Những đứa con của nửa đêm - Phần III - Chương 27 - Phần 3
Các ảo thuật gia đều là Cộng sản, hầu như không có ngoại lệ. Cũng xin nói luôn rằng đồng thời với việc khám phá ra điều ấy, tôi, người đã được nuôi dưỡng trong tín ngưỡng chân chính kia của Ấn Độ (mà ta có thể gọi là Thương đạo[14]), người đã ruồng-bỏ-và-bị-ruồng-bỏ-bởi những ai tu tập đạo này, ngay lập tức thấy mình như cá gặp nước. Là phản đồ của Thương đạo, tôi sốt sắng hóa đỏ, đỏ nữa và đỏ mãi, cũng quả quyết và triệt để như có lần cha tôi từng hóa trắng, khiến giờ đây sứ-mệnh-cứu-nước của tôi có thể được nhìn nhận dưới một ánh sáng mới; nhiều phương pháp luận cách mạng đã nảy sinh trong óc tôi. Đả đảo ách thống trị của những lão cậu bán hàng rong bất hợp tác và những lãnh đạo kính yêu của lão! Đầu tràn ngập tư tưởng về đối-thoại-trực-tiếp-với-quần-chúng, tôi định qua khu trại của giới ảo thuật, kiếm sống bằng cách mua vui cho khách du lịch ngoại quốc lẫn bản xứ bằng tuệ nhãn thần diệu của mũi tôi, thứ cho phép tôi ngửi ra những bí mật giản đơn, kiểu du khách của họ. Picture Singh rủ tôi về ở chung lều với anh. Tôi ngủ trên tấm vải bố tả tơi giữa những sọt rắn kêu phì phì; nhưng tôi thấy thoải mái, cũng như tôi thấy mình đủ sức chịu đựng đói rét muỗi và (lúc đầu) cái rét buốt của mùa đông Delhi. Picture Singh, Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian này, đồng thời cũng là thủ lĩnh không tranh cãi của ghetto; mọi khúc mắc và cãi cọ đều được giải quyết dưới bóng cái ô đen khổng lồ không đâu không có mặt của anh; và tôi, người biết đọc biết viết và lại biết ngửi, thành ra một kiểu sĩ quan phụ tá cho người đàn ông đồ sộ này, người bao giờ cũng khuyến mại một bài giảng về chủ nghĩa xã hội kèm theo mỗi màn xiếc rắn, và người nổi tiếng khắp đường to ngõ nhỏ của thành phố này không chỉ về tài dụ rắn. Tôi có thể nói, với niềm tin tuyệt đối, rằng Picture Singh là người đàn ông vĩ đại nhất tôi từng biết.
[14] Thương tức là thương nhân, thương mại; hiểu nôm na là tín ngưỡng của con buôn.
Một buổi chiều, trong giờ chaya, ở ghetto xuất hiện một bản sao khác của gã thanh niên môi-âm-thần mà tôi đã gặp ở nhà cậu Mustapha. Đứng trên bậc thềm thánh đường, hắn giũ một tấm băng rôn cho hai gã phụ tá giăng lên. Trên đó có dòng chữ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO và biểu tượng con-bê-bú-mẹ của đảng Quốc đại của Indira. Mặt hắn trông đặc biệt giống khuôn mặt tròn trịa của một con bê, và khi mở miệng hắn phả ta một cơn lốc thối mồm. “Hỡi các anh chị em! Đảng Quốc đại nói gì với các bạn? Đây:rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng! Hắn không kịp nói gì thêm; đám đông rụt lại trước hơi thở như phân bò dưới nắng gắt của hắn, và Picture Singh bắt đầu cười hô hố. “Ô ha ha, đội trưởng, quá hay!” Và cặp môi-âm-thần, ngu ngốc