Gió trắng - Chương 05

Chương 05: Cây cải Tashkent

Trong
cả một nghìn mét đất trồng cải thì cây cải này lớn nhất. Không, nói lớn
cũng không phải, mà là khổng lồ. To cao gần bằng đứa trẻ lên bảy lên
tám, tay lá xòe như lá chuối, màu xanh đậm. Bẹ thì chắc lẳn, rắn đanh,
két đầy đất… Những ngồng cải vươn cao kiêu hãnh, đã ra hoa vàng.

- Chà, giống cải Tashkent! - Tôi thốt lên.

-
Có sự lạ, chứ cải Tashkent có to cũng chẳng to được đến thế. - Galia
vừa thoăn thoắt nhổ cỏ, vừa thủng thẳng nói. Cô là người làm công cho
tôi (còn tôi lại làm công cho ông chủ của tôi, ở trên Mat.). Galia khá
chăm chỉ, có điều hay vòi thêm tiền lương mỗi tháng. Đôi mắt xanh biếc
có cái nhìn của người Tiểu Nga, nhẫn nại và chân thật, nhưng suy nghĩ
thì đã không còn hồn nhiên như những ngày đầu mới gặp tôi. Bây giờ, cô
biết khi nào nên đòi tăng lương mà tôi không thể từ chối được, khi nào
im lặng chấp nhận mức lương cố định không thêm không bớt mà tôi đã đặt
ra cho cô, có tính thêm phụ cấp sắc đẹp. Nói thực ra thì, hồi mới sang,
tôi thấy gái Tây cô nào cũng xinh. Đến hơn một năm thì tôi đã phân biệt
được thế nào là “Tây xinh”, thế nào là bình thường. Galia thuộc vào loại
bình thường. Mũi cao như… Tây. Mắt sâu, mặt trắng, răng đều, lông mi
rợp. Nhưng chỉ thế thôi, chứ không phải đẹp. Cười không rạng rỡ. Nói
không dịu dàng. Dáng đi tất ba tất bật. Hông to và xệ… Nhưng cũng không
vì thế mà tôi nỡ cắt đi khoản phụ cấp đã trót đặt ra với cô ngay từ đầu.
Tôi thầm đổi tên khoản ấy, gọi là phụ cấp nghề nghiệp, đền bù cho đôi
tay xước xác vì hàng ngày phải tước lá nhổ cỏ, chăm bẵm cho những thứ
rau kỳ lạ của đất nước tôi đang gắng sức vươn lên, sống được ở nơi này.
Đất tốt, cây dại mọc nhanh và khỏe, lúc nào cũng chực nhấn chìm rau Việt
trong thứ cỏ hoa nồng nàn mạnh mẽ của mình.

Năm
nay, tôi thử nghiệm một giống cải mới, có vẻ gần gũi hơn với đất Nga mà
bà con ta vẫn chấp nhận. Cải Tashkent. Tashkent vẫn là vùng nóng ẩm,
nhưng dù sao cũng vẫn là “Tây”, thuộc nước cộng hòa cũ của Liên Xô, ắt
hẳn khỏe hơn nhiều cái anh cải xanh cải ngọt của ta. Lý luận của tôi là
thế! Hạt giống cải đánh từ Việt Nam sang, cây mọc lên còi cọc, chưa lớn
đã trổ hoa vội vàng.

Giờ,
mới trồng thử một nhà kính, mà đã được cây cải khổng lồ. Những cây khác
cũng to mập, nếu để muối dưa thì tuyệt. Hay quá, vụ này, tôi sẽ xui chủ
rau không bán cải mà bán dưa, đảm bảo đẩy bật khỏi thị trường hàng dưa
Thái đóng túi bóng, vàng một màu vàng đáng ngờ, chua loét lại lờ lợ mùi
đường hóa học.

- Cô không tưới nó bằng cái quái quỷ gì đấy chứ, Galia?

-
Cái gì là quái quỷ? - Galia cười, chắc cô ta cười cách dùng từ vụng về
của tôi. Con gái con đứa gì mà cười cứ há hoác cả miệng ra, thoải mái,
vô tư! Tôi hơi khó chịu, nghĩ bụng, phải cho cô này về Việt Nam học cách
ăn trông nồi nói cười trông mặt người đối diện.

