Gió trắng - Chương 06 phần 2

6

Trước
khi về phép, An ở lại trong căn phòng 13 lâu hơn. Một sự lưu luyến khó
tả khiến cô cứ tần ngần vuốt ve những chiếc bình. Bình số 72, người bạn
gái đáng thương, đôi khi thoắt nặng thoắt nhẹ trên tay An. Khổ thân chị,
chị luôn bị những âm thanh hành hạ. Bây giờ không phải tiếng nhạc. Mà
là một tiếng gọi.

- Hồn về đi…

- Ai kêu tôi?

Tiếng
kêu này nhiều ngày nay tôi đã nghe, nhưng tôi không tin là người ta kêu
tôi… Qua làn mây cuồn cuộn, tôi thấy một thiếu phụ đang hướng về tôi.
Cô ấy thoạt nhìn khó đoán tuổi, thoắt trẻ thoắt già, mắt sáng, dáng vẻ
hiện đại, mặc váy dài quá đầu gối, tóc dài ép suôn, người dịu dàng tha
thướt. Tôi thấy khó cưỡng lại lời gọi. Tôi băng qua những đám mây. Bay
lên trên chúng. Tôi bay rất lâu. Mà hình như cũng không lâu, chỉ một
buổi sáng. Trên đường đi tôi gặp những đội tuần. Họ cũng nghiêm trang
như những đội tuần trần gian. Chỉ khác là họ không mặc đồng phục và
không biết cò kè trả giá.

Họ
nhìn tôi chòng chọc khi tôi khai nơi thác, mắt ánh lên những tia xanh
lè. Tôi làm sai gì chăng? Họ muốn bắt tôi?Không. Họ lắc đầu, bỏ đi. Biến
mất rất nhanh theo những đám mây mang nặng nỗi buồn đang vần vũ từ Đông
sang Tây, cuồn cuộn.

Tôi
thấy mình bước vào một ngôi nhà lạ hoắc nằm giữa xóm. Không phải quê
tôi. Là một làng miền Bắc. Những cây rơm khô xác xếp quanh nhà. Dưới
chân các cây rơm là rất nhiều người ngồi chàng hảng, cơm đùm cơm nắm,
nước uống, trái cây… Họ cố gắng không làm rộn. Một bầu không khí im lặng
bao trùm khắp sân. Đến cả gió cũng thổi rất khẽ. Bậc thềm có con chó
vàng. Nó cũng căng thẳng, không sủa, đứng nép vào cái cột nhà gỗ sứt
sẹo, đuôi dựng lên và khẽ run. Nó cảm thấy tôi…

- Hồn về…

Thiếu
phụ đưa tay về phía tôi, mắt nhắm nghiền. Tức thì, một luồng khí rất
mạnh bỏng rát cuốn phăng tôi đi. Tôi chui tuột vào hàng trăm cái hố sâu
đen ngòm đang mở ra trước mắt, hồn vía tả tơi trăm hướng. Tôi gào khóc.
Tôi nức nở. Tôi thấy đau đớn, nghẹn ngào, giận dữ, tủi hờn… những cảm
xúc đều đã trải qua, sao giờ đây nặng nề và khó chịu đựng đến vậy. Vì
sao không ai muốn tìm thấy tôi? Vì sao không ai nhớ? Vì sao?...

Cứ
thế, khóc lóc, kể lể, vạ vật… Cái thân thể mà tôi nhập vào bơ phờ trong
cơn cuồng nộ bi thương của phần hồn mà người ấy không hề quen biết.
Người ấy, một cô gái mới lớn, tóc dài, cài băng-đô màu tím, cũng khóc
lóc, kể lể, vạ vật. Mắt lúc nhắm lúc mở. Hết té lại dậy. Hết lạnh lại
nóng. Tôi hờ: “Lạnh.. quá….” rồi lại: “Nóng… quá…”. Kinh động những con
người. Kinh động cả những vong hồn đang thấp thoáng ẩn hiện quanh sân.
Bọn họ thảy đều giật mình mà rút lên tận ngọn cây. Nắng từ ngọn cây kết
chùm đong đưa chiếu xuống sân gạch.