hỏi: “Ô kê, anh, người anh em, có gì hay thì kể xem nào?” Picture Singh lắc đầu, ôm bụng: “Bài diễn văn, đội trưởng! Diễn văn tuyệt đỉnh!” Tiếng cười của anh từ dưới mái ô lăn ra và nhiễm vào đám đông cho đến khi tất cả chúng tôi đều lăn lộn nên mặt đất, cười sằng sặc, nghiền nát kiến, bụi phủ đầy người, vàgiọng nói của con bê non[15] Quốc đại la lên thất thanh: “Cái gì thế này? Anh bạn này không cho rằng mọi người đều bình đẳng? Tư tưởng thấp kém quá nhỉ...” nhưng giờ Picture Singh, ô-trên-đầu, đã sải bước về phía lều của anh. Cặp môi-âm-thần thở phào, tiếp tục diễn thuyết... nhưng không được bao lâu, bởi vì Picture đã quay lại, ôm dưới tay trái một cái sọt tròn nhỏ có nắp vàcặp dưới nách phải một ống sáo. Anh đặt cái sọt lên bậc thềm dưới chân anh giai Quốc đại; mở nắp; đặt sáo lên môi. Giữa những tràng cười lại rộ lên, gã chính khách trẻ nhảy bắn bốn mươi bảy xăng ti mét lên không khi một con hổ mangchúa ngái ngủ lắc lư ngóc đầu dậy từ cái sọt... Cặp môi-âm-thần rú lên: “Làm cái gì thế hả? Định giết tươi người ta à?” Và Picture Singh, phớt lờ hắn, ô đã xếp gọn lại, tiếp tục chơi, mỗi lúc một bốc hơn, và con rắn duỗi thẳng ra, picture Singh chơi nhanh nhanh nữa đến khi tiếng sáo đã lan khắp mọi ngóc ngách của khu ổ chuột và đe dọa làm tróc tường thánh đường, và sau cùng con rắn khổng lồ lơ lửng giữa không khí, được nâng đỡ chỉ nhờ ma thuật của tiếng sáo, vươn dài ba thước khỏi cái sọt và nhảy múa bằng cái đuôi... Tiếng sáo dịu đi. Nagaraj[16] thu mình cuộn lại. Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian đưa cây sáo cho gã trai Quốc đại: “Ô kê, đội trưởng,” Picture Singh hòa nhã nói, “cậu thử xem.” Nhưng cặp môi-âm-thần: “Hả, anh thừa biết tôi không làm được!” Picture Singh liền kẹp cổ con hổ mang, há miệng to thật to, phô ra một mớ tàn tích hào hùng của răng vàlợi; nháy mắt trái với gã trai Quốc đại, anh đút cái đầu con rắn hổ đang thò thụt lưỡi vào cái động khẩu gớm ghiếc đang ngoác rộng của mình! Đúng một phút trôi qua trước khi Picture Singh trả con hổ mang vào sọt. Hết sức nhẹ nhàng, anh bảo gã trai: “Cậu thấy đấy, đội trưởng, đấy là sự thật của vấn đề: ở đời luôn có kẻ hơn người kém. Nhưng nếu cậu nghĩ ngược lại, chì cũng tốt thôi.”
[15] Ở đây Rushdie chơi chữ: mooncalf trong tiếngAnh nghĩa là thằng ngốc, nhưng về mặt chữ thì nó nghĩa là con bê (calf), có ý mỉa mai Sanjay Gandhi chỉ như một con bê non (logo cũ của đảng Quốc đại thời Indira Gandhi vẽ hình một con bò cái và một con bê).
[16] Rắn chúa (Naga = rắn, Raj(a) = vua).
Chứng kiến cảnh này, Saleem Sinai hiểu ra rằng Picture Singh và các ảo thuật gia là những kẻ nhận thức tuyệt đối chắc chắn về hiện thực; họ nắm bắt nó vững vàng đến nỗi có thể uốn nắn nó ra sao tùy ý để phục vụ nghệ thuật, nhưng không bao giờ quên bản chất của nó.