Hết cơn cười, Galia nghĩ ngợi một lúc rồi bảo:

- Anh hỏi hai thằng bom-zhờ của anh ấy, biết đâu chúng nó tưới cái gì buổi đêm thật, tôi biết sao được!

Bom-zhờ,
tiếng Nga là viết tắt của từ “không nơi thường trú”, chỉ mấy người lang
thang vô gia cư, vô nghề ngỗng. Ở trại rau này, tôi nuôi hai “đồng chí”
bom-zhờ, còn khá trẻ, mặt non nớt, đầu trọc lốc, một cao nhẳng, vai
trái xăm hình con công đang xòe cánh, một tầm thước, mắt lúc nào cũng lơ
mơ như đang sắp chìm vào cơn ngủ, người vạm vỡ, gân cơ nổi cuồn cuộn,
Lý Đức nhà mình còn phải gọi bằng anh! Tôi tình cờ thửa được hai chú này
ở phòng của chủ tịch nông trang, khi các chú đến xin việc, vò đầu bứt
tai nói không nổi một câu xin xỏ cho ra hồn. Đến khi hiểu ý định của hai
chú thì chủ tịch nông trang xua tay lắc đầu. Nông trang đang thu hẹp
diện tích trồng trọt, đàn gia súc cũng giảm đi gần một nửa, lấy đâu ra
việc cho mấy chú! Thế là tôi được thể ra tay cứu vớt, cho các chú miếng
bánh mì ăn hàng ngày bằng việc trông coi trại rau của tôi gồm 8 nhà kính
thuê được của nông trang với giá rẻ mạt và một cánh đồng trồng trăm thứ
bà rằn. Tôi cũng chẳng buồn hỏi hộ chiếu hay xuất xứ của họ. Hai gương
mặt còn rất non nhưng mang vẻ thờ ơ bình thản đến lạnh lùng. Hơi lạnh
của bộ mặt làm tôi rợn, không hiểu sao dám chắc hai bom-zhờ hôi hám này
sẽ dọa được bọn “phia nhí” địa phương, thế là đủ. Trộm thì tôi không sợ,
có lấy rau về cũng chẳng xài được rau muống rau bí nhà mình. Chỉ sợ bọn
phia thôn phia xóm mà tôi không chịu “nuôi”, nhỡ chúng nó ngứa mắt lại
phá rau của mình thì gay. Mà xì tiền ra trước thì thể nào chúng cũng
được thể lấn lướt, đòi hỏi. Vì thế nên tôi quyết định chơi rắn. Tôi bảo
các chú cứ ngủ ngày canh đêm. Đốt một đống lửa đuổi muỗi, pha trà trong
mấy chiếc ca nhôm nhỏ, thay nhau ngủ ở chòi gỗ…, hai anh chàng đã khiến
lũ vòi tiền giạt ra xa. Được một tháng, tôi phấn khởi biếu các chú một
thùng mì ăn liền, loại rẻ tiền thôi, chỉ có gia vị không có thịt thà rau
cỏ gì kèm thêm. Thế mà hai đứa có vẻ vui lắm, cảm ơn rối rít. Bình
thường cấm có hé răng câu nào. Tối đó tôi ở lại uống rượu đêm với hai
chú lính gác. Chòi gỗ. Vách gỗ thưa. Sàn gỗ cũ kỹ, kêu rọt rẹt. Một cái
bàn, hai ghế dài, một chiếc giường nhỏ xíu. Bình nước nhôm có vòi, nước
chảy nhỏ giọt vào chiếc chậu nhỏ để trên bệ gỗ. Một chút rượu Ggelka,
vài miếng bánh mì đen cũ đã bở, một ít củ cải vừa hái dưới ruộng, rửa
qua thái miếng, vị hăng hăng ngòn ngọt quện với vị cay của vodka… thế là
gan ruột tự dưng cứ trút ra với nhau, cho dù tiếng Nga của tôi chưa
phải là “dài”.

