Quỷ cái vận đồ Prada - Chương 06-P2
Ba chuông, bốn chuông, rồi năm chuông… Hừm, trợ lý của ông
ta trốn đâu rồi? Cầu trời, làm sao tôi vớ được máy trả lời nhỉ. Hôm nay tôi
không có lòng dạ đâu nghe những chuyện thân mật và vô bổ mà ông Tomlinson rất
ưa kể lể. Đúng lúc đó thì thư ký của ông nhấc máy.
“Văn phòng Mr. Tomlinson đây.” thổ ngữ miền Nam của cô ta
ngân lên. “Tôi có thể giúp gì được không ạ?” Tôi cố nhịn cười.
“Chào Martha, Andrea đây. Tôi không muốn quấy rầy ông
Tomlinson, phiền chị nhắn lại cho ông rằng tôi đã đặt…”
“Andrea, chị biết là Mr. Tomlinson luôn muốn tiếp chị. Chị
giữ máy nhé.” Trước khi tôi kịp thoái thác thì trong loa đã vang lên giai điệu
Don’t Worry, Be Happy của Bobby McFerrin. Tuyệt. Ông Mờ-Cờ-Đờ thật khéo chọn ra
một âm điệu hơi bị siêu lạc quan để giải trí cho người gọi điện đến trong khi
phải cầm máy đợi.
“Andy đấy à, cô bé yêu quý của tôi.?” Ông khẽ nói với giọng
trầm dễ nhận. “Cô bé định tránh mặt Mr. Tomlinson hay sao đấy? Đã bao lâu rồi
tôi chưa có hân hạnh được nói chuyện với cô rồi ấy nhỉ?” Lâu la gì đâu, nói cho
thật chính xác là mới có một tuần rưỡi. Ông Mr. Tomlinson không chỉ mù, câm và
điếc, mà c òn có thói quen ngớ ngẩn là nói về mình bằng ngôi thứ ba.
Tôi hít một hơi thật sâu. “Chào ông Tomlinson, Miranda nhờ t
ôi nhắn lại cho ông là bữa trưa tổ chức ở nhà hàng Le Cirque, bà nói là ông
đã…”
“Cô bé,” giọng ông chậm rãi và bình thản. “Tạm gác qua một
bên chuyện kế hoạch được không. Cô hãy cho ông già này một niềm vui, và kể cho
Mr. Tomlinson nghe về cuộc đời mình đi. Cô kể cho ông ấy nghe được chứ? Nào, cô
bé, nói cho tôi biết là cô có thích được làm việc cho bà nhà tôi không?” Tôi có
thích làm việc cho vợ ông hay không à? Hừm, nói sao nhỉ. Gà con có reo lên sung
sướng khi bị diều hâu xòe móng túm không? Tất nhiên là tôi vô cùng hạnh phúc được
làm việc cho vợ ông, ông già đần ạ. Mỗi khi rỗi rãi, chúng tôi đắp mặt nạ dưỡng
da cho nhau và trao đổi về chuyện yêu đương của mình. Sống với Miranda chẳng
khác gì một cuộc liên hoan giữa các bạn bè thân thiết, ông nên biết thế. Lúc
nào cũng tràn ngập tiếng cười đùa.
“Ông Tomlinson, tôi yêu công việc của mình và rất sung sướng
được làm việc cho Miranda.” Tôi nín thở, cầu cho ông già chấm dứt ở đây.
“Tốt, Mr. Tomlinson rất xúc động khi thấy cô yêu thích công
việc đó.” Tuyệt vời, ông già lẩm cẩm ạ, thế nhưng tôi có xúc động không?
“Cảm ơn ông Tomlinson, chúc ông ăn ngon miệng.” tôi cắt lời
ông trước khi ông kịp đặt câu hỏi không thể tránh được về kế hoạch của tôi vào
cuối tuàn, và đặt máy.
