Khúc Nam Ai - Chương 04-P1
"Ai đưa con sáo sang sông. Để cho, để cho con sáo, ơi
người ơi, sổ lồng, ơi người ơi bay xa, sổ lồng, ơi người ơi bay xa…"
- Cha, anh này mơ mộng dữ a...
Tôi quay lại, thằng Út, một chân ghếch lên vè xe, một tay chống
nạnh, một tay đưa lên mũi chế riễu tôi. Tôi cười nói :
- Không mơ mộng à. Út lại đây anh hỏi cái này coi.
Thằng Út chìa tay :
- Cho năm đồng keng đi rồi muốn hỏi gì thì hỏi.
- Thì tới đây anh hỏi cái này đã. Đụng cái gì cũng tiền.
Thằng Út vẫn đứng nguyên chỗ.
- Không, tiền trước, hỏi sau.
Tôi bực mình gắt :
- Vậy đi chỗ khác chơi.
- Sức mấy, phá hổng cho anh mơ mộng nhớ cô nào chớ...
Tôi làm thinh không thèm nói. Ngó mông ra xa. Thằng Út lải
nhải thêm vài câu rồi buồn tình bỏ đi. Trời sắp về chiều, nhưng nắng vẫn còn bỏng
rát cả da mặt. Những đồi cát liên tiếp trắng xóa chói chang. Đằng xa kia là những
mái tôn trắng bạc tỏa hào quang trong nắng. Đó là một chỗ tạm cư của những người
dân từ Cam Bốt trở về. Họ sống tạm trên nền cát, chịu đựng những cơn gió biển tốc
từng bão cát vào mặt, vào người. Xe hơi, truyền hình, ra dô kề cận những con lợn
đen, những đàn gà Mỹ nuôi trong cái chuồng có khung với thực phẩm đầy đủ. Họ mê
xem cải lương và nhờ đó, đoàn hát tôi đã kiếm được bộn tiền. Mọi người đều hân
hoan với số tiền kiếm được mỗi xuất hát, chỉ riêng tôi là khó chịu, ấm ức và bực
mình. Giấc mộng đẹp đẽ đã tan tành tự ngày đầu tôi bước lên chiếc xe lam, bỏ Dĩ
Trung, theo gánh hát. Bởi thực tế không đẹp như tôi tưởng, bởi lòng người quá
điêu ngoa, và bởi nếp sống của những người trong gánh hát không giống như nếp sống
của gánh hát Hưng Liên ngày xưa. Đối với ba má tôi, gánh hát là cuộc đời của
người. Vì yêu tự do, vì dòng máu nghệ sĩ, giang hồ, ba má tôi lập gánh. Còn đối
với những người trong đoàn hát này, sau thời gian chung sống, tôi thấy mục đích
chính của họ là tiền. Họ có thể làm bất cứ điều gì để có tiền, kể cả những việc
làm không lương thiện. Nói cho đúng ra, ngoài việc hát xướng là việc làm lương
thiện nhất, còn bất cứ công việc gì họ nhúng tay vào đều ám muội. Từ thằng Út,
đến Dung, đến kép Thuận Thành, đến ba má Dung, người nào cũng hau háu khi nhìn
thấy tiền mà không biết đồng tiền đó đã kiếm ra bằng cách nào. Tệ hơn nữa là vấn
đề lương bổng trong gánh thường không được đồng đều. Mỗi đêm, ba má Dung trả
lương cho những người hát, trừ tiền cơm, tiền nước, tiền xăng, chớ không chia đều
số tiền kiếm được như ba tôi đã làm. Và y như là mỗi đêm đều xảy ra những trận
cãi vả, chửi rủa tục tằn. Tôi ngạc nhiên không biết tại sao họ còn có thể hát
chung với nhau, sống chung với nhau sau những giờ phút mắng chửi nhau cạn tàu
ráo máng như vậy. Tôi cố hết sức để khỏi dây vào những trận cãi cọ, và nhất là
những việc làm bất chính. Và cũng chính vì không chịu mang bao tải bò vào nhà
dân quê trộm gà vịt, rau trái, đôi khi còn trộm cả những vật dụng nữa, nên tôi
thường bị chèn ép đủ bề. Dung thường mắng mỏ tôi là loại "quân tử
quèn", "quân tử rỏm". Nhưng tránh hành động, chớ thật khó tránh
những bữa ăn làm bởi các vật cắp được. Vì vậy, lòng tôi buồn bực vô cùng. Tôi nhớ
lại chuỗi ngày sống với ba má ruột, những ngày ở quận Dĩ Trung, những ngày kề cận
Vân. Nỗi nhớ cứ gom lại từng ngày, và càng ngày, lòng tôi càng chĩu nặng. Tôi bắt
đầu hối hận về chuyến đi của mình. Tôi tưởng đến nỗi buồn của ba má nuôi tôi,
tưởng đến đôi mắt ngập nước của Vân khi biết tôi bỏ nhà đi theo gánh hát. Chắc
rằng chả một ai có thể tha thứ cho tôi.