-
Anh sang đây chỉ để trồng rau à? - Vlad, anh chàng xăm hình con công
múa bắt chuyện với tôi. Tôi chả gật cũng không lắc. Tự dưng lại buột
miệng:

- Tao là bộ đội.

-
Bộ đội? Chúng tôi cũng thế! - Lần này đến lượt Vlad buột miệng. Cậu ta
chợt nhớn nhác nhìn quanh, rồi thở dài, cầm ca rượu lên dốc cạn. Khà một
tiếng, thả miếng củ cải vào miệng, nhai rau ráu…

Tôi
cũng vớ một củ, vừa nhai vừa nghẹn. Vị cải hăng buốt lên tận óc, khiến
tôi hơi choáng váng. Chiêu một ngụm vodka, tôi gắng nuốt cục ứ ở cổ,
không rõ là miếng củ cải mắc lại hay là cái gì. Đôi khi tôi ăn cơm cũng
hay nghẹn, nhất là những buổi ăn tối một mình.

Sương
mù giăng thành một dải lụa trắng trên cánh đồng. Tôi nhớ cánh đồng làng
tôi buổi sớm mờ đất, cũng một lớp sương giăng. Hơi rượu làm tôi dễ thở
hơn, bắt đầu nói, tiếng Việt, tiếng Nga lẫn lộn:

-
Tao là bộ đội. Trước chỉ có chiến tranh, vào lính thì đi bộ đội. Nay cứ
lang thang bất hợp pháp xứ người, không đoàn không hội, thì gọi là bộ
đội. Như lính ấy mà, đi làm “nhiệm vụ” cao cả là cứu mình cứu nhà…

Hai
cậu thanh niên chắc không hiểu gì, mặt ngơ ngơ ngác ngác, nhưng vẫn gật
gật với tôi, ra chiều thông cảm. Cậu chàng người vạm vỡ, tên là Andrei,
mỉm cười:

- Chắc anh nhớ nhà?

-
Nhớ. Nhớ chung chung thôi. Bố mẹ tao mất cả rồi. Chỉ còn ông anh cả.
Thế bọn mày, bố mẹ ở đâu, quê đâu mà lại phiêu bạt đến đây, chẳng có
nghề có ngỗng gì cả thế này?

- Chúng tôi mồ côi.

- Từ trại trẻ ra à?

- Vâng, gần như thế.

- Sao lại gần như? Thế nào là thế, chứ gần như là thế quái nào?

Một
thoáng ngần ngại, rồi gần như cùng lúc, Vlad và Andrei đồng thanh nói,
cùng nói rất nhỏ, nhưng cộng hưởng của hai tiếng nói trẻ trung khiến
thông tin mang lại vang lên rất to, như một tiếng chuông gõ trên đỉnh
đầu:

- Mồ côi, đi lính, đào ngũ!

Hả?
Chết cha! Quân cảnh ở Nga làm việc nghiêm lắm. Họ mà phát hiện ra, kỷ
luật nặng, có khi người tòng phạm cũng liên lụy chứ chả chơi. Tôi bối
rối hỏi:

- Sao lại đào ngũ? Khổ quá à?

-
Không, sợ phải đánh nhau. Mấy năm trước trung đoàn chúng tôi đã đi
Chechnya một đợt rồi. Lần này đi Tskhinvali, lành ít dữ nhiều.

Andrei đế thêm:

- Đi Chechnya về, chết đến cả một phần ba trung đoàn.

- Sao lại để chết? Không được huấn luyện tập tành gì sao?

- Có, nhưng ít. Lính lấy từ trại trẻ nhiều lắm, họ tiếc gì chúng tôi, có ai chờ đợi ở nhà đâu!

-
Sao không ai chờ? - Tôi ra một câu hỏi ngu. Mà thực ra cũng chẳng ngu.
Chỉ là một câu hỏi, có thể đặt ra cho bất cứ ai trên đời, kể cả tôi. Tôi
cũng vậy, có ai chờ tôi không, ở quê nhà? Tôi chợt thấy bóng Thoa, cô
bạn gái từ hồi phổ thông, đang đứng hoang mang nhìn tôi, từ phía bên kia
dải lụa sương trắng đục. Cô lắc đầu. Phải rồi, tôi đi xa thế, và chẳng
hẹn rõ được ngày về. Làm sao người ta đợi được tôi! Giá thời chiến thì
chắc cô đã một lòng hẹn ước, đợi tôi cho đến cả khi tôi đã chết đi rồi.
Cô sẽ đi tìm hài cốt của tôi. Thậm chí, kể cả lúc cô đã lấy chồng, sinh
con, rồi già đi, cô vẫn tìm và vẫn đợi tôi.