Tôi dựa lưng vào ghế và ngó dọc phòng làm việc. Emily đang
nhíu mày tập trung tinh thần kiểm tra một hóa đơn 20.000 dollar thanh toán qua
thẻ American Express của Miranda. Vụ Harry Potter vẫn án ngữ sừng sững trước mặt
tôi, và tôi không được phép bỏ phí một giây nào, nếu còn muốn được yên ổn vào
cuối tuần này.
Lily và tôi đã lên kế hoạch cuối tuần này chỉ toàn xem
video. Tôi mệt mỏi vì công việc, còn Lily cũng nhức đầu vì học hành. Vì vậy,
chúng tôi định cả hai hôm cuối tuần sẽ lăn ra đi văng, chỉ sống bằng bia và
chip bột ngô. Không phải loại chip ít mỡ và Coca-Cola không đường. Và tuyệt đối
không mặc đồ tử tế. Mặc dù chúng tôi gọi điện cho nhau liên tục nhưng từ khi
chuyển đến thành phố tôi chưa thực sự dành nhiều thờì gian cho cô.
Từ hồi còn học lớp tám, chúng tôi là đôi bạn thân nhau nhất.
Tôi nhìn thấy Lily khi cô ngồi khóc bên bàn căng tin. Cô vừa chuyển đến đây sống
với bà và bắt đầu vào học ở trường tôi khi trước đó có dấu hiệu là bố mẹ cô
không bao giờ quay lại nữa. Từ vài tháng họ theo chân ban nhạc Grateful Dead
(khi sinh Lily cả hai mới mười chín tuổi và mê hút hít hơn trẻ con), để con lại
cho một lũ bạn trốn nhà đi sống tại một cộng đồng ở New Mexico (mà Lily vẫn
thích gọi là sống tập thể). Một năm sau vẫn chưa thâýa họ quay về, bà Lily đón
cô từ cộng đồng (hay từ chỗ “lũ tà giáo” theo cách gọi của bà) về sống với mình
ở Avon. Hôm Lily ngồi khóc ở căng tin là vừa lúc bà bắt cô cắt những lọn tóc xoắn
thừng bẩn thỉu và mặc một chiếc áo dài mà Lily không ưa chút nào. Tôi thích kiểu
cô nói chuyện, kiểu như “Câu làm rất Thiền” hay “Ta hạ áp suất chút nào” và
chúng tôi nhanh chóng kết bạn. Những năm cuối ở trung học chúng tôi như hình với
bóng, lên đại học chúng tôi ở chung phòng cả bốn năm ở Brown. Lily vẫn dùng dằng
giữa son môi MAC hay dây chuyền bện bằng dây gai và còn hơi lập dị so với những
người “bình thường” xung quanh, nhưng chúng tôi bù trừ cho nhau rất tốt. Tôi nhớ
cô. Vì dạo này, khi cô viết luận án tién sĩ năm đầu và tôi vất vả như một nô lệ,
chúng tôi hiếm khi thấy mặt nhau.
Tôi chỉ mong sớm đến cuối tuần. Những ngày làm việc kéo dài
mười bốn giờ làm chân, tay và lưng tôi ê ẩm. Giờ đây tôi phải đeo kính thay vì
dùng kính áp tròng mà tôi đã quen mười năm nay, vì mắt quá khô và mỏi. Mỗi ngày
tôi hút hết một bao thuốc, chỉ sống bằng cafê Starbucks (trừ vào lương, tất
nhiên) và sushi mua về (cũng trừ vào lương). Chỗ cân bị sụt sau trận kiết lị rồi
cũng nhanh chóng phục hồi, nhưng chúng lại biến mất từ khi tôi bắt đầu làm việc
ở Runway. Lý do có thể là không khí ở đây, hoặc sự ghẻ lạnh của mọi người trong
ban biên tập đối với tất cả các thứ gì ăn được. Tôi đã bị một trận viêm xoang,
da dẻ cũng tái nhợt đi trông thấy - vỏn vẹn trong vòng bốn tuần, mà tôi thì mới
hai mươi ba tuổi đầu. Và Miranda còn chưa có mặt ở văn phòng đấy! Kệ thây tất cả.
Tôi đáng được hưởng những ngày cuối tuần nhàn nhã lắm chứ.