- Ủa, Hiệp, sao ngồi đây.
Bác Sáu Vĩ ôm cây đờn lại gần tôi, bác ngồi bệt xuống nền
cát, mân mê thành đờn.
- Buồn quá bác Sáu ơi.
Bác Sáu Vĩ lặng thinh nhìn tôi. Bác là một người duy nhất
trong gánh hát mà tôi có thể tâm sự. Bác khác hơn những người khác. Có lẽ tiếng
nhạc tiếng đờn làm bác hiền hòa hơn, mơ mộng hơn. Đôi lúc tôi gặp bác ngồi im
như tượng để nhìn mặt trời lặn từ xa. Hoặc những đêm trăng khuya, khi vãn hát,
bác còn ngồi nắn nót dây đờn. Tôi cảm mến bác ở điều đó.
- Tụi nó bỏ đi đâu hết trơn. Con Dung cũng vậy. Hổng biết ai
nấu cơm ăn để kịp xuất hát.
- Họ đi đâu hết vậy bác ?
Bác Sáu Vĩ ngó mông ra đằng chỗ đồng bào tạm cư đáp :
- Biết đâu cà, lại mua bán chi đó rồi. Ờ mà mày buồn cái gì
vậy. Cách đây một tháng mày ưa đi theo gánh quá trời mà. Ở riết rồi quen.
Tôi thở dài :
- Vỡ mộng hết rồi bác ơi.
Bác Sáu Vĩ mỉm miệng cười chua chát :
- Thì cũng tại mày, mày nhìn kịch trên sân khấu, mày tưởng
cũng giống như trong cuộc đời. Lầm to rồi cháu ơi, đời gay go, cam khổ hơn gấp
ngàn gấp bội. Có chịu đựng được mới thành công chớ. Thôi ráng nhín nhín đi, đợi
khi về Sài Gòn rồi khá ra.
- Nhưng khi nào mới vô Nam lại hả bác ?
- Ối tùy, chớ bộ mày tưởng ra vô dễ lắm hả. Cà rịch cà tang.
Cả năm trời mới ra đến đây, thì vô lại cũng còn lâu.
Tôi ngạc nhiên :
- Ủa, sao Dung nói với cháu là chỉ mấy ngày nữa đoàn trở về
Nam. Dung với ba má nàng hứa chắc như vậy cháu mới bỏ Dĩ Trung chớ.