Nhưng đây là thời bình. Những sự đợi chờ, hò hẹn của người đời đã trút đến kiệt cùng vào những cuộc chiến.

Sau
cái đêm sương ấy, tôi chăm sóc hai anh lính của tôi hơn. Và cũng nhắc
nhở hai cậu kín đáo hơn, cố gắng chỉ loanh quanh ở trại rau, tránh ra
mặt. Tôi nhắn lên Mat nhờ người khuân về cho họ gần chục thùng mì. Rẻ
bèo ấy mà, so với những thức tôi vẫn ăn hàng ngày. Làm công ăn lương,
quanh năm ở lì dưới vùng ngoại ô này, chỉ việc trông coi rau cỏ, chỉ đạo
thu hoạch thôi nhưng cuộc sống của tôi cũng đã đầy đủ lắm. Sáng có bánh
mì bơ mua ở cửa hàng thực phẩm đầu thôn, sữa dê mua của bà lão Nata
chăn dê, chẳng qua xử lý nhào nặn gì, cứ thế là uống, nghe bảo bổ lắm.
Trưa chiều ăn tối trong căng-tin của nông trang. Hứng chí lên, vẫn có
thể cho phép mình mua chục cân thịt cừu tươi, ướp hạt mùi thơm nức rồi
rủ rê cánh đàn ông đàn bà khu nhà khách cùng đi nướng shashlyk. Chỉ có
điều, niềm vui thú hứng khởi sao mà nhanh hết! Nuốt miếng thịt béo thơm
lừng qua cổ, là đã thấy lại ngay cái buồn thắt ruột thắt gan mà chỉ có
vodka mới đẩy nó xuống tận đáy cùng của con người mình được.

Vlad và Andrei thì trường kỳ mì tôm

Còn
Galia, người cô thường thơm phức mùi bột mì rán. Món tủ của cô là món
bánh nhân hành tây. Ngon, phải nói là rất ngon. Nhưng mãi cho đến sau
này tôi vẫn còn ngửi thấy cái mùi thơm ngậy ấy mỗi buổi tối đi xuống
bếp, đậm và rõ nét đến nỗi tôi phải rùng mình buồn nôn. “Cô không có món
gì hơn à? Thịt đâu?” “Có chứ! Nhưng lần nào anh xuống cũng đúng lúc tôi
rán bánh hành. Món này là món gia truyền của nhà tôi, ngày nào không ăn
tôi không chịu được!” - Galia nói, mắt ánh nét xanh lóa lên, như mắt
một con mèo trong đêm. Tôi thấy hơi sợ cô. Có lẽ một phần vì cách sống
khắc khổ của một cô gái mới hơn hai mươi tuổi, có hơi thở thơm mùi bánh
nhân hành và bộ ngực mềm mại đầy sức sống. Nhưng đôi bàn tay thì chai
sạn gân guốc. Chân cũng thế, gân xanh nổi chằng chịt. Cô làm việc rất
hăng. Nhận làm cho nông trang, nhận làm cho tôi. Việc ngoài giờ ai nhờ
lau dọn toa-let hay đan len đan áo (có thù lao) là cô nhận tuốt. “Kiếm
tiền lấy chồng à?” - Tôi chọc. Galia lại cười to, ha hả, cái kiểu cười
thật không nữ tính chút nào!