Ngán ngẩm thay, thằng bé Harry Potter lại xía vào chuyện này.
Miranda gọi điện từ sáng sớm. Bà không cần đến một một phút để nói ra ý muốn của
mình, chỉ có tôi là lớ ngớ mãi mới diễn giải nổi lời bà. Tôi đã nhanh chóng học
được một điều, đó là trong thế giới của Miranda priestly thà làm sai một việc rồi
sửa sai bằng một đống thời giờ và tiền bạc, còn hơn thú nhận là không hiểu những
mẹnh lệnh rối mù và khó nghe của bà rồi bắt bà nói lại lần nữa cho rõ. Khi bà
làu bàu gì đó về chuyện mua quyển sách Harry Potter cho hai đứa song sinh sắp
bay sang Paris là tôi có linh cảm ngay rằng nhiệm vụ này sẽ đảo lộn kế hoạch cuối
tuần của tôi. Mấy phút sau, khi bà ta đột ngột đặt máy, tôi hốt hoảng ngó sang
Emily.
“Trời ơi, bà ấy vừa nói gì ấy nhỉ?” Tôi rên rỉ và tự oán
trách mình sao hèn nhát đến mức không dám xin Miranda nói lại lần nữa cho rõ.
“Tại sao tôi không thể hiểu lấy một chữ nào từ miệng bà ta? Có phải lỗi của tôi
đâu, Emily. Tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ của tôi cơ mà. Nhất định bà ấy cố tình làm
thế để tôi phát điên lên.”
Emily nhìn tôi với ánh mắt pha lẫn chán chường và thương hại
như thường lệ. “Cuốn sách này ngày mai sẽ có bán ngoài hiệu, nhưng Miranda
không có mặt ở đây để mua được nên bảo chị kiếm hai quyển đem ra phi trường
Teterboro. Sách theo máy bay qua Paris.” Cô lạnh lùng tóm tắt lại. Và liệu hồn
chớ có kêu ca gì về mệnh lệnh quỷ quái này. Tôi lập tức nhớ ra rằng Emily làm tất
cả - đúng là tất cả - để Miranda vừa lòng; tôi nhứn vai và câm miệng.
Nhất định tôi sẽ KHÔNG hy sinh một giây nào trong cuối tuần
cho Miranda! Và do tôi được sử dụng quyền lực và tiền bạc vô hạn (của Miranda)
nên tôi cắm đầu lao vào nhiệm vụ ấy ngay để tổ chức cho Harry Potter bay sang
Paris. Trước hết viết vài dòng cho Julia ở nhà xuất bản giáo dục cái đã.
Julia yêu quý,
Như trợ lý Andrea của tôi nói lại, chị là con người rất dễ mến
mà tôi phải cảm ơn nồng nhiệt. Andrea nói với tôi, chịi là người duy nhất ở New
York có khả năng kiếm được cho tôi vài quyển Harry Potter đáng yêu vào ngày
mai. Tôi đánh giá cao cố gắng và tài trí của chị. Chị cũng phải biết là chị sẽ
làm hai đứa con xinh đẹp của tôi hạnh phúc biết nhường nào. Và chị đừng ngại
nói với tôi, nếu tôi làm được bất cứ gì để đền ơn một người dễ mến như chị.
Thân mến chào chị,
Miranda Priestly
Tôi nhái chữ ký của Miranda với nét bay bướm hoàn hảo (bõ
công hàng tiếng đồng hồ tập ký dưới con mắt giám sát của Emily, cô cũng hướng dẫn
viết chữ “a” thứ hai có nét móc hơi dài hơn), đính bức thư vào ấn bản mới nhất
của Runway – chưa có ngoài sạp báo - rồi gọi người dưa thư hỏa tốc đem ngay cả
gói đến văn phòng nhà xuất bản giáo dục ở trung tâm thành phố. Cú này mà không
kết quả thì tài thánh cũng bó tay. Miranda không bận tâm chuyện chúng tôi mạo
chữ ký - nhờ thế bà cũng bị quấy rầy bởi những tiểu tiết lặt vặt – song nếu biết
tôi ký tên bà dưới một bức thư lịch thiệp và thân mật như vậy thì chắc bà sẽ nhảy
chồm lên mất.