Anh
bảo rằng anh vẫn yêu tôi. Anh nhớ tất cả những kỷ niệm chúng tôi đã có.
Hàng cây nhỏ trên đồi Lenin, nơi chúng tôi hôn nhau trong một cơn
giông. Tất cả quay vòng, cả gió cát và những cọng cỏ khô bay lên từ dưới
chân đồi. Anh bùi ngùi nói đến những đứa con chúng tôi bỏ lại ở một
bệnh viện gần ngoại ô, tường nhà tróc lở và giường sắt lạnh đến nỗi khi
tỉnh lại trên đó, tôi có cảm tưởng như mình đang ở dưới địa ngục. Hai
lần, vào một ngày mưa dầm, và một ngày tuyết rơi quay cuồng trong nắng.
Tôi nấc lên bảo anh đừng nói nữa. Anh không cần nhắc tôi cũng có quên
được gì đâu. Nhưng anh vẫn nhắc, thỉnh thoảng lại nói nhịu, mồ hôi chạy
thành giọt từ trán xuống. Ngược lại với cái thân thể đường bệ và bộ mặt
phương phi đẹp đẽ của anh, tôi thấy nét mệt mỏi trong mắt, một đường xẻ
dài bên má, và hàng ria đã lốm đốm bạc. Anh bảo rằng anh vẫn khấn tôi,
những ngày rằm tháng Bảy. Tôi càng khóc lóc tợn. Nhớ năm xưa tôi và anh
tranh cãi mãi, gọi là lễ Vu Lan hay ngày Xá tội vong nhân… Tôi có tội gì
mà phải chờ đại

Nhưng giờ tôi không tranh cãi, chỉ thấy mình mềm đi và sẵn sàng bay lên. Anh vuốt tóc tôi, không, mái tóc của cô gái bé xa lạ.

- Em cứ tưởng không ai từng nhớ rằng em đã có trên đời!

- Bậy nào, em vẫn hay nói năng ngốc nghếch như hồi…

- … Hồi còn là người!- Tôi cười.

Anh hơi sững lại, ngượng ngùng:

- Anh chầu chực ở nhà cô Hiên mãi mới gặp được em đấy…

-
Cảm ơn anh. Anh tìm ba má giùm em, anh nhắn ba má tìm qua bên kia đem
tro em về, nha? Đường vạn dặm, hồn và phách đâu thể xa lâu. Chết ở nước
người tức tưởi lắm, anh ơi.

- Ai bảo em! Tại em! Em làm khổ mình.

- Biết trước được thì đã không vậy…

Anh
liên tục rùng mình. Tôi thấy tội nghiệp anh. Níu tay áp bàn tay quen
thuộc của anh vào má cô gái nhỏ, tôi đặt thoáng lên đó nụ hôn rồi nói,
đã đến lúc tôi phải về, lập tức thoát ra khỏi thân xác mượn. Trước khi
đi, tôi hứa sẽ phù hộ cho anh và gia đình anh. Tôi thoáng nhìn thấy
người đàn bà của anh trong ngôi nhà hai tầng xinh xắn, giữa một khu vườn
nhỏ ở Thái Bình. Một đứa bé trai còm nhom mặt mũi rầu rĩ, đứng nhìn
xuống đường. Con trai đầu đã lớn, lên Hà Nội học… Phải rồi. Đây sẽ là
gia đình của tôi. Anh hứa sẽ làm giỗ cho tôi nữa mà. Anh bảo anh nhớ tôi
thích bún bò xào… Làm giỗ bằng bún bò xào cũng được, lại độc đáo nữa.
Tôi cảm động, rưng rưng, dựa đầu vào ngực anh. Anh lại rùng mình, bất
giác đưa tay ôm lấy ngực.