Vấn đề của ghetto ảo thuật cũng là vấn đềcủa phong trào Cộng sản Ấn Độ; trong phạm vi khu trại, ta có thể thấy, dưới dạng thu nhỏ, vô số mâu thuẫn và bất đồng đang giày xéo nội bộ đảng này trên cả nước. Picture Singh, tôi phải nói ngay, đứng trên tất cả; là người cha tinh thần của ghetto, anh sở hữu một chiếc ô mà bóng râm của nó có khả năng khôi phục hòa khí giữa các phe phái đang hục hặc; nhưng những mâu thuẫn được đem đến dưới bóng ô của người-dụ-rắn ngày càng gay gắt hơn, bởi trong khi các xảo thuật gia, những người lôi thỏ ra từ mũ, hậu thuẫn đảng C.P.I. chính thống theo đường lối Moscow của Ngài Dange, phe đã ủng hộ bà Gandhi suốt thời kỳ ban bố Tình trạng khẩn cấp, thì các nghệ sĩ uốn dẻo bắt đầu ngả hơn về hệ tư tưởng phức tạp ngày càng thiên tả của phe thân Tàu. Những nghệ sĩ ăn lửa và nuốt kiếm hoan nghênh chiến thuật du kích của phong trào Naxalite; trong khi các nhà thôi miên và đi-trên-than-hồng ủng hộ tuyên ngôn của Namboodiripad (không theo cả Moscow lẫn Bắc Kinh) và căm ghét đường lối bạo động của phái Naxalite[17]. Đã xuất hiện xu hướng Trotskyist trong đám cờ bạc bịp, cũng như một phong trào Cộng-sản-thông-qua-bỏ-phiếu trong các thành viên ôn hòa của phe phúc ngữ. Tôi đã bước vào một môi trường nơi, trong khi mọi định kiến tôn giáo và vùng miền vắng bóng hoàn toàn, bản năng thiên phú xa xưa của đất nước này là chia tách đã tìm thấy nhiều hình thức biểu hiện mới. Picture Singh buồn rầu kể cho tôi rằng hồi tổng tuyển cử năm 1971 đã xảy ra một vụ án mạng kỳ quái nảy sinh từ vụ cãi cọ giữa một người nuốt lửa phái Naxalite và một thuật sĩ pheMoscow, người, sôi máu vì quan điểm của đối thủ, định lôi từ chiếc mũ ma thuật ra một khẩu súng; nhưng món vũ khí chưa kịp rút ra thì người ủng hộ Hồ Chí Minh đã thiêu chết đối thủ bằng cách thổi bùng lên một lưỡi lửa kinh hồn.
[17] Naxalite là từ chỉ những nhóm cộng sản theo đường lối vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích ở Ấn Độ.
Dưới bóng ô của mình, Picture Singh nói về một chủ nghĩa xã hội hoàn toàn không chịu ảnh hưởng nước ngoài. “Nghe này, đội trưởng,” anh bảo các nghệ sĩ phúc ngữ và múa rối, “khi về làng các cậu có mang chuyện mấy ông Stalin với Mao ra nói không? Nông dân Bihar và Tamil thì quan tâm gì việc Trotsky bị giết?” Chaya của chiếc ô ma thuật của anh làm nguội đi những cái đầu nóng nhất trong giới phù thủy; và gây ấn tượng mạnh mẽ với tôi rằng một ngày rất gần Picture Singh sẽ tiếp bước Mian Abdullah rất nhiều năm trước; và rằng, như con Chim ngân nga huyền thoại, anh sẽ rời ghetto để nhào nặn lịch sử hoàn toàn bằng sức mạnh ý chí của mình; và rằng, không như người anh hùng của ông tôi, không gì có thể ngăn bước anh cho đến khi anh, và lý tưởng của anh, đã giành chiến thắng... nhưng, nhưng. Luôn luôn có nhưng nhưng. Điều gì xảy ra, sẽ xảy ra. Chúng ta đều biết vậy.