Bác Sáu Vĩ nửa đùa nửa thật :
- Chớ hổng phải mày mê con nhỏ Dung à…
Tôi lặng thinh. Thật tình, trước kia, tôi mê Dung qua những
lốt hóa trang rực rỡ trên sâu khấu. Tôi theo Dung, tôi có can đảm từ bỏ Dĩ
Trung cũng một phần vì vậy. Nhưng cũng chưa hẳn đúng, tôi bỏ Dĩ Trung cũng vì
tham vọng điên cuồng của mình, tôi muốn được nổi tiếng, tôi muốn là ngôi sao
sáng của cải lương. Nhưng tôi bỏ Dĩ Trung chắc cũng vì cái nghiệp dĩ, cái niềm
khao khát được bay nhảy tung hoành, không vòng vo trói buộc vào đâu hết. Mỗi thứ
một ít thúc chân tôi, để bây giờ mộng tàn và tôi sống trong nỗi nhớ, trong niềm
hối hận nuối tiếc.
Bác Sáu Vĩ bỏ đi từ lúc nào không biết và tôi ngồi mãi đến
khi trời thâm thẩm tối. Gió càng lúc càng dữ dội, thổi từng đợt cát vào mặt,
vào mình. Tôi đứng dậy định trở vào căn nhà tạm. Nhưng cách đó một khoảng tiếng
Dung la ơi ới :
- Anh Hiệp, ra xách giùm chút coi... Anh Hiệp trời ơi, bộ
anh lảng tai hả ?
Tôi chạy vội ra đỡ lấy cái xách nặng trên tay Dung. Tiếng vịt
kêu lạc cạc trong bao tải. Tôi hỏi Dung :
- Mua vịt hả ?
- Ừa, Dung mua tận trong đó. Trời ơi, dân tình ở đây chi lạ,
nói tiếng nặng trịch nghe không được.
- Mấy người kia đâu.
Dung vừa mở cái nút thắt vừa trả lời :
- Họ đi có công chuyện mà. Tối này nghỉ không hát. Mai dời
đi.
Tôi nhân cơ hội hỏi Dung :
- Đi vô lại hả Dung, bữa trước Dung nói có mấy ngày nữa ni cả
tháng rồi mà cứ thấy đi ra hoài. Dân ở đây nghèo lắm, họ không có tiền coi hát
đâu.
Dung liếc mắt nhìn tôi. Tay nàng quờ quạng tìm chân vịt lôi
ra từng con.
- Ủa, bữa nay mắc chứng gì mà anh đòi vô. Về Dĩ Trung hả.
- Không, vô Nam kìa. Hôm trước, hai bác có hứa nên tôi mới
đi.
Dung háy mắt :
- Hứa là cái gì. Mà sao anh nhớ dai vậy. Hát còn ăn khách
mà. Nghe đâu ra phía ngoài còn mấy trại tạm cư như vậy nữa. Tha hồ hốt bạc. Mà
anh đừng hỏi chuyện đó nữa, ông già ổng nổi giận là khó làm ăn đó.
- Nhưng tôi muốn về quá. Tôi muốn được thấy lại những con đường
mà trước kia ba má tôi đã đi qua.
Dung làm bộ như không nghe câu nói của tôi, nàng soạn thêm
vài món vật dụng khác và khoe tài đi chợ của mình.
- Mua được rẻ ghê, có mấy trăm bạc mà mua được hai con vịt,
mai đem ra kia bán bớt một con là lấy lại vốn. Một con nấu cháo ăn chơi.
- O ơi nì... cái o đó...
Tôi quay ra, một bà già tất tả chạy vào, tay chân cuống quít
bà vừa thở hổn hển vừa phân trần :
- O ơi, trời Phật, mệ chạy theo miết mới đuổi kịp đó. Nề, o
coi nề, o đưa mẹ bốn trăm mà cái tờ trăm bên trong có một nửa tờ, tiền rách o
đưa lộn đó o ơi... Đổi lại cho mệ đi.
Dung xua tay nạt ngay :
- Không biết, tui đưa cho bà tiền hẳn hòi, bây giờ tôi về tới
nhà bà mới chạy theo, định ăn gian hả ?
Bà già cuống quít :
- Trời, tội nghiệp mệ mà o, mệ nói láo có trời đánh chết. Mệ
chưa ăn hột cơm mô vô bụng. Cầm tiền, mệ đếm mới thấy, chạy theo liền chớ. Chắc
o lộn đó. Làm phước đổi giùm mệ đi, gia tài có bấy nhiêu mà.