Anh
thắp thêm nhang lên ban thờ. Rồi xoa hai bàn tay vào nhau, anh khấn
thêm, vừa khấn vừa xít nước miếng một cách cần mẫn:“Dự án mới của bọn
anh ở X. Em nhớ xem giùm anh xem có trúng không. Hôm nào anh lại gọi em.
Anh không dám mạnh dạn đầu tư, vì…”

Chút nữa thì phá lên cười.

Gió.
Một làn gió đắng đã đưa tôi đi. Phải rồi. Đắng ngắt. Sau nhiều năm
không sống trên dương thế, tôi mới lấy được lại cảm nhận về mùi vị một
cách rõ ràng đến thế.

Tôi
lộn về chỗ cũ của mình, căn phòng số 13. Lần này chuyến bay khó nhọc và
u ám. Mây thì đen và thế giới xung quanh ầm ào những tiếng sấm khô khốc
vang rền lẫn tiếng sóng biển. Tôi chỉ còn đủ sức chui qua ô cửa hẹp và
thả mình là là dưới sàn nhà. Sàn nhà ẩm, sực lên mùi thuốc khử trùng.

Có người vừa thắp một nén nhang. Mùi nhang làm tôi trấn tĩnh lại. Nhìn quanh. Thấy trái cây và những tập tiền vàng.

- Để làm gì? Tôi rít lên…

-
Có những điều chẳng để làm gì, nhưng nếu không có thì lại rất thiếu…. -
Vị thượng tá nói, giọng vẫn điềm đạm như mọi ngày, kể cả lú nói lời
chia tay. - Phải kiên nhẫn chờ đợi, con nhé. Chú tin sẽ có người nhớ đến
con, mong mỏi con, để con được trở về. Hẹn gặp ở nhà mình. Ở Việt Nam…

7

Trời
đã thu. Những cơn mưa mải miết vùi dập lá vàng. Thi thoảng một đợt gió
lại quăng đám lá ướt át qua ô cửa kính. Cửa sổ buồn thỉu đi.

Hương
tàn, An thắp thêm một nén nữa. Khói hương làm ô cửa vui hơn. Một làn
mong mỏng trắng vấn vít các góc ô cửa, trườn mình chạm vào từng bình
tro. An lấy khăn ẩm lau từng chiếc bình, chậm rãi, kỹ lưỡng. Cô thấy
gương mặt thanh tân của mình trên vỏ bình đã bóng loáng. Có lẽ đây là
lần cuối cùng An làm việc này. Những ánh mắt nhìn cô thân thuộc. Cô từng
nhìn vào mắt họ trên những bức ảnh và cố đoán xem, cớ gì khiến họ ở mãi
nơi đây. Hiền hậu, đanh rắn, ngơ ngác, những nét mặt nhạt nhòa, lâu
ngày An bỗng có cảm tưởng họ rất giống nhau. Họ là người một nhà rồi mà -
Nước mắt An trào ra vì khói.

Dừng
lại lâu hơn bên ảnh một người đàn ông mặc chiếc áo carô cũ nhàu nhĩ có
nụ cười méo mó, cô nói khẽ: “Em sẽ tìm người nhà hộ anh”. An thấy bàn
tay mình mơ hồ ướt.

-
Tìm làm chi! Biết chỗ mô mà tìm, em! Anh muốn mạ thằng cu chưởi anh
tham vàng bỏ ngãi, ruồng rẫy hắn, rồi còn đi kiếm chồng nữa tề. 10 năm
tự xoay xỏa con dại mệ đau, anh đâu nỡ bắt mạ hắn dính vô cái oan hồn
vất vưởng này, em nghe không hí?