Một
đêm, trăng sáng quá, tôi không ngủ được. Thường không mấy khi tôi để ý
tìm trăng ở bầu trời này. Tôi nhìn xuống, nhìn ngang nhiều hơn là ngửa
cổ lên trời. Thế nhưng đêm ấy thì tôi thấy được trăng, vì qua cửa sổ tôi
quên kéo rèm, ánh trăng chiếu thẳng vào mặt tôi. Tôi cảm thấy mặt mình
nằng nặng, ươn ướt. Thứ ánh sáng kỳ diệu mà tôi đã quên từ lâu đang tràn
trề trên mặt, chảy vào miệng tôi những dòng ngọt ngào. Tôi bật dậy, mặc
quần áo ra đường. Từ hồi nhận “cắm rễ” ở vùng này một mình, tôi ít ra
đường ban đêm. Hoặc là ngủ lại ở nhà kính, hoặc là về phòng ở nhà khách
nông trang, đóng chặt cửa ngủ hoặc không ngủ, cho đến sáng. Dăm ba bận
có mấy lão say về muộn, đi ngang phòng tôi đập cửa rầm rầm. Mặc kệ, tôi
cứ trùm chăn kín đầu. Giữ mình sống an toàn qua một ngày nữa, để mà kiếm
tiền. Mục đích của tôi khi đến xứ này chỉ có thế! Mà kiếm tiền để làm
gì, thì khi nào có tiền rồi tôi mới nghĩ đến sau!

Đang
thẫn thờ ngồi ở chiếc ghế gỗ đầu thôn đặt dưới tán cây sồi cổ thụ, ngắm
ánh trăng chảy qua kẽ lá sồi, tôi bỗng nhận ra một dáng dấp tất bật
quen thuộc, cái hông to và xệ, đang thoăn thoắt đi về phía nhà kính
trồng cải. Nhà ấy xập xệ nhất trong số các nhà kính của tôi. Nhiều nơi
kính nứt vỡ toang hoác. Nhưng cải chịu được lạnh, kể cả sương muối đêm
lạnh buốt của mùa Hè ẩm ướt nước Nga, nên tôi không gia cố lại làm gì.

Tôi
thấy Galia tay cầm túi paket màu đen, lách vào đám cải, đến nơi cây cải
Tashkent vươn ngồng cao nghều. Cô hì hụi bới đất thành hố nhỏ sâu, rồi
trút mớ bùng nhùng trong túi vào đó.

- Ngồi yên! - Tôi quát khẽ. Galia giật thót, đứng phắt dậy, tay buông túi ôm lấy ngực, mặt nhăn nhó đau đớn.

- Cô làm cái quỷ quái gì ở đây thế này?

Im lặng

Tôi
cũng chẳng hỏi thêm, tiến đến soi đèn pin vào hố đất mới đào. Một túm
lông xám nâu rũ rợi lọt trong đó. Thoáng chút máu tươi. Bồ câu? Galia
gật đầu, òa khóc. Lần đầu tiên tôi thấy Galia khóc, bình thường chỉ thấy
cô cười, cười rất vô duyên. Galia khóc cũng chẳng có duyên hơn, nhưng
vì thế mà tôi thấy cô trở nên nhỏ bé đáng thương hơn bất kỳ một người
đàn bà nào đang khóc mà tôi từng chứng kiến. Cô nức nức nở nở, liên tục
đưa tay vò mớ tóc hung hung xoăn tít của mình.

- Thôi đừng giật tóc nữa, - tôi lên tiếng an ủi. - Tôi cũng từng ăn bồ câu. Người Việt vẫn ăn bồ câu.

- Tôi biết, - Galia hức lên. - Nhưng đấy là tập quán của các anh. Chúng tôi thì không… không có… Nhưng tôi…

- Cô đói, phải không?

Im lặng gật đầu. Tôi không hiểu:

- Thế tiền công làm việc cô để đâu? Cô có khi còn giàu hơn tôi ấy chứ!

Trên gương mặt Galia thoáng một nét tươi:

- Gửi về U hết rồi. Tôi còn mẹ già và một con bé con 4 tuổi.

- Trời, cô trẻ thế mà đã có con 4 tuổi?

- Chứ sao! Tôi đã 23 rồi.