Dung trây trối :
- Không biết, tui đưa bạc bà đàng hoàng. Có ai làm chứng là
tui đưa bà bạc rách, bạc một nửa.
Bà già bắt đầu mếu máo. Cái miệng móm hở giơ cả hàm răng
thưa thớt đen thui. Bà già quay sang tôi phân trần :
- Em nói giùm mệ đi. Nề, tiền đưa làm răng mệ cầm theo rứa.
Khi đưa thì xếp như ri nề. Đến khi mệ mở ra mới biết chớ mô mệ có ăn gian, già
rồi gần xuống lỗ rồi. Đói thì xin ăn chớ không làm chuyện đó mô em nợ.
Chỉ có tôi là biết tờ bạc một nửa kia chính là của Dung. Bởi
tờ bạc đó, tôi đã bắt gặp dưới đống cát ẩm đằng trước, đưa cho thằng Út, và chắc
thằng Út đã đưa cho Dung, để Dung lừa bà cụ đáng thương kia. Tôi đón nhẹ tờ bạc
trên tay bà cụ, móc ví, lẳng lặng đưa cho bà tờ hai trăm khác. Số tiền duy nhất
tôi có trong mấy năm dành dụm ở Dĩ Trung. Bà già cám ơn rối rít. Khi bà già vừa
đi khuất, Dung níu lấy tay tôi sừng sộ :
- Anh ỷ có mấy trăm bạc rồi định làm nhục tôi hả.
Một phần buồn, một phần khinh, tôi làm thinh bước ra cửa.
Tiếng Dung đuổi theo :
- Ngó mặt sáng sủa mà ngu. Khi không nộp thêm hai trăm bạc.
Tôi quay sang Dung nghiêm giọng :
- Như vậy, đúng là Dung đã lừa bà già đó phải không ?
Dung hất mặt :
- Đời là một trường tranh đấu mà anh.
Tôi cười nhạt :
- Lừa người ta mà tranh đấu hả. Thiệt tôi không ngờ.
- Anh không ngờ gì. Chúng tôi sống như vậy đó, vậy mà có người
năn nỉ đi theo, chớ đâu ai thèm.
Tôi cố chận cơn tức đang dâng trào. Thôi còn nói làm gì với
người có tâm địa xấu như vậy. Tôi nhớ lại đêm trăng gặp Dung và lấy làm tiếc
sao tôi có thể so sánh hành động của Dung và hành động của cha tôi hồi sanh tiền.
Nhưng tất cả dù sao cũng muộn rồi. Tôi đã trót theo lao giờ
đành lao theo.
Mọi người đã lục tục trở về xe. Những tấm phông cảnh vội
vàng được gỡ đi trong khi mấy người đàn bà lo cơm nước. Hình như Dung không
mách lại với mọi người câu chuyện hồi chiều. Tôi nghĩ có lẽ nàng hối hận. Đêm ở
vùng nhiều cát này chỉ được nghe một thứ âm thanh đều đều của tiếng gió thổi
xua cát rào rào lên mái tôn. Kép Thuận Thành khèo tôi ra ngoài nói nhỏ :
- Tối nay, anh đi chơi với tôi không ?
- Ở đây có gì mà đi chơi, toàn cát với cát.
Thuận Thành mỉm cười bí mật :
- Hồi chiều tôi đi thăm dân tình ở đây rồi. Tụi dân tị nạn ở
đây giàu lắm, có đứa mang được cả xe hơi về đây nữa thì đủ biết. Còn ra dô,
truyền hình. Mình kiếm cách chớp bớt một cái ra dô nghe chơi đi. Chớ ở không buồn
muốn chết. Hai đứa mình đi đi.
Gương mặt Thuận Thành láo liên trong đêm. Hàm răng ánh vàng.