Chỉ mới trước đây mấy tuần thôi, nếu Miranda gọi điện đòi
tôi làm việc gì đó cho bà vào cuối tuần thì nhất định tôi sẽ răm rắp cắt bỏ mọi
kế hoạch riêng, nhưng gìơ thì tôi đã đủ kinh nghiệm – và lì lợm - để du di tí
chút các quy định. Đằng nào thì ngày mai Miranda và hai đứa nhỏ cũng không có mặt
ở phi trường New Jersey khi Harry Potter đến nơi, vì vậy tôi không có cớ gì mà
phải tự tay đem sách ra phi trường cả. Cầm chắc là Julia sẽ nhả ra cho mình hai
quyển, tôi đi ngay vào các việc cụ thể. Nhấn một vài số điện thoại, sau một vài
giờ là kế hoạch hoàn tất.
Tôi chắc chắn là vài tiếng sau, Julia sẽ bật đèn xanh.
Brian, trợ lý cộng tác ở nhà xuất bản giáo dục, tối nay sẽ cầm hai cuốn Harry
Potter về nhà để sáng mai, thứ Bảy, không phải quay lại văn phòng. Brian sẽ gửi
sách lại cho thường trực của tòa nhà Upper West Side nơi anh ở, và mười một giờ
trưa mai tôi cho ôtô ghé qua lấy. Yuri, tài xế của Miranda, sẽ gọi vào số di động
của tôi để báo là sau khi ấy được sách ông đang trên đường ra sân bay
Teterboro. Hai cuốn sách ấy sẽ được chuyển tới phi cơ riêng của ông Tomlinson để
bay qua Paris. Tôi thoáng nghĩ xem có nên đặt mã số bí mật cho vụ này giống một
phim tình báo kiểu KBG, nhưng chợt nhớ ra rằng tiếng Anh của Yuri không được tử
tế cho lắm. Tôi cũng đã kiểm tra khả năng gửi sách qua dịch vụ DHL để chuyển
phát theo đường nhanh nhất, nhưng ở đó người ta không bảo đảm là sẽ tới trước
thứ Hai, nghĩa là cách này không thể chấp nhận được. Vậy chỉ còn phi cơ riêng.
Nếu mọi việc diễn ra đúng kế hoạch thì hai đứa nhỏ, Cassidy và Caroline, sớm Chủ
nhật này khi thức dậy tại phòng riêng ở Paris và uống cốc sữa buổi sáng sẽ được
đọc ngay chuyện mạo hiểm cảu Harry Potter - sớm hơn tất cả các bạn chúng trọn một
ngày. Nghĩ đến thế là tôi đã rạo rực cả người.
Mấy phút sau khi phân xong xe cộ và lên dây cót các cá nhân
liên quan, Julia gọi điện đến. Tuy là một chuyện rất mệt mỏi và có thể Julia bị
lôi thôi nhg Julia đã lo được hai quyển sách cho bà Priestly và trao cho Brian
rồi. Ơn Chúa lòng lành.
“Không sao tin được, hắn đính hôn rồi.” Lily hỏi khi tua lại
cuốn băng Ferris Bueller mà chúng tôi vừa xem xong. “Trời ơi, tớ định nói là hắn
ta mới hai mươi tư tuổi, vội vàng làm gì nhỉ?”
“Đúng thế, tớ thấy chuyện có vẻ kì quái.” Tôi trả lời từ
trong bếp. “Có thể hắn không được bố mẹ cho chạm vào chỗ tài sản khổng lồ đang
được ủy thác quản lý, nếu chưa ổn định được cuộc sống. Đó đủ là duyên cớ để hắn
phải lồng nhân đính hôn vào ngón tay. Hoặc có thể hắn cô đơn quá cũng nên?”