Trước khi quay lại với câu chuyện đời tư của mình, tôi muốn tất cả biết rằng chính Picture Singh là người hé lộ cho tôi rằng nền kinh tế“đen”, đồi bại của đất nước này đã tăng trưởng ngang bằng với trạng thái “trắng” và chính thống của nó, bằng cách cho tôi xem một bức ảnh đăng báo của Bà Gandhi. Mái tóc bà ta, rẽ ngôi giữa, bên trắng như tuyết và bên đen như đêm, thành thử, tùy vào diện mạo bà ta muốn phô diễn, bà ta sẽ giống một con ermine hoặc một con chồn đuôi ngắn[18]. Sự tái hiện của ngôi giữa trong lịch sử; đồng thời, nền kinh tế phản ánh kiểu tóc của Thủ tướng... Những nhận thức quan trọng này đều nhờ Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian truyền đạt cho tôi. Picture Singh chính là người bảo tôi rằng Mishra, Bộ trưởng Đường sắt, cũng chính là bộ trưởng được chính thức bổ nhiệm của ngành hối lộ, đầu mối phê duyệt những áp phe lớn nhất của nền kinh tế đen, và người môi giới việc đút lót các bộ trưởng và quan chức hữu quan; không nhờ Picture Singh, tôi chắc chẳng bao giờ biết đến việc dàn xếp kết quả trong các kỳ bầu cử cấp bang ở Kashmir. Tuy vậy, anh cũng chẳng phải người say mê dân chủ: “Quỷ tha ma bắt trò bầu cử này đi, đội trưởng,” anh bảo tôi, “Mỗi lần như thế, những chuyện tồi tệ lại xảy ra; dân mình lại xử sự như một lũ hề.” Tôi, mê man trong cơn-sốt-làm-cách-mạng, không thể phản bác lại thầy.
[8] Ermine chính là chồn đuôi ngắn. Loài chồn này lưng xám bụng trắng, nếu nó đi bằng bốn chân, ta chỉ thấy nó màu xám, còn khi nó đứng bằng hai chân sau thì(khi nhìn từ phía trước) ta sẽ thấy nó trắng hoàn toàn.
Quy củ ở ghetto, tất nhiên, cũng có vài ngoại lệ: một hai ảo thuật gia vẫn theo tín ngưỡng Hindu và, về mặt chính trị, ủng hộ đảng Jana Sangh hệ phái Hindu của những kẻ cực đoan tai tiếng theo chủ thuyết Ananda Marga[19]; có cả cử tri Swatantra[20] trong số những người tung hứng. Bỏ qua vấn đề chính trị, bà lão Resham Bibi là một trong ít cư dân của cộng đồng này vẫn là một kẻ hoang tưởng vô phương cứu chữa, vẫn mê tín (chẳng hạn) rằng đàn bà cấm được trèo dừa, bởi cây dừa nào đã chịu sức nặng của đàn bà thì mãi mãi sẽ đậu quả chua... và có một fakir kỳ lạ tên là Chishti Khan, người có khuôn mặt láng mịn đến mức không ai biết ông ta mới mười chín hay đã chín mươi, và đã dựng quanh lều một kiến trúc kỳ quái bằng tre và giấy màu vụn khiến nhà ông ta trông như một bản sao thu nhỏ, nhiều màu của Thành Đỏ gần đấy. Chỉ khi đi qua cánh cổng pháo đài, người ta mới nhận ra rằng đằng sau cái mặt tiền hình cung được chế tác kỳ công gồm một dãy lô cốt và công sự bằng tre và giấy bồi ấy cũng là một căn lều xập xệ dựng bằng tôn và bìa như bao căn khác. Chishti Khan đã mắc một sai lầm căn bản khi để chuyên môn nhiễm sang đời thật; ông ta bị cả ghetto xa lánh. Giới ảo thuật đều giữ khoảng cách, sợ lây bệnh từ những giấc mơ của ông ta.
[19] Jana Sangh là một chính đảng lớn ở Ấn Độ, tồn tại trong giai đoạn 1951-1980, chủ trương truyền bá đạo Hindu, tiếng Hindi và bảo vệ bò thiêng. Ananda Marga là một chủ thuyết xã hội và tin ngưỡng ở Ấn Độ, có nguồn gốc tư tưởng xuất phát từ các triết lý Vệ Đà và Tantra.
[20] Một chính đảng theo tư tưởng tự do cổ điển ởẤn Độ.
Có vậy quý vị mới hiểu tại sao Parvati-phù-thủy, người sở hữu ma thuật thần kỳ đích thực, phải giữ kín chuyện đó suốt đời; bí mật về biệt tài được nửa đêm ban tặng của cô không dễ dàng nhận được sự tha thứ của một cộng đồng vẫn hằng phủ nhận khả năng tồn tại của những điều như thế.
