qua cửa
sổ bé xíu, khiến những ai đang ở trong phòng hẳn không thể không cảm
thấy nôn nao.
- Hồn về thôi…
- Sao được?
- Sao không được?
- Đường xa quá, không ai chờ vong…
Căn
phòng trở lại im phắc. Ánh sáng của buổi chiều chớm xuân mềm mại chiếu
vào chiếc tủ nhỏ. Trên mặt tủ. Trong tủ… Một, hai, ba…
Nắng điểm danh những con người. Đúng hơn là phần còn lại của những con người.
Những
bình tro to nhỏ khác nhau, kiểu cách khác nhau. Diêm dúa, họa tiết tỉ
mẩn. Đơn giản, mặt nhựa trơn. Chỉ giống nhau ở chỗ chúng đều nhẹ bỗng.
An
biết điều đó vì ngày nào cô cũng nâng lên đặt xuống gần hai chục chiếc
bình. Cô lau bụi cho chúng, chăm chú nhìn những bức ảnh. Đôi cái có ảnh
mặt đá khắc, một vài cái được ai đó cẩu thả dán bằng băng dính một chiếc
ảnh chứng minh thư cũ kỹ, vài ngày bụi đã phủ mờ. Mắt người trên ảnh
qua lớp bụi vẫn đen láy. Nhìn vào là bị hút chặt lấy, bị cuốn phăng vào
miền sáng lòa của ký ức.
- Không ai chờ, là sao hả bố?
- Bố mẹ cô ấy li dị từ lâu. Giờ có gia đình riêng cả rồi…
- Còn người yêu?
- Ừ có. Nhưng cũng vì thế mà chết.
- Con hiểu rồi… Chị ấy bị phụ tình.
Người cha thở dài:
- Anh ta đã có vợ bên nhà.... Tình hờ, vui giả mà đau thật!... Bố muốn dặn con…
- Con sẽ không yêu ai đâu. Con học thôi, bố ạ!
Chà,
cô bé, ngốc quá. Yêu ấy à? Thích lắm đấy em ạ. - Một tiếng cười vang,
dài, sảng khoái cất lên từ chiếc bình mang số 62. Ánh mắt người đàn ông
nhìn ra từ bức ảnh rất thẳng, trực diện. Một gương mặt hoàn hảo. Miệng
rộng, mắt sáng, mũi cao, tai Phật. Chỉ có cục yết hầu hơi nhọn quá mức
bình thường, nhô ra lộ liễu dưới cằm anh.- Yêu đi em à, để thấy cuộc đời
cũng đáng sống lắm. Im lặng một chút, anh nói thêm: - Chết, cũng đáng.
Anh
62 có vợ. Vợ anh còn trẻ và xinh. Nhưng chị ấy không vào thăm anh. Chị
bận đội đơn đi khắp nơi. Chị bước ra từ Metro Frunzenkaya, rẽ trái, mắt
nhìn xa như nhìn thấy được cái gì đặc biệt đằng sau những dãy nhà xám và
những con người đang gõ giày hối hả trên đường, bàn tay nắm chắc cái
giỏ. Trong cái giỏ có mấy con cá hồi rất to, và một đống ruột cá hồi,
cái thứ cho vào nồi lẩu một lúc đưa ra là ăn sần sật, ngậy ngậy, đặc sản
của miền duyên hải nước Nga. Cá ấy chị mang đi biếu. Chị thật ngây thơ.
Cứ như thể cá và ruột cá có thể lấy lại được công bằng cho anh! “Nhân
chứng còn đó. Chỉ cần người ta quan tâm..” - chị nghĩ.
Ngồi
đây, nhưng anh biết hết những gì chị làm. Và anh biết, một ngày chị sẽ
kiệt sức. Nhưng chị vẫn đi. Dáng đi nhẫn nại, bàn tay qua một mùa đông
bị cước vì không đeo găng để đếm tiền chợ, phồng trắng rộp.
