Những đứa con của nửa đêm - Phần II - Chương 22 - Phần 2
Bác Puffs trở thành một gương mặt quen thuộc trong cuộc sống của chúng tôi; hầu như tối nào bác cũng đến ngôi nhà ở đường Clayton, vào lúc tôi vẫn coi là giờ cocktail, để uống nước lựu và đề nghị Jamila hát đôi chút. Em, giờ đã trở thành một thiếu nữ rất mực dịu hiền, luôn chiều ý bác… sau đó bác sẽ đằng hắng như bị mắc gì ở cổ rồi bắt đầu thân mật trêu tôi về chuyện lập gia đình. Những nụ cười hai bốn karat làm tôi lóa mắt trong khi bác, “Đến tuổi cưới vợ rồi đấy, chàng trai. Nghe bác: kiếm một con bé sáng dạ nhưng sâu răng; cháu sẽ có bạn đời và két sắt cả hai trong một!” Con gái Bác Puffs, bác cam đoan, cô nào cũng đáp ứng tiêu chuẩn trên… Tôi, ngượng ngịu, ngửi thấy rằng bác chỉ nói đùa một nửa, sẽ thốt lên, “Ôi, Bác Puffs!” Bác biết cái biệt danh này; khá thích nó là khác. Vỗ đùi tôi, bác thốt, “Làm cao, hử? Được lắm. OK, cậu trai: cháu lấy quách một đứa nhà bác, bác đảm bảo sẽ nhổ sạch răng của nó; khi cháu cưới nó về, nó sẽ có một nụ cười bạc triệu làm của hồi môn!” Ngay sau đó mẹ tôi thường cố tình chuyển chủ đề; bà không hào hứng với ý tưởng của Bác Puffs, bất kể hàm răng giả kia đắt tiền đến đâu… vào tối đầu tiên ấy, cũng như rất thường xuyên sau này, Jamila hát cho Thiếu tá Alauddin Latif nghe. Giọng em lướt qua cửa sổ và làm tiếng xe cộ lặng im; chim ngưng hót và, ở tiệm bánk kẹp bên kia đường, đài bị tắt đi; đường phố đầy người đứng yên bất động, và giọng em tôi tràn qua họ… khi em kết thúc, chúng tôi nhận thấy