Ở góc khuất của Thánh đường Thứ Sáu, nơi vắng bóng các ảo thuật gia, còn nguy cơ duy nhất là từ những người mót-đồng-nát, kiếm-thùng-gỗ-vứt-đi hay săn-sắt-vụn... đó là nơi Parvati-phù-thủy, hăm hở như mù tạc, cho tôi thấy cô làm được những gì. Mặc một tấm shalwar-kameez khiêm nhường may từ vải vụn của cả chục tấm khác, nữ pháp sư của nửa đêm biểu diễn cho tôi với niềm nhiệt tình và háo hức của một đứa trẻ. Mắt tròn xoe, tóc đuôi ngựa vặn thừng, môi đỏ căng mọng... tôi sẽ chẳng bao giờ cưỡng lại cô lâu đến thế nếu không vì gương mặt ấy, cặp mắt cái mũi đôi môi thối rữa ghê rợn của... Ban đầu năng lực của Parvati dường như không có giới hạn. (Nhưng có đấy.) À, thế thì: yêu tinh có được triệu đến? Thần Đèn có hiện lên, hứa cho chúng tôi giàu có và chu du thế giới trên thảm bay? Ếch có hóa thành hoàng tử, và đá có biến thành ngọc quý? Có chuyện bán-rẻ-linh-hồn, và gọi người chết sống dậy? Chẳng có gì hết; ma thuật mà Parvati-phù-thủy biểu diễn cho tôi - thứ ma thuật duy nhất cô bằng lòng biểu diễn - là loại ma thuật “trắng”. Như thể cuốn Kỳ Thư của Bà la môn, Atharva Veda[21], đã tiết lộ mọi bí mật của mình cho cô; cô có thể chữa bệnh và giải độc (để chứng minh, cô cho rắn cắn mình rồi chống lại nọc độc bằng một nghi lẽ kỳ lạ, gồm có cầu thần rắn Takshasa, uống nước hòa với tinh chất của cây Krimuka và sức mạnh của quần áo cũ đã luộc chín, và niệm một câu thần chú: Garudamand, thần ưng, phục thuốc độc, nhưng vô hiệu; tương tự như thế ta chuyển hướng độc lực của nó, như chuyển hướng một mũi tên) - cô có thể chữa lành những chỗ đau và luyện bùa - cô biết luyện bùa sraktya và Nghi thức Lễ Cây[22]. Và tất cả những điều này cô đã tiết lộ với tôi, trong một chuỗi màn trình diễn về đêm phi thường, dưới những bức tường của Thánh đường - nhưng cô vẫn kém vui.
[21] Cuốn thứ tư trong bộ sách thiêng của đạo Hindu (thường gọi chung là kinh Vệ Đà), nội dung chủ yếu là y thuật và pháp thuật.
[22] Sraktya là một loại gỗ quý chuyên dùng để luyện bùa. Câu thần chú của Parvati và nghi thức Lễ Cây đều xuất xứ từ cuốn Atharva Veda.
Như mọi lần, tôi buộc phải nhận trách nhiệm: mùi hương sầu muộn vây quanh Parvati-phù-thủy là tác phẩm của tôi. Bởi vì cô đã hai mươi lăm, và cái cô muốn ở tôi không chỉ là sẵn sàng làm khán giả của cô; Chúa mới hiểu vì sao, nhưng cô muốn tôi vào giường với cô - hay, chính xác hơn, nằm cùng cô trên tấm vải bao tải là giường của cô trong túp lều xập xệ được cô chia sẻ với một gia đình ba nghệ sĩ uốn dẻo đến từ Kerala, ba cô gái cũng mồ côi như cô - và như tôi.