- Tự hào gớm nhỉ! Kém tôi gần chục tuổi. Mà tôi thì vợ chưa, con chưa…

- Con gái Nga gái U thường lấy chồng sớm lắm, rồi cũng sớm một mình nuôi con…

Chúng
tôi không biết nói gì tiếp, im lặng. Ánh trăng dừng trên nóc nhà kính,
chỉ có bóng loang loáng trên ấy, như cuống quýt đang tìm đường vào. Vẩn
vơ nhìn cây cải Tashkent, rồi cái hố, tôi chợt hiểu ra:

- Hiểu rồi. Đây chính là cái quái quỷ cô bón cho cây, làm nó đột biến dị thường thế này đây!

- Chưa chắc. Trước tôi vẫn chôn lông cánh dưới giàn mướp, mà có thấy gì đâu!

Tôi cười to. Galia cúi mặt, lấy bay lấp hố chôn lông và xương chim, lầm bầm nói:

-
Anh cười gì? Từ hôm thấy cái cây nó mọc to, tôi cũng thích nó mọc to
nữa to nữa xem thế nào. Anh có nghĩ nó sẽ vượt cả cái trần nhà kính,
vươn lên trời kia không?

-
Có thể lắm! Tại sao lại không nhỉ? Tôi chợt nhớ câu chuyện về cây đậu,
mọc xuyên lên trời, thành những bậc thang để người con gái trèo lên mà
tìm gặp người yêu đi lạc. Tôi bảo Galia:

- Nếu cây cải Tashkent này mọc chọc trời, cô có dám trèo lên đến cùng không?

Galia trầm ngâm, hơi mơ màng, đáp:

- Dám

-
Nếu nó mọc lên đến thế thật, chắc nhiều người phải cảm ơn cô đấy. Mấy
hôm nữa, cô nhớ lấy hạt của cây này làm giống nhé. Biết đâu cứ kiên trì,
sẽ có lúc trồng được cả một nhà cải chọc trời thì sao!

- Thế thì anh lỗ vốn. Vì có ai mua cải này mà ăn đâu! Anh cứ ước vớ ước vẩn thế, có ngày bị đuổi việc!

- Tôi sợ chắc! Nói cho cô hay, tôi sống không chỉ để kiếm tiền…

Nói
xong, tôi quả cũng có đôi chút ngượng ngùng. Nhưng rồi, cái câu ấy cứ
lặp đi lặp lại trong đầu tôi, ong ong vang lên suốt cả khúc đêm còn lại.
Hình như cũng chính nó đã khiến tôi thiếp được đi trong một giấc ngủ
không mộng mị vào cuối đêm gần sáng, không thấy cảnh nhốn nháo chia tay ở
sân bay Nội Bài hay cảnh những cánh đồng làng tôi phủ đầy khói của các
lò gạch mà tôi vẫn thường mơ thấy. Bữa ấy, tôi có giấc ngủ yên lành nhất
kể từ khi sang Nga.

* * *

Nhưng
cây cải Tashkent to đột biến như thế không chỉ nhờ đám lông xương bồ
câu của Galia. Còn một nguyên nhân khác nữa mà mãi sau này tôi mới biết.