Ban
đầu An sợ anh 62. An nghe được anh rên, răng nghiến kèn kẹt, khí lạnh
bay rần rần từ trên nóc tủ xuống. Anh cảm thấy bất lực. Một thời anh nổi
tiếng ở thành phố ấy, là soái! Giờ, anh là gánh nặng tinh thần của vợ
anh. Họ lấy nhau ba năm mà chưa dám có con, vì anh còn bận làm ăn. Anh
và chị đã từng nằm bên nhau trong nhà nghỉ ven biển ở Sochi, nghe tiếng
sóng đập vội vội vào bờ kè đá cuội, lần lượt đặt tên cho những đứa con
và tính toán tương lai của chúng. Giống như hồi bé đọc một cuốn sách,
anh hay sốt ruột lật trang cuối rồi mới lần trở lại… Bây giờ anh ước ao
được bắt đầu lại từ đầu, anh bảo An vậy. Anh sẽ cho chị những đứa con
trước, rồi mới đặt tên, và cuối cùng mới là nghĩ đến tương lai! Tương
lai, anh nghĩ là gì? Anh không biết. Hồi đó anh biết chắc, là tiền. Anh
đã lao vào tương lai như thế. Lập công ty, thu hộ chiếu để làm khẩu. Rồi
tiền, rồi cạnh tranh… Vô nghĩa tất! Một mồi lửa bất ngờ trong đêm anh
đánh xe về muộn. Những gương mặt thú, những gương mặt quen. Chiếc xe BMW
láng coóng cùng người chủ của nó đã cháy rụi. Kẻ giết người thâu tóm
toàn bộ khu chợ. Kẻ giết người vẫn ở đó, trâng tráo giả lả gật đầu chào
vợ anh, mắt nheo nheo.
An
liều mạng mở nắp bình, có một vòng dây thép niêm phong lấy lệ. Tro tàn
đây, phần nào của người, phần nào của xe? An khẽ đặt ngón tay vào lớp
tro bên trên, gắng truyền hơi ấm vào đó. An không sợ. An chỉ thấy
thương:
- Đừng buồn. Dù sao anh còn có tình yêu! Chị ấy yêu anh quá!
An thì thầm, gần như ghen tị.
2
An
phân biệt những lọ tro bằng năm sinh, như thế dễ nhớ hơn, như những mã
số. Lạ thay, trong phòng không ai cùng năm sinh với ai.
Mùa
xuân đến, An mở rộng ô cửa bé, muốn đập tung cả bức tường vô duyên ngắn
ngủn để nắng vào nhiều thêm nữa. Cô kê cái ghế nhỏ ngồi nghe chuyện,
lần lượt, chị 70, chị 72, anh 62, anh 67, cậu bé 81, bác 40, cô 53, chú
58... Cô lắng nghe hàng giờ, cứ như thể ngoài kia các mầm non không cựa
quậy, và nắng không đánh thức những vạt hoa đầu mùa.
An
thương nhất cậu bé 81, chiếc lọ có tấm ảnh chụp cậu bé hồi mới lên 8,
non non, đen nhẻm. Dòng chữ trên lọ ghi “hưởng dương 10 tuổi”. Cậu là
nạn nhân của một vụ tống tiền. Sau sự kiện đau buồn xảy ra với đứa con
duy nhất, cha mẹ cậu chia tay. Cha đi mất hút tỉnh khác, mẹ lấy một ông
Tây, ở lại đây làm ăn, nhưng cũng không tiện qua lại chăm nom. Em phải
nhắc mẹ em mới nhớ ngày rằm mà thắp hương cho em về chơi. Người Nga họ
không dùng hương, họ chỉ dùng nến… Mà mẹ em hay quên, em về gặp mẹ trong
mơ, sáng dậy đôi khi mẹ cũng quên ngay, chán ghê! An nghe chuyện chẳng
biết làm sao, chỉ hì hụi thắp thêm hương vào bát hương ngăn tủ dưới,
“dãy nhà” của cậu.
An
thân nhất với chị 72. Trong khói hương, An luôn nhìn thấy gương mặt
mong manh của chị, nét cười có lúm đồng tiền, hoang hoang những tia man
dại trong mắt. Chị kể chuyện nhiều. Chị nghĩ ngợi cũng lắm. Như bất kỳ
các cô gái nào khác có cái nhìn nhưng nhức khiến người đối diện bất chợt
thấy đau buốt trán, điểm nằm giữa hai chân mày.