Những gì cô làm cho tôi: dưới sức mạnh ma thuật của cô, tóc bắt đầu mọc ở nơi chúng chưa hề mọc lại từ khi lão Zagallo kéo quá mạnh; pháp lực của cô làm hai vết bớt trên mặt tôi nhạt đi sau khi xức thuốc thảo dược chữa thương; thậm chí chân tôi cũng bớt vòng kiềng dưới sự chăm sóc của cô. (Tuy nhiên, cô hoàn toàn bất lực trước bên tai điếc của tôi; không phép thuật nào trên trái đất đủ mạnh để tẩy sạch những di sản của cha mẹ để lại.) Nhưng dẫu cô làm cho tôi bao nhiêu, tôi vẫn không thể làm cho cô cái điều cô khao khát nhất; bởi mặc dù chúng tôi nằm xuống bên nhau dưới lối đi ở mặt khuất của Thánh đường, ánh trăng vẫn soi tỏ gương mặt ban đêm của cô, hóa thành, luôn luôn hóa thành gương mặt người em gái xa cách, mất tích của tôi... không, không phải em tôi... thành gương mặt thối rữa, biến dạng gớm ghiếc của Jamila Ca sĩ. Parvati xức lên người loại dầu cao tẩm bùa yêu, cô chải tóc hàng ngàn lần bằng chiếc lược làm từ thứ xương hươu kích tình; và (tôi không hề nghi ngờ) sau lưng tôi chắc hẳn cô đã thử nghiệm đủ loại huyền thuật ái tình; nhưng tôi đã mắc phải một bùa chú cũ hơn, và, dường như, không thể bị phá giải; định mệnh buộc tôi phải thấy khuôn mặt những phụ nữ yêu tôi biến thành đường nét của... nhưng quý vị biết những đường nét rữa nát, xộc vào mũi tôi mùi hôi thối kinh hoàng ấy là của ai rồi.
“Cô bé tội nghiệp,” Padma thở dài, và tôi đồng ý; nhưng cho đến khi mụ Góa phụ hút kiệtquá khứ hiện tại tương lai khỏi tôi, tôi vẫn phải chịu đựng lời nguyền của con Khỉ.
Khi Parvati-phù-thủy rốt cuộc phải thừa nhận thất bại, gương mặt cô phát sinh, sau một đêm, một nét dằn dỗi nổi bật và đáng lo ngại. Cô thiếp đi trong túp lều của ba chị em uốn dẻo mồ côi và tỉnh dậy với cặp môi đầy đặn bĩu hẳn ra trong một vẻ hờn dỗi tràn trề nhục cảm. Ba chị em mồ côi cho cô biết, và lo lắng bảo nhau không hiểu mặt cô bị làm sao; cô nỗ lực hết sức để đưa nét mặt mình trở lại như cũ, nhưng chẳng cơ bắp hay ma thuật nào có thể giúp cô phục hồi nguyên trạng; cuối cùng, đành lòng chấp nhận bi kịch này, Parvati chịu thua, thế là Resham Bibi bảo bất kỳ ai chịu lắng nghe: “Con bé tội nghiệp - nó đã bị thần phạt khi đang làm mặt dỗi.”
(Thật tình cờ, năm ấy, chị em phụ nữ thành thị sành điệu đều làm vẻ mặt tương tự nhằm tỏ ra gợi tình; đám người mẫu kiêu kỳ ở show thời trang Eleganza năm 73 đều bĩu môi khi sải bước trên sàn catwalk. Trong cảnh bần hàn cơ cực của khu ổ chuột của giới ảo thuật, nàng Parvati-phù-thủy bĩu môi là đỉnh cao của gương mặt thời trang.)
Các ảo thuật gia dốc rất nhiều tâm sức đểlàm Parvati cười trở lại. Bỏ bê cả công việc lẫn nhiệm vụ nhàm chán hơn là dựng lại những túp lều tôn-và-bìa đã bị gió to giật đổ, hay diệt chuột, họ biểu diễn những tiết mục khó khăn nhất hòng làm cô đẹp ý; nhưng đôi môi vẫn không suy suyển. Resham Bibi pha trà xanh ướp long não và ép cô uống hết. Tác dụng của trà gây ra một cơn táo bón nghiêm trọng đến nỗi không ai thấy cô đi đại tiện ở sau lều suốt chín tuần liền. Hai nghệ sĩ tung hứng trẻ nảy ra suy đoán rằng có lẽ cô bắt đầu thương khóc người cha quá cố một lần nữa, và đặt ra cho mình nhiệm vụ vẽ chân dung của ông trên một mảnh vải dầu cũ rồi đem treo nó bên trên manh chiếu bao tải của cô. Ba chị em pha trò, còn Picture Singh, hết sức buồn phiền, bắt rắn hổ mang tự thắt nút; nhưng tất cả đều không ăn thua, bởi vì nếu mối tình trắc trở của Parvati nằm ngoài khả năng chữa trị của chính cô, thì người khác hy vọng gì? Áp lực từ cặp môi của Parvati đã gây ra, ở ghetto, một tâm lý bất an không thể gọi tên, mà lòng thù ghét của toàn bộ giới ảo thuật đối mặt với những điều thần bí cũng không thểxua tan đi hoàn toàn.