An
nhớ lại cái ngày người đàn ông mang mã số 67 nhập phòng. An biết anh từ
trước, một gương mặt quen vẫn vạ vật ở cổng Salut 3. Nhân viên sứ quán
đặt anh ta lên nóc tủ, rồi lại hì hụi tìm chỗ cho anh ta ở cánh tủ nhỏ.
“Sao vậy chú, cứ để anh ấy trên đó, còn rộng mà?”. “Vô gia cư, cửu vạn
thuê, không họ hàng anh em, say khướt suốt ngày, chết vì rượu, người ta
kéo ra được đã đông cứng trong đống tuyết gần Sokol 5 ấy, thì để ở dưới
thôi. Trên nóc tủ này là những người đàng hoàng, như bố cháu!”. An rùng
mình, hơi lùi ra xa cái tủ ọp ẹp màu cánh gián đã hơn chục năm bình thản
đứng trong phòng. Người âm không hẹp bụng như người trần đâu con!-
Giọng bố.

An nài:

- Không tìm người nhà, em làm gì được cho anh thì anh bảo em?

-
Như vầy nì, nếu không phiền, em qua phòng… Sokol 5, lục cho anh tập thơ
của mạ hắn, rồi hóa đi giùm anh hí! Lâu không được đọc thơ…

An
nhớ hình ảnh anh 67 ngày trước. Suốt ngày hát nhạc sến ông ổng. Râu ria
xồm xoàm, mùa nóng mùa lạnh cũng chỉ bận đúng một chiếc áo gió xám
khoác ra ngoài áo phông. Thi thoảng chụp giật được kiện hàng, bê nghiêng
bê ngả cũng lên được tầng hai, nhận tiền, và lại say. Làm đủ ăn và uống
cho một ngày, còn lại thì kiếm một xó khuất đỡ gió mà lôi một tệp thư
nhàu nhĩ ngồi đọc. Đọc say sưa, đọc lại rồi mà những lá thư vẫn cứ như
mới nhận. Mùa đông, đọc mê mải cho đến khi râu tóc đóng băng lạo xạo tự
lúc nào mới xoa mặt run rẩy đứng lên. Những lá thư toàn viết toàn mực
đỏ!

- Sao chị ấy lại viết bằng mực đỏ?

-
Để hối anh về. Đọc nhức mắt cha là nhức. Có những lá viết in hệt nhau,
hắn chép đến chục cái, rồi gởi dần, cứ có ai qua là gởi. Bực… Nhưng rồi
dần không biết răng lại thích.. Thơ kể về con.

- Sao anh không hồi âm? Tội chị…

-
Hai năm đầu có chút tiền, đầu tư ra chợ, số xui bị thâm vốn cả. Rồi làm
thuê cho người ta, không hiểu rằng mọi người làm được mà mình cứ đuổi.
Nhớ thằng con đau cả ruột mà không dám về phép. Tiền mô ra! Năm kia anh
đau phổi, trận đó xém chết, cấp cứu ở Bodkina. Rồi thân anh thành ốm o
xo bại, nuôi mình không nổi về răng được nữa trời! Anh cậy mấy cha cùng
đội về phao tin anh lập phòng nhì bên ni. Cho mạ hắn yên dạ đi kiếm
chồng. Anh khôn hí?

An thoáng nghe một tiếng cười, cứ như thể việc lập “phòng nhì” đối với anh là vẻ vang hơn cả.

Nhưng rồi anh thêm: “Kiếm cha cho thằng con anh nữa nì…”

Tiếng cười tắt. Dư âm của nó vẫn vang dài chát chúa trong đầu An.

Mấy
hôm sau, đi học về, An đáp Metro đến ốp Sokol, tìm ngay được phòng anh
67 chỉ. Một cô người Tàu da trắng nhẽo nhẹt uể oải hé cửa, lấy tay gạt
sạp rau cỏ, thịt tươi sang một bên, mời cô vào nhà. Xì xồ một hồi bằng
tiếng Nga với những âm “tờ”, “đờ” lẫn lộn, rồi thất vọng khi thấy An
chẳng hiểu gì cả, cô ta giật phắt cái ri-đô gác xép, gọi anh chồng người
Việt đang ngáy pho pho trên đó dậy.

- Thư hả? Thư gì? Ai viết thư?