Đôi mắt sâu dữ tợn dưới cặp lông mày rậm. Tôi sửng sốt nhìn Thuận Thành và
không ngờ anh ta có can đảm rủ rê tôi làm chuyện đó. Đành rằng các vụ ăn cắp đồ
tươi của dân quê là đáng trách, nhưng chuyện đó, tôi nghĩ là còn hiểu được chớ
vụ đi ăn trộm thế này thì thật là…
- Ủa, tôi tưởng công việc chính của mình là công việc hát xướng,
còn việc trộm ra dô của đồng bào là nghề của bọn lưu manh chớ...
Thuận Thành trố mắt nhìn tôi, giọng nói của anh ta có vẻ bực
bội :
- Thôi, đừng giả ngộ nữa bạn, đạo đức luân lý chỉ là trò hề.
Có đi với tôi không thì nói đại phứt đi cho rồi.
Tôi không đi, nhưng tôi cũng khuyên anh đừng đi. Dân ở đây lạ
nước lạ cái, mình làm vậy coi không được. Với lại họ sẽ nghĩ gì về xứ mình.
Thuận Thành nói như rít giữa hai hàm răng :
- Được rồi, anh không đi hén, đồ quân tử khùng. Sáng mơi
gánh đi sớm thì có ai biết mẹ gì mà lo. Thứ đồ đàn ông con trai gì mà nhát gan.
Mắng mỏ xong, Thuận Thành băng mình vào đêm. Tôi đứng nhìn
theo ngao ngán. Bác Sáu Vĩ từ trong nhà ra đứng cạnh tôi hỏi nhỏ :
- Tụi bay cãi nhau hả ?
Tôi chỉ tay ra ngoài trời :
- Thằng Thành hắn đi chớp đồ của dân ở trại tạm cư đó bác.
Thiệt là... nghệ sĩ kiểu gì vậy.
- Ối hơi đâu mà nói. Tao khuyên mày hết nước miếng. Hồi nhỏ,
mày theo gánh hát của ba mày, mày có biết gì đâu, cứ thấy đời là màu hồng, là đẹp
đẽ. Mà dĩ vãng nào thì cũng đẹp đẽ hết. Lớn lên, mày nhìn đời bằng cặp mắt
khác, bằng cách phán đoán khác, thì thực tế nhứt định sẽ không giống như mình
nghĩ chớ sao.
- Nhưng tình thiệt là lối sống của những người ở đây không
lương thiện chút nào bác à. Còn bần tiện, chèn ép, đủ mọi thứ.
Tôi trút tất cả những ấm ức lên bác Sáu Vĩ :
- Đó bác coi đó cũng thấy. Từ ngày cháu về hát cho gánh này
đến nay, cháu cứ bị chèn lấn đủ thứ. Hôm rủ cháu theo đoàn bác Ba hứa đủ thứ,
nói sẽ tập tành cất nhắc cháu thành vai chánh của gánh, hứa thế này thế nọ.
Nhưng khi cháu đi theo rồi thì phần lớn cháu trở thành lao công cho gánh hát
hơn là kép hát. Thỉnh thoảng, cháu được đóng vai phụ, vai chẳng ra vai, trò chẳng
ra trò...
- Tao nghĩ cạn là tại cháu chưa quen sân khấu, chưa thuộc tuồng.
Ai mới vô nghề cũng từ vai phụ đi lên hết. Cứ ráng đi.
Tôi cố giải thích cho bác Sáu Vĩ hiểu rằng chuyện không đơn
giản như vậy :
- Không phải vậy đâu bác. Một gánh hát nhỏ như vậy đâu có cần
thêm người làm gì. Chẳng qua có cháu là để đỡ bớt gánh nặng cho đoàn trong việc
di chuyển, khuân vác. Hoặc qua một vài vai phụ thường thường. Rốt cuộc, cháu là
người bị lợi dụng.
- Cháu đừng nghĩ vậy. Cháu có tài, có học, rồi cũng nổi.