Đấy, như bây giờ, An nghe thấy chị đang quằn quại dằn vặt vì một dạng âm thanh của ký ức. Tiếng nhạc!
Cha...
Điên cái đầu mất. Tiếng nhạc! Tiếng nhạc ở đâu vậy kìa? Từ hàng ngàn
giọt nước thoát ra trong đám hơi trên mái nhà? Từ tiếng gió rít du dương
ngoài khe cửa? Từ tiếng thở của lau lách đầm lầy trên đất nước thăm
thẳm đất đen và hun hút những con đường lạ liên tục đổi màu? Tiếng nhạc
quen thuộc này luôn réo rắt trong đầu tôi. Mất hơn hai năm tôi mới nhớ
được ra, đó là đoạn nhạc trong vở balet Zizel(1). Ánh sáng xanh. Trăng.
Đầm nước. Những bông lilia trắng muốt rơi lả tả trong tiếng nhạc ma
quái. Bây giờ, mỗi lần tiếng nhạc cất lên là tôi thấy mình mọc cánh,
thấy mình bay lên, thấy mình múa lượn… Chỉ thiếu một người đàn ông… Chỉ
thiếu anh ta! Còn điệu nhảy của tôi thì mỗi năm mỗi hoàn thiện. Chỉ cần
anh ta xuất hiện. Tôi sẽ khoác chiếc váy nhợt nhạt ánh trăng, mắt tôi sẽ
rực sáng, tay tôi sẽ lả lơi, cánh tôi sẽ rời rã, tấm thân sẽ mềm mại
quấn lấy anh ta trong điệu nhạc bất tận… Nhưng vũ điệu này chúng tôi
không nhảy bên đầm lầy, mà ở những un hút dài… Hành lang… Hành lang...
Quẹo trái, sang phải. Những dãy hành lang treo dây áo len, áo da, quần
bò… Đủ số. Thiếu số. Áo gió. Áo phông con rết. Con nhím. Áo pilot. Áo nữ
hoàng….
1: Zizel: Vở ballet kể về những cô gái trinh
bị phụ tình, cứ đêm đêm hiện lên bên đầm lầy, nhảy một điệu múa ma. Nếu
khi ấy có người đàn ông nào lạc đến đó sẽ bị cuốn vào điệu nhảy cho đến
sáng, kiệt sức mà chết.
Kết
thúc điệu nhảy, là những bức tường loang loáng và những gương mặt người
tròn méo, mặc áo blu trắng vật vờ. Cổ tay trái tôi đau buốt. Máu tràn
ra không dứt. Những đường gân xanh trổ dọc ngang đau đớn...
…
Tôi len lỏi qua những gương mặt người trắng bệch vì cớm nắng, qua một
mùa đông dài chỉ chúi mũi vào các ốp(2), không cả ngẩng lên nhìn quanh.
Một cặp vừa sinh con vài tháng, đến làm giấy khai sinh. Con gái, rất
xinh.. Họ ở trong khu Salut 2, làm hàng khô tầng dưới, nhà ở tầng trên.
Đó hẳn là một căn phòng rất nhỏ có lớp giấy bồi tường cũ kỹ thấp thoáng
bóng những con gián bé dạn người. Cô bé đáng yêu này sẽ lớn lên ở đó,
nơi thừa tiếng ồn và thiếu không khí, người lớn trong nhà cũng không dám
thở những nhịp bình thường. Cô sẽ lẫm chẫm tập đi trên các hành lang
chật ních quần áo giữa những tiếng chào mời đẩy đưa. Đi học, học giỏi,
rồi đi làm, và sẽ yêu… Nhưng những cái hành lang hẳn rồi mấy chục năm
nữa cũng sẽ ám ảnh cô, như tôi.
2: Ốp: viết tắt của từ
ký túc xá tiếng Nga, cũng có nghĩa là nơi ở tập trung của những người
Việt Nam ở Nga, sau này Ốp còn mang nghĩa là trung tâm buôn bán của
người Việt.