Mất một lúc lâu anh ta mới hiểu vấn đề, lắc đầu:

- Cái thằng say ấy, nó chết thì đồ của nó cũng vứt đi cả, ai mà giữ làm gì.

An
thất thểu đi xuống cầu thang. Gió từ những ô cửa hở hoác lùa vào khiến
cô buốt đỉnh đầu. Vừa chụp cái mũ áo khoác lên, cổ rụt lại cho đỡ lạnh,
thì cô thấy một bóng ngật ngưỡng đi đằng trước, trong nắng chiều chiếu
dài thành vệt hắt từ ngoài vào, của một ngày thu có nắng. Nắng lạnh. Bất
giác, cô cứ đi theo người ấy. Hành lang tầng năm ốp Sokol bỗng vắng
tanh, lạnh đến rởn gai ốc. Người đằng trước bước lật ngật thế mà cũng
nhanh, thoắt cái đã đi hết cầu thang, ngoặt vào dãy phòng vệ sinh và
biến mất. Chắc anh ta vào nhà mất rồi. An nghĩ thầm. Bấy giờ mới giật
mình tự hỏi, sao mình bám theo anh ta làm gì. Quay lại, va phải ống đựng
rác ngập ngụa những rác rơi vãi xung quanh, bốc mùi hôi rình. Gần đó là
mấy chiếc túi dứa xanh đỏ đã sờn với một đống sách vở cũ. Những cuốn
tạp chí Đất Nước ngả màu vàng. Tò mò đến gần, An mỉm cười thấy cuốn tạp
chí được giở đúng trangin bài thơ của cô. Sinh viên trường cô hay gửi
bài vở cộng tác với tạp chí này. Đưa tay bới chồng tạp chí, cô bất thần
nhìn thấy một chiếc papka(8) nhựa trong lộn xộn giấy tờ, có những tờ
giấy nhàu nát và dòng chữ mực đỏ. Mực đỏ! An sáng ngay ra. Vội vàng lục
cái papka. Đây rồi, những thứ cô đang tìm. Kỳ lạ thật, đã cả năm trời
rồi mà những thứ này vẫn lỏng chỏng ở đây mà không ai dọn đi. Điều này
mãi về sau cô vẫn không thể lý giải nổi. Thường người quét rác ngày nào
chẳng làm việc!

8: Papka: File đựng giấy tờ.

An
ghé vào một quán ăn dưới tầng bốn. Sau khi lịch sự gọi một bát mì nóng,
cô mới thẽ thọt nhờ anh chị chủ quán đốt hộ đống thư từ và xin giữ lại
tro. Hai người ái ngại nhìn cô nghi ngờ, rồi cũng giúp. An cố tình không
đọc những lá thư. Chỉ thấy nét chữ cứng cỏi và bay bướm, những cái đuôi
chữ “g” vòng rộng ra rồi bẻ góc, nhìn rối cả mắt. Màu mực đỏ lại càng
khiến con mắt mệt hơn. Như là một lời gọi. Một sự trách oán. Hay một
mệnh lệnh…

Trên
đường về lại ốp của trường, An ghé lên Đồi Lenin. Chiều xám thẫm, một
vài ngôi sao muộn đã lên. Matxcơva chìm trong một màn sương mong mỏng.
Không khóc mà mắt mang mang hơi nước. An bước xuống phía dưới, đến thảm
cỏ ngay dưới bậc đá hoa cương, mở gói giấy báo đựng tro và ngồi xuống
bên cạnh. Những mảnh tình yêu của vợ con anh 67 lập tức bay lạt sạt trên
cỏ, nặng nhọc chứ không nhẹ bỗng bay lên cao như An nghĩ. Tàn tro của
những con chữ có lẽ còn nặng hơn cả tiền vàng. Tiếng phong cầm dìu dặt
vọng từ trên đồi xuống. An ngồi rất lâu nhìn về phía bờ sông. Những
quầng lá sũng nước, màu vàng cũ kỹ tỏa ánh sáng nhờ nhờ. Ánh sáng hiu
hắt cũng tỏa ra từ bầu trời, trên đó có một vầng trăng sớm, trăng lưỡi
liềm, mảnh và mờ.