Lily nhìn tôi cười. “Tất nhiên, hắn yêu và sẵn sàng sống suốt
phần đời còn lại cùng cô ta là chuyện không thể xảy ra được, đúng không. Cậu
cũng đồng ý với tớ là chuyện khó tin lắm, phải không?”
“Chính xác. Chuyện không tưởng. Cậu có cách giải thích nào
khác không?”
“Nhất định rồi. Tớ đang vén màn cho khả năng thứ ba: hắn là
một tên đồng tính và vừa mới nhận ra điều đó - mặc dù tớ biết ngay từ đầu – và
cũng hiểu là bố mẹ hắn không chịu nổi cú sốc. Vì thế hắn cưới luôn cô gái đầu
tiên mà hắn vớ được. Cậu nghĩ sao?”
Phim tiếp theo trong chương trình là Casablanca. Trong khi
Lily tua nhanh phần giới thiệu đầu băng, tôi vào nhà bếp minỉntong căn hộ mini
làm hai cốc cacao trong lò vi sóng. Cả tối thứ Sáu chúng tôi nằm ườn xác ra xem
video, không làm gì thêm khác ngoài hút thuốc và chạy băng. Mãi đến chiều thứ Bảy
chúng tôi mới có hứng la cà xuống khu SoHo đi shopping vài tiếng. Lily mua áo nịt
mới cho buổi liên hoan giao thừa sắp tới, rôi chúng tôi uống chung một cốc kem
trứng to đùng trong quán càfê bên đường. Mệt mỏi nhưng vui vẻ lê chân về đến
nhà, chúng tôi bật tới bật lui tivi giữa When Harry Met Sally trên kênh TNT và
Saturday Night Live. Nghỉ ngơi xả láng sau một tuần quay cuồng đã thành thông lệ,
làm tôi quên khuấy vụ Harry Potter cho đến tận Chủ nhật, khi điện thoại chợt
réo lên. Chết rồi, Miranda! May mà đó là điện thoại di động của Lily, cô tán
chuyện tiếng Nga với ai đó, chắc là bạn cùng lớp. ơn Chúa, ơn Chúa, ơn Chú lòng
lành: không phải Miranda. Nhưng việc của tôi đâu đã xong. Đã sang Chủ nhật rồi,
và tôi vẫn chưa biết mấy quyển sách khốn nạn kia đã sang Paris chưa. Tôi tận hưởng
cuối tuần theo quyết tâm đã vạch ra một cách say sưa đến nỗi quên cả kiểm tra
công việc. Tất nhiên tôi vẫn mở điện thoại di động và để chuông ở mức to nhất,
nhưng chẳng may ai đó gọi điện để báo có sự cố thì đăng nào cũng quá muộn và
không làm gì được nữa. Lẽ ra hôm qua tôi nên cẩn thận phòng xa và xác định với
từng người trong cuộc là mọi công đoạn trong kế hoạch chi li tuyệt vời của tôi
đều ổn thỏa cả.
Tôi bới trong túi đồ đem theo, tìm chiếc điện thoại di động
của Runway phát cho mà nhờ nó lúc nào tôi cũng chỉ cách Miranda bảy con số. Tìm
mãi mới thấy nó ở tận đáy túi dưới mớ quần lót, rồi tôi lại lăn ra giường. Màn
hình báo là ở đây ngoài vùng phủ sóng, nhưng linh tính báo cho tôi biết rằng
Miranda đã gọi điện và bị nối thẳng với hộp thoại. Sao mà tôi căm thù cái điện
thoại này thế. Và cái điện thoại Bang & Olufsen mới tinh ở nhà nữa. Tôi
ghét cả điện thoại của Lily. Ghét tất cả điện thoại trên đời, ghét luôn ông
Alexander Graham Bell đã phát minh ra nó. Làm việc cho Miranda đồng nghĩa với
việc chịu đựng nhiều hiệu ứng phụ trong cuộc sống thường nhật, nhưng điên nhất
là lòng căm thù vô bờ bến mà tôi dành cho các loại điện thoại.