Thở ra một hơi lạnh, tôi bay vội về phòng mình.
Bé
An đang thắp nhang. Một giọt nước lăn trên má. Tôi vươn tay ra. Giọt
nước rơi qua lòng tay tôi xuống đất. 18 tuổi, cô bằng tuổi tôi khi đặt
chân đến nước Nga. Cha của cô là bạn cùng phòng tôi, một người đàn ông
mới qua tuổi 50, một thượng tá quân đội. Ông mất vì ung thư, rất nhanh,
chỉ tròn một tháng sau khi có kết quả xét nghiệm. Con gái chưa kịp hiểu
điều gì đang đến, thì ông đã đi. Hai năm rồi, cô vẫn rơi nước mắt. Nước
mắt làm hồn nặng trĩu, không thể bay lên. Nhưng lẽ nào người cha có thể
nói với cô điều ấy!
Ngược
lại, nếu không còn một ai muốn nhỏ nước mắt vì mình nữa, thì hồn cũng
không đi nổi. Cõi này cũng cần trải qua nhiều thủ tục phiền phức chẳng
kém cõi dương. Thiếu một ý nghĩ, thiếu một bàn tay thành tâm thắp nén
nhang, thiếu sự giao tiếp đàm tâm của hai cõi âm dương, không ai có thể
đi tiếp được...
An
trò chuyện với bố, gần như hàng ngày. Rồi ý nghĩ của cô chạm đến cả
chúng tôi. Ban đầu rất dè dặt, càng ngày càng nhẹ nhõm, thông suốt. Đôi
khi những ý nghĩ cũng có tiếng vang lanh lảnh, như tiếng chuông, như
tiếng vọng của một miền vui nhộn ồn ào chúng tôi từng biết. Tôi những
muốn mỉm cười. Tôi những muốn khóc. Tiếc thay không còn hình hài để nụ
cười và nước mắt được hiện hình!
3
- Chị 70…
- Ơi…
Cái
tiếng “ơi” vang vọng từ đâu đó trên tầng không nghe mới da diết đáng sợ
làm sao. Nó hớn hở mừng rỡ, là tiếng “ơi” của người nhiều ngày chỉ đợi
một tiếng gọi:
Chị
70 thường hay thút thít, vào những ngày trời u ám. Gương mặt trên ảnh
của chị cũng u uẩn, u uẩn đến nỗi có khi… ma cũng phải sợ. Chị sang Nga
để tìm đường đi Đức, đi lần đầu bị kẹt ở biên giới, bị “na-dạt”(3), sau
mãi không đi được, ở lại, buôn xanh(4) từ ốp nọ sang ốp kia. Một ngày,
xe taxi Niva cũ chị vẫy giữa đường bị chiếc xe tải khuỳnh khoàng húc vào
từ đằng sau. Cảnh sát kết luận, tài xế say rượu. Nhưng trong cơn say,
gã ta cũng kịp trốn đi cùng cái túi xách đen của khách. Người ta bảo có
đứa “phím” cho Tây. Buôn xanh buôn đỏ(5) độc lắm, chết bất đắc kỳ tử như
chơi. Chị nằm nhà xác rồi mà còn có người đòi nợ đến bệnh viện hỏi
thăm. Số tiền trong túi phần nhiều là của người ta. Chị cũng có muốn vậy
đâu. Nhiều ngày, An nghe chị khóc lóc ân hận. Em ơi, chết đi để người
ta nhớ thì mới siêu thoát được, bị người ta oán khổ lắm em à. Mà chị đâu
có muốn vậy. Chị chết rồi, nhiều người vẫn nghĩ chị kịp tuồn tiền về
nhà cho chồng. Chị đánh đổi cuộc sống lấy tiền sao hả em? Không ai nỡ
nghĩ vậy đâu, chị. An an ủi, nhưng chính cô cũng không tin vào lời nói
của mình.
3: Na-dạt: Quay lại.
4: Xanh: từ lóng chỉ đô la Mỹ.
5: Đỏ: từ lóng chỉ vàng.