Cuối
vụ rau mùa Hè, các nhà rau thu hoạch gần xong rồi, tôi đã cho dỡ đi để
chuẩn bị ủ phân bò cho đất. Việc trông coi rau cỏ không còn là bức thiết
nữa. Vlad và Andrei bắt đầu đi lại vật vờ trong làng, hỏi xin thêm việc
làm. Người thì gọi họ cào cỏ chất thành đống rồi đốt. Những đụn khói
đầu Thu bắt đầu bốc lên ở khắp nơi, làm thành lớp sương mù quấn quện với
mặt đất vào ban ngày chứ không cần đợi đến đêm. Người thì nhờ họ bổ
củi. Những đống củi chất đầy góc vườn nằm đợi mùa Đông. Có những ngày
không ai kêu làm gì. Hai người ngồi đọc sách trong chòi gỗ. Sách cũ xin
được của người trong làng. Bạ cái gì cũng đọc, cả sách nuôi dạy trẻ Con
của bạn từ 0 tháng đến 3 tuổi! Thấy họ thiếu việc, tôi gạ hai anh chàng
dạy cho tôi ít võ. Nghe bảo lính Nga học võ kinh lắm. Vlad cười cười
không nói gì. Andrei cởi phăng áo, khoe cơ bắp vạm vỡ rắn đanh, tay này
đấm thùm thụp vào bắp tay kia, bảo: “Võ gì? Có mà võ thịt! Cứ vào lính,
bị ma cũ tẩn cho vài trận là có võ ngay ý mà!” “Thật à? Sao nghe bảo
người ta phải thuê thày thợ dạy cho bọn mày kỹ lắm? Có ông thày võ người
Việt bọn tao cao cường lắm nhé, cũng từng dạy lính Nga!” - Tôi huênh
hoang. “Tôi không biết. Lính đặc nhiệm thì học hành kỹ lưỡng là đúng
rồi. Bọn tôi là lính mồ côi ấy mà, nhiều lắm, thời bình thì hiến sức cho
người ta, chỉ huy bảo làm gì cũng phải làm…” “Hiểu rồi, nước sông công
lính” - Cái câu này tôi không nói được tiếng Nga, chơi luôn tiếng Việt.
Bọn Vlad, Andrei cũng chẳng hỏi lại nghĩa là gì. Nhưng hình như họ hiểu.
“Có chiến sự thì bắn súng, đạn còn bay quanh bia cũng phải đi, ra trận
luyện bia người” - Vlad tiếp, vừa nói vừa lấy cái lò xo tàu ngầm thả vào
ca nhôm đun nước. Tôi khịt khịt mũi nhìn quanh. Quái, cái chòi này lúc
nào cũng có mùi… Mùi gì quen thế! “Mì ăn liền của các anh chứ mùi gì”. Ừ
nhỉ, thế mà không nghĩ ra. Có những mùi hương quen thuộc đến ăn vào máu
thịt rồi, mà đôi khi mình cũng lãng quên, không gọi được tên. Tôi ái
ngại nhìn hai thanh niên đang tuổi lớn. Họ thận trọng lấy nĩa vớt những
sợi mì dài mỏng manh, bớt lại nước, chăm chú ăn, dường như đây là việc
họ quan tâm nhất lúc này. “Sao thế? Nước không ngon à?” “Ngon, nhưng cay
quá!”… Gói gia vị chỉ có chút tiêu, rất ít ớt mà họ cũng không chịu
được. Người Nga vốn ưa ngọt ghét chua cay! Nhưng bảo bỏ gia vị đi thì
cũng không muốn, vì “như thế mất hết mùi thơm”!

Một
chiều chớm Thu, mưa xậm xị, tôi lại đang ngồi với Vlad và Andrei bên
mấy ca mì tôm thì có tiếng gõ cửa, và ba người đàn ông mặc quân phục xộc
vào. Họ đưa hai anh chàng bom-zhờ của tôi đi. Từ nay họ lại là lính,
hết là bom-zhờ, có doanh trại, có giường, có nhà để ở, đến giờ được ăn,
không còn phải ăn mì gói nữa. Tôi hốt hoảng nhìn mấy cái ca còn õng nước
mì váng mỡ, cuống cuồng lấy những gói mì còn lại trong ngăn kéo cho vào
paket, dúi vào tay họ. Hai người ngoan ngoãn cầm túi mì, rồi đi theo
mấy sĩ quan kia. Ra đến ngoài cửa rồi, Vlad chợt quay lại, nói với tôi:

-
Cảm ơn anh, anh Tân ạ. Anh có biết cái cây cải Tashkent to như thế là
được tưới bằng cái gì không? Bằng nước mì tôm đấy. Thật mà. Có một lần
bọn tôi ngồi đó ăn mì, rồi chẳng biết đổ nước vào đâu, mới đổ trộm vào
gốc mì. Sau thấy nó mọc to quá, tôi chắc chắn là do nước mì tôm… Tôi và
thằng Andrei ngày nào cũng làm thế. Chỉ với cây cải ấy thôi. Anh cứ thử
xem, vụ sau… Nhé?

Không
hề có sự đùa cợt ở đây. Mắt Vlad nhìn tôi, trong veo. Thật không tin
được con người có vẻ bề ngoài khô khẳng khắc nghiệt ấy lại có cái nhìn
trong veo đến thế.