Tôi lắc đầu chán nản :
- Thiệt khó lắm bác. Cháu nghĩ kỹ rồi. Bầu gánh mà ghét mình
thì suốt đời ngoi đầu lên cũng hổng nổi.
- Ai ghét cháu đâu cà ?
- Thiệt ra cháu đâu có làm chi để cho họ ghét bỏ, nhưng tại
cháu không chịu hùa theo họ làm những cái việc không lương thiện. Nghèo thì
nghèo, chớ đâu có đến nỗi phải trộm của những người khác, nhứt là dân ở đây,
cháu biết, họ nghèo hơn trong mình nhiều lắm, lấy làm chi của họ. Mọi người
trong gánh, kể cả Dung cũng đâm ra coi cháu như cái gai trước mắt.
Tôi rưng rưng nước mắt nhớ lại những ngày sống bình yên nơi
Dĩ Trung. Những ngày bình dị mà trong lành. Còn ở đây, chỉ mới một tháng xuôi
ngược với gánh hát Sen Vàng mà lòng tôi đã chai sạn bởi những trắc tréo, bởi những
lường gạt của đời. Đời không đẹp như tôi tưởng. Những đoạn đường di chuyển
không trải hoa rải gấm như tôi mơ. Tâm hồn tôi đã được nhào nặn nuôi dưỡng
trong không khí hiền hòa, trong nếp sống êm đềm của Dĩ Trung, thì làm sao tôi
có thể chịu đựng được những cơn bão, cơn lốc xoáy của cuộc đời.
Trời tối đen. Tự phương xa, một vài ánh đèn nhạt tỏ mờ. Tiếng
gà gáy lỗi giờ văng vẳng đâu đó nghe xao xác. Tôi nhớ lại đêm tôi nằm đợi tiếng
gà gáy sáng để rời quận Dĩ Trung. Tôi chờ đợi trong nỗi lòng khó tả, chỉ muốn
mãi mãi đêm dài lâu, và tiếng gà im hẳn. Giờ đây, tại Dĩ Trung, chắc mọi công
việc đã ngừng hẳn. Những liếp phên đã hạ xuống, những cánh cửa đã đóng chặt lại.
Dĩ Trung đi vào giấc ngủ sớm để sáng mai canh gà gáy sáng đầu tiên sẽ đưa mọi
người ra ruộng cày bừa. Tôi đã quen rồi những giờ giấc cũ, bây giờ tôi phải thức
thâu đêm với tiếng trống tiếng đờn câu hát, với xiêm y rực rỡ, tiếng vỗ tay, tiếng
người xôn xao trong từng đêm hát. Buổi sáng tôi đâu còn lắng chờ tiếng gà gáy
sáng. Tôi ngủ muộn và mặt trời lên cao mới thức dậy trong trạng thái mệt mỏi,
rã rời. Cuộc sống thay đổi như thế đó. Và giờ đây, tôi thèm muốn biết chừng nào
được trở về Dĩ Trung nằm trên chiếc giường êm ấm, bên cạnh những người dân quê
hiền lành chất phác, cạnh những tấm lòng thương yêu bao dung thật tình. Vân ơi,
ba má ơi… Tôi kêu nhỏ tên những người thân giữa lòng bàn tay ướt nước. Đêm vẫn
đen. Và tôi không biết làm sao để trở về.
- Bây giờ, cháu định liệu ra sao ? Cái gì thắc mắc cứ việc
trình bày với bầu gánh. Mình có cái tự do riêng của mình chớ. Với lại, cháu có
ký giao kèo, thì đâu có lo.
Tôi gật đầu nhìn bác :
- Cháu chỉ muốn về Dĩ Trung thôi. Nhất định cháu phải về Dĩ
Trung.
Bác Sáu Vĩ gật đầu :
- Cháu khéo léo mà nói chuyện với họ. Giang hồ như họ thì
không vừa đâu đó cháu.
Bác Sáu Vĩ và tôi trở vào trong ngủ sớm.
*
* *