Mỗi
khi An thắp hương, những làn khói rất lâu không tan đi, cô đặc, co cụm
buồn bã. Những người còn lại trong phòng, có người chết từ cái thời Liên
Xô chưa tan rã, ngơ ngác khi An nhắc đến những chuyện xảy ra mới hơn,
chuyện đôm(6) 10, đôm 11, chuyện chợ Vòm...
6: Đôm: nhà, được dùng với nghĩa Trung tâm chợ, buôn bán của người Việt.
Đôi
khi họ chơi trò nhập hồn vào đường dây điện, làm đèn sáng chập chờn vào
sẩm tối những buổi chiều mùa đông. Khi ấy chỉ có mẹ con bà quét rác là
còn làm việc. Họ thảng thốt nhìn những đốm sáng lom rom cháy lên rồi
phụt tắt dọc các sảnh của ngôi nhà. Bên ngoài tuyết ẩm rơi ào ào. Buồn
cháy ruột.
Nhưng
ông gác cổng của khu nhà lại hay kể với An, hằng đêm có người hát ở
ngay cầu thang tầng hai. Giọng lè nhà lè nhè, nhưng vang lắm. “Vì thế
bác phải nuôi đàn chó hoang này trong sân. Chúng nó nghe động sủa lên,
ma hay người đều sợ tuốt, hết hát ngay!”. An thừa biết ông ta dụ chó
hoang vào sân làm gì. Bà vợ vẫn thỉnh thoảng nhờ người lên ốp mua riềng
tươi.
Vì sao, bố nhỉ? Chẳng lẽ kiếp người ở xứ lạ buồn vậy sao?
Đừng nghĩ thế, con hãy nhìn thấy cả những niềm vui!
Ở đâu, hả bố?
4
Có
ai đó thở dài. Chiều chạng vạng, đứng trong hành lang tranh tối tranh
sáng của sứ quán, hai vợ chồng kiên nhẫn xếp hàng đợi làm giấy khai sinh
cho con. Trước họ còn gần chục người nữa, ngồi im lìm trên mấy chiếc
ghế, chừng như đã mệt mỏi vì chờ đợi. Một vài người cầm tờ báo in giấy
trắng cỡ A4 có dập ghim đã nhnhếch do truyền tay, hí hoáy chơi ô chữ.
Một ông tóc bạc úp tờ báo cũng kiểu như thế vào mặt, đầu ngoẹo trên lưng
ghế, ngáy khe khẽ. Những tờ báo có những cái tên thường rất kêu, Nhân
Hòa hay Ngày Mới gì đó.
Hai
vợ chồng không ngồi, đứng kiên nhẫn cạnh ô cửa sổ nhỏ nhìn vào phòng
Lãnh sự. Người chồng cằn nhằn với vợ, đã bảo ở nhà trông hàng, không
chịu, đi thế này mất hết cả buổi chiều. Con gái thì gửi bà nhianhia(7)
đã một tháng nay. “Dù gì cũng con đầu, bố mẹ cùng đi khai sinh không
phải tình cảm hơn à?” - Chị vợ dịu dàng phân bua. “Vẽ chuyện!” - Anh
chồng lẩm bẩm: “Biết lâu thế này nộp béng tiền cho dịch vụ, có mấy chục
xanh mà nhanh việc”. “Thế thì đẻ cũng nhờ dịch vụ luôn đi!”. “Ý hay!” -
anh chàng đùa nhả.
7: Nhianhia: nhũ mẫu, người trông trẻ.
An
chạy lên tầng ba lấy chìa khóa, đi ngang qua họ, thấy vui vui bèn dừng
lại. Ngó qua cửa, An thấy người đàn ông đứng tuổi đang hí hoáy viết, cộp
dấu, lầm bầm với một thanh niên đeo kính đứng cạnh:
- Hôm nay đông thế nhỉ?
- Đông thì đông, cứ năm giờ là đóng cửa, tự giải tán. Anh làm gì mà lâu thế?
- Giấy chứng tử.
- Lại chết người à? Tai nạn hay bệnh?
- Chết trong tù. Bệnh lao. Hai mống.