Đa số những người khác cảm nhận tiếng chuông điện thoại như
một tín hiệu vui. Ai đó tìm họ để chào hỏi, thăm sức khỏe, hay bàn kế hoạch. Với
tôi thì tiếng chuông thật đáng sợ hãi và lo lắng đến đứng tim. Tuy rằng trước
đây không khi nào tôi sử dụng công dụng báo cuộc gọi đợi, nhưng ký xong hợp đồng
lao động ở Runway thì tôi phải bật báo cuộc gọi đợi (để Miranda không bao giờ bị
nghe tín hiệu bận), hiển thị số điện gọi đến (để tránh các cuộc gọi Miranda),
báo cuộc gọi đợi với số điện của người gọi (để tránh tiếp bà ta khi đang nói với
người khác) và kích hoạt hộp thoại (để bà ta không nhận ra là tôi trốn bắt máy,
vì ít nhất thì cũng nghe được băng ghi âm trả lời). Tất cả những dịch vụ gia
tăng đó tốn 50 dollar mỗi tháng, nhưng cũng đáng đồng tiền bát gạo, vì chúng giữ
cho tôi được rảnh rang đầu óc. Thật ra cũng chẳng hẳn được rảnh rang, nhưng tôi
được cảnh báo.
Với điện thoại di động thì những rào cản hữu hiệu đó chanửg
có ích gì. Nó có những công như điện thoại bàn, đương nhiên, nhưng Miranda cho
rằng chẳng có bất cứ lý do gì để tắt nó đi cả. Tôi lúc nào cũng phải sẵn sàng
nhận điện. Khi Emily trao cho tôi điện thoại – trang bị bắt buộc ở Runway – và
dặn luôn mở máy, tôi đã rụt rè hỏi khi nào được tắt điện thoại, nhưng cô lập tức
gạt ngay.
“Thế lúc đi ngủ thì sao?” Tôi cố hỏi một cách vô vọng.
“Thì thức dậy mà nghe điện chứ sao nữa.” cô vừa trả lời vửa
giũa lại móng tay bị sứt.
“Còn nếu đang ngồi ở một nhà hàng sang trọng?”
“Thì chị làm như mỗi người New York vẫn làm: vừa ăn vừa gọi
điện.”
“Ở bác sĩ phụ khoa cũng thế?”
“Bác sĩ phụ khoa có khám tai đâu?” Ok, được rồi, tôi hiểu rồi.
Tôi miễn cưỡng với cái điện thoại di động khốn nạn nhưng
không lờ nó đi được. Vì nó mà tôi bị cột vào Miranda như đứa trẻ chưa được cắt
rốn, rời nó ra là tôi mất dưỡng khí để tồn tại và lớn lên. Miranda gọi điện
liên tục, và tôi phản xạ như con chó trong thí nghiệm của Pavlov. Reng reng –
tay tự động nắm thành quả đấm, vai ưỡn lên. Reng reng reng reng. Ôi tại sao bà
ta không để cho tôi yên, trời ơi, hãy quên đi là tôi có trên đời này - mồ hôi rịn
ra trên trán. Những ngày cuối tuần tôi đã quên kiểm tra xem máy có trong vùng phủ
sóng hay không , cứ ỷ lại là nếu có vấn để gì thì chuông đã réo. Đó là sai lầm
thứ nhất. Tôi tìm khắp phòng mới tìm ra một nơi có sóng cho mạng AT&T, rồi
nín thở bấm số đến hộp thoại.
Mẹ tôi để lại một tin nhắn rất đáng yêu, chúc tôi vui vẻ với
Lily. Một người bạn ở San Francisco tuần này có công chuyện ở New York và gọi
tôi đi chơi cùng. Chị tôi nhắc chớ quên gửi thiệp mừng sinh nhật cho ông anh rể.
Và lúc tôi tưởng là tai qua nạn khỏi thì trong ống nghe vang lên giọng nói đặc
Anh đáng sợ. “Aan-dree-aa. Miranda đây. Bây giờ là chín giừo sáng Chủ nhật ở
Paris và hai chúa bé vẫn chưa nhận được sách. Gọi điện lại cho tôi ở khách sạn
Ritz để báo chắc chắn là sách sắp đến rõ chưa. Hết.”