An
ngồi bất động không nghĩ đến bất cứ điều gì, cứ ngắm Matxcơva trải rộng
dưới kia, thành phố đã lên đèn, ánh sáng nhòa nhòa trước mắt An. Cho
đến khi người cóng lạnh cả, quần bò đẫm ướt vì sương giá, An mới ra về.

* * *

Máy
bay rùng rùng đứng rung bần bật một hồi lâu rồi mới cất mình lên được.
An ôm chặt lấy chiếc ba lô trước ngực. Ngó ra ngoài trời sáng chói. Tất
thảy những đám mây đã ở phía dưới. Ở đằng sau. Mặt đất không bình an lùi
tận về nơi nào xa lắc. Dưới kia là đất khách.

An
nhớ đến anh thanh niên đã trộm lọ tro của bạn, định mang về Việt Nam.
Nhưng cuối cùng người ta cũng phát hiện ra khi anh đi qua cửa hải quan.
Người Nga họ không cho anh lên máy bay vì lọ tro không nhân thân, không
giấy tờ ấy. Đã là người, hay từng là người, đều phải đăng ký chứ! Nhất
là ở nước Nga, nơi người nước ngoài đi đâu cũng phải khư khư cái hộ
chiếu như một vật quý, quý ngang mạng người. An sực nhớ chuyện chị 72
kể, chị trốn ra ngoài đi dạo metro cho đỡ nhớ, mà nghe tim đập thùm thụp
đau tận đến xương sườn vì thoáng thấy bóng đến khi về lại phòng 13 mới
hiểu rằng nỗi đau thân xác ấy chỉ là ký ức.

An
cũng không hỏi kỹ thêm vụ trộm lọ tro nữa, vì dù sao cũng có một phần
lỗi của cô, nên mỗi lần lên sứ, cô không dám mở miệng. Thâm tâm, An thấy
buồn. Giá như anh chàng ấy đi lọt, thì hẳn bây giờ, anh 69 đã siêu
thoát rồi… Cô nhắm mắt tưởng tượng ra căn phòng nhỏ và chiếc tủ cũ nặng
nề, khẽ rên lên một tiếng.

Trên
máy bay, đèn đã tắt. Hành khách người co, người duỗi, người gác chân
lên lưng ghế trước, người nhớn nhác nhìn quanh tìm hàng ghế trống để
duỗi dài cái thân thể nhức mỏi vì đã gồng căng suốt những ngày đông dài ở
xứ tuyết. An không sao chợp mắt được. Cô liên tục xin nước uống, nuốt
mãi mà không hết cảm giác nặng ở cổ họng, ở ngực. Cô bật đèn con đọc
báo. Bỗng thấy buồn buồn ở khuỷu tay. Rồi thấy một con ngài nhỏ màu nâu
liệng qua, đáp xuống tờ báo, dừng ở đó một phút rồi bay đậu vào quai
chiếc ba lô cô đang ôm. Một con nữa… Một luồng khí lạnh chạy dọc xương
sống. Những con ngài trên máy bay!

Bác ơi? …Chú ơi?...Chị ơi?... Anh ơi?... Em ơi?...

Một,
hai, ba... An nghe tiếng điểm danh thánh thót. An mong nghe lời đáp
“Có, vong đi”. Người ta gọi những âm hồn lên đường về thế giới cực lạc
để siêu thoát mà họ thì chỉ một mực muốn về lại quê hương…

An
chìm vào giấc ngủ nặng nề, gối đầu vào chiếc ba lô. Trong tiếng âm âm
bí ẩn, cô nghe giọng nói chậm rãi của người cha: “Con hãy nhìn thấy
những nụ cười...”.

Và tiếng chị 72: “Về nghen…”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3