* * *

Câu
chuyện cây cải Tashkent của tôi chỉ dừng ở đó. Tôi không bao giờ có
được cây cải khổng lồ thứ hai. Sau khi Vlad và Andrei bị bắt, Galia cũng
giả phòng ở nhà khách để trở về Ukraine chăm mẹ ốm nặng thì tôi không
còn tâm trạng nào ở lại vùng đất này nữa. Khi đến đây tôi chỉ có một mục
đích: làm việc làm việc và làm việc, để kiếm tiền rồi nhanh chóng trở
về nước. Xin việc, rồi lấy vợ. Lấy Thoa, nếu cô còn đợi tôi… Nhưng mấy
ngày sau khi những người bạn tình cờ thân thiết kia rời xa tôi, tôi bỗng
cảm thấy một nỗi cô đơn rã rời xâm chiếm toàn thân. Tôi xin thôi việc,
lên Mat. Chẳng biết điều gì đang đợi tôi ở đó, nhưng tôi thấy mình kiên
quyết phải đi. Trước khi đi, tôi ngồi tần ngần bên cây cải Tashkent, cây
cải duy nhất còn lại trong nhà kính. Tôi không lấy hạt của nó làm
giống, vì tôi gần như chắc chắn rằng, ở nơi khác, với sự chăm bẵm bình
thường, tôi sẽ không có được cây cải khổng lồ như thế này. Nó sẽ ở lại
đây, to lớn, cô độc, kiêu hãnh mang trong í mật của những con người. Cho
đến lúc bị dế ăn và vàng lụi.


Matxcơva, tôi may mắn xin được chân lái xe thuê cho một bà giao hàng
khô ở chợ Vòm. Tôi được làm giấy tờ tử tế để đi lại hợp pháp. Hiếm hoi
có những chiều rảnh rỗi, tôi lang bang dọc con đường gần nhà, mặc dù đã
bị cảnh báo là không được đi lại nhiều một mình, nguy hiểm. Không hiểu
sao, nghe nhiều chuyện trấn cướp ghê gớm rồi, nhưng tôi không hề thấy
sợ. Có vẻ như cái cây cải Tashkent dạo nào đã tặng tôi hình ảnh vững
chãi của nó, để tôi có được một sự bình tâm kỳ lạ trong những ngày tiếp
theo sống ở nước người.

Chiều
mùa Đông có nắng. Tuyết rơi lấp lánh khắp nơi. Tôi đánh xe về sau buổi
giao hàng, đi chậm chậm dọc con đường quen thuộc, thì thốt thấy một cánh
tay lính mặc áo rằn ri thò ra từ fortochka bé xíu ngay tầng 1 của dãy
nhà xam xám với những ô cửa sổ đầy song sắt thô rỉ. Trại lính! Thế mà
mọi ngày tôi không để ý. “Ây, này…” Chủ nhân của cánh tay lính gọi tôi.
Tôi ra khỏi xe, đến gần ô cửa. Cậu lính còn rất trẻ, gần như còn là một
chú bé, đầu húi cua ngắn, mặt non choẹt, gầy guộc, dí mũi vào cửa sổ,
đang mỉm cười với tôi qua tấm kính mờ hơi nước. Cậu ta nháy mắt ranh
mãnh:

- Cho xin mấy đồng đi!

Không
đợi tôi phản ứng, cu cậu ròng xuống một ống bơ sữa bò được khoét hai lỗ
cân đối, nối dây gai nâu. Tôi máy móc lục túi lấy tiền lẻ đặt vào. “Cảm
ơn” - cậu bé reo lên. Khi cậu kéo chiếc ống bơ vào rồi, tôi mới sực
tỉnh:

- Gượm, đợi đã! Thả tiếp xuống đi!

Tôi
chạy vào xe lấy ra một chục gói mì ăn liền, hì hục buộc từng gói vào
chiếc ống bơ. Ở phía trong, cậu lính cũng khéo léo lấy lên được bằng
hết.

Tôi
lên xe phóng đi, không kịp nghe cậu bé cảm ơn lần nữa. Mũi cay xè như
vừa ăn mù tạc. À mà người ta bảo, cải Tashkent làm mù tạc là xịn nhất
đấy!

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3