Tôi ức nổ con ngươi. Như mọi khi, không có một lời thân thiện,
không chào hỏi, tạm biệt hay cảm ơn. Chuyện đương nhiên. Nhưng dở nhất là đã gần
nửa ngày trôi qua từ khi có tin nhắn mà tôi vẫn chưa gọi điện lại cho bà. Đủ lý
do để bị sa thải, tôi biết, và đó là chuyện bất khả kháng. Như một kẻ nghiệp
dư, tôi đã ỷ lại kế hoạch tôi đã vạch ra rất hoàn hảo, thậm chí chẳng thèm để ý
là Yuri không gọi điện lại để báo đã lấy sách và đem tới sân bay. Tôi vội tra
dnah bạ trong máy và gọi ngay vào điện thoại di động của Yuri. Miranda tất
nhiên cũng trang bị cho Yuri một chiếc để sẵn sàng nhận lệnh 24/24.
“Alô Yuri, Andrea đây. Xin lỗi đã quấy quả ông vào Chủ nhật.
Tôi chỉ muốn hỏi hôm qua ông đã lấy sách ở địa chỉ đã nói chưa?”
“Alô Andy, rất vui được nghe tiếng cô,” giọng Nga ngọng nghịu
của ông như an ủi tôi. Ngay từ khi gặp tôi lần đầu ông đã gọi tôi bằng cái tên
Andy thân mật, như một ông chú trong nhà vậy, nghe dễ cảm tình chứ không như
Mr. Mờ-Cờ-Đờ. “Tất nhiên tôi đi lấy sách đúng như lời cô dăn. Tôi muốn giúp cô
mà.”
“Vâng, vâng, Yuri, chỉ vì Miranda vừa nhắn tin cho tôi là bà
ấy vẫn chưa nhận được sách, và tôi không biết là đã xảy ra chuyện gì.”
Yuri im lặng một lát, sau đó ông đưa tôi tên và số máy của
phi công lái chuyến máy bay riêng tối qua.
“Cám ơn, cám ơn ông rất nhiều,” tôi nói và vôi vàng nguệch
ngoạc ghi lại. Hy vọng là tay phi công giúp tôi tiếp. “Tôi phải gọi điện ngay.
Xin lỗi không nói chuyện tiếp được, chúc ông cuối tuần vui vẻ.”
“Chúc cô cuối tuần vui vẻ, Andy. Tôi tin là anh phi công sẽ
giiúp chị tìm được sách. Chúc chị may mắn.” ông hớn hở nói và cúp máy.
Lily đang làm bánh quế. Tôi cũng muốn phụ cô một tay, nhưng
tôi phải giải quyết vụ này ngay, không thì mất việc như bỡn. Có thể tôi đã mất
việc rồi cũng nên, chỉ tội chưa ai nói với tôi mà thôi. Ở vương quốc Runway này
đã từng xảy ra chuyện một biên tập viên thời trang bị đuổi việc khi đang hưởng
tuần trang mật. Và cô ta cũng chỉ biết tin đó khi tình cờ đọc tờ Thời trang Phụ
nữ Hằng ngày ở đảo Bali. Tôi vội nhấn số điện thoại của tay phi công mà Yuri vừa
đưa cho. Bực thật, chỉ gặp tin nhắn tự động.
“Alô Jonathan, đây là Andrea Sachs ở tạp chí Runway. Tôi làm
trợ lý cho Miranda Priestly, và định hỏi ông về chuyến bay hôm qua. Ồ, bây giờ
tôi mới nhớ ra là có khi ông vẫn còn ở Paris hoặc đang trên đường về. Vâng, tôi
chỉ muốn hỏi xem mấy quyển sách, vâng, tất nhiên là cả ông nữa, đã hạ cánh an
toàn xuống Paris chưa. Phiền ông gọi lại cho tôi theo số 917-555-8702, càng sớm
càng tốt. Cảm ơn ông. Bye bye.”