Thế rồi Resham Bibi nảy ra một ý. “Chúng ta dốt quá,” bà lão bảo Picture Singh, “chuyện ngay trước mũi mà chẳng nhìn ra. Con bé tội nghiệp đã hăm lăm, baba - quá lứa nhỡ thì đến nơi rồi! Nó đang ao ước một tấm chồng!”Picture Singh kinh ngạc. “Resham Bibi,” anh gật gù tán thành, “não bà chưa chết hẳn đâu.”
Từ đó, Picture Singh tự lãnh trách nhiệm tìm cho Parvati một chàng trai thích hợp; khá nhiều thanh niên trong ghetto đã nếm mùi dụ dỗ nạt nộ dọa dẫm. Một số ứng cử viên đã được chọn ra; nhưng đều bị Parvati từ chối. Vào cái đêm cô bảo Bishmillah Khan, người nuốt lửa triển vọng nhất của khu trại, biến đi với hơi thở cay sẽ mùi ớt của gã, đến cả Picture Singh cũng tuyệt vọng. Đêm đó, anh bảo tôi, “Đội trưởng, con bé này làm anh vừa bế tắc vừa đau lòng; nó là bạn thân của chú, chú có ý tưởng gì không?” Rồi một ý tưởng nảy ra trong đầu anh, một ý tưởng phải đợi đến khi anh tuyệt vọng bởi vì ngay cả Picture Singh cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng đẳng cấp - tự động xem tôi là “quá tốt” đối với Parvati, vì xuất thân được cho là “cao quý hơn’’ của tôi, người Cộng sản lớn tuổi cho đến lúc này chưa từng nghĩ rằng tôi có thể... “Chú nói xem, đội trưởng,” Picture Singh ngần ngại hỏi, “chú định một ngày nào đó sẽ lập gia đình chứ?”
Saleem Sinai nghe một nỗi sợ hãi dâng lên trong lòng.
“Nghe này, đội trưởng, cậu thích con bé, đúng không hỉ?” - và tôi, không thể phủ nhận, “Tất nhiên.’’ Và giờ Picture Singh, cười toét miệng đến mang tai, trong khi rắn phì phì trong sọt: “Thích lắm không, đội trưởng. Lắm lắm không?” Nhưng tôi đang nghĩ đến ra khuôn mặt trong đêm của Jamila; và đi đến một quyết định tuyệt tình “Pictureji, em không thể lấy cô ấy được.” Và giờ anh, nhíu mày: “Không lẽ cậu đãcó gia đình, đội trưởng? Có vợ bìu con ríu ở đâu rồi?” Giờ thì hết cách; tôi, khẽ khàng, hổ thẹn, đáp: “Em không lấy ai được, Pictureji. Em không thể có con.”
Sự im lặng trong lều chỉ bị gián đoạn bởi tiếng rắn phì phì và tiếng chó hoang gọi nhau trong đêm.
“Cậu nói thật chứ, đội trưởng? Bất lực à?”
“Vâng.”
“Bởi vì không được nói dối về những cái -như thế, đội trưởng. Nói dối về năng lực đàn ông là rất, rất gở. Điều gì cũng có thể xảy ra, đội trưởng.”
Và tôi, tự gieo xuống đầu mình lời nguyền của Nadir Khan, mà cũng là của cậu tôi Hanif Aziz và của, trong vụ đóng băng và suốt một thời gian dài sau đó, cha tôi Ahmed Sinai, bị dồn đến chỗ phải nói dối một cách càng giận dữ hơn: “Em nói rồi,” Saleem kêu lên, “thật đấy, có thế thôi!”
“Vậy thì, đội trưởng,” Pictureji, đập tay lên trán, bi thảm nói, “Chúa mới biết phải làm gì với con bé tội nghiệp ấy.”