- Trời ẩm thế này dễ viêm phổi lắm. Tù mà không có tiếp tế áo ấm thì dính là chuyện thường. Phạm tội gì?
- Đòi nợ thuê. Dân ốp Zil… Bị án mấy năm rồi.
(Người chồng giật thót, quay ra nói với vợ: - Ốp cũ của mình em ạ. - Ai nhỉ, có phải ở phòng…?)
- Nhà có ai sang đón không?
- Không. Chưa… Mấy hôm nữa đưa tro về đây.
- Chậc, rồi đến lúc hết chỗ. Cái phòng khí chật!
- Ồi, cũng phải tính xóa sổ cái phòng ấy thôi. Rợn lắm! Khóa chặt mà vẫn thấy lạnh lưng mỗi lần qua tầng hai!
An đứng dậy, hấp tấp lao xuống tầng dưới.
5
SOS... Có chuyện rồi!
- Alô, chìa khóa phòng 13 để đâu, sao cửa lại mở toang ra thế này? Con bé An à? Gọi nó lên đây cho tôi!
….
- Thưa chú, cháu…
- Cháu thắp hương xong sao không khóa cửa lại mà để hương khói bay hết ra ngoài, còn gì là chỗ làm việc nữa?
-
Dạ, cháu... Cháu xin lỗi chú. Lúc trưa có một anh muốn vào thăm bạn,
cháu lại phải đi học gấp nên đưa chìa khóa, nói anh ấy xong việc thì đưa
cho cô Lanh rồi...
-
À, có phải cái thằng cao cao gầy gầy, má hóp môi thâm, mặc vét carô xám
không? Cả tuần nay đến năn nỉ xin mang tro của bạn về nước, nhưng không
giải quyết được. Phải đợi gia đình có ý kiến hay ủy nhiệm gì chứ! Cô
Lanh đâu?!
Căn
phòng nhỏ đã nhanh chóng được khóa lại, nhưng trước đó cũng đã có một
túm người đi làm giấy tờ hộ chiếu, tò mò ngó vào. Và điều kinh hoàng
nhất đối với An là mất tích một lọ tro! Lọ tro của anh 69, một lưu học
sinh, mặt đẹp như tượng David, mất vì ngã từ trên tầng 8 ký túc xá sinh
viên xuống, trong một đám cháy. Đúng hơn là anh nhảy xuống. Theo hồ sơ
còn lại ở y tế trường, thì trước đó, sau lần gặp bọn thanh niên choai
choai xin thuốc, anh không có mà cho, bị chúng hò nhau nện giày vào
bụng, anh rơi vào tình trạng trầm uất liên miên, hay lo sợ, thậm chí chỉ
một điểm 3 cũng khiến anh mất ăn mất ngủ mà lang thang dưới sân rất
lâu. Hôm cháy, chỉ chập điện tầng một thôi, nhưng có lẽ khói mù lên làm
anh quá hoảng hốt. Người ở tòa nhà đối diện bảo thấy anh kêu cứu. Rồi
loay hoay rất lâu bên cửa sổ. Bấy giờ cửa sổ nào cũng ngập hơi khói.
Buổi
trưa hôm đó, một thanh niên lạ ăn vận rất lịch sự đến tìm An. Không
hiểu sao anh ta biết cô có giữ chìa khóa phòng, và xin được vào thắp
hương cho bạn. Cô đồng ý ngay. Anh 69 thường ít liên hệ với cô nhất.
Chuyện của anh, cô nghe lỏm được ở phòng Lãnh sự. An chỉ thấy ánh mắt
anh sâu hút trên bức ảnh. Anh còn ai ở quê nhà? An tự hỏi. Chắc không
còn ai, vì ánh nhìn của anh hoăm hoắm, cô độc.
An lập bập khấn bố. Bố ơi, làm sao bây giờ?
Làn hương khói khẽ khàng trườn qua cửa phòng An vừa để hé. Rất khẽ, như sợ ai bắt gặp.
An
yên tâm ngồi lại. Căn phòng tối dần. Bóng tối làm gian phòng như rộng
hơn ra. An chờ đợi mà không hiểu cụ thể mình đang đợi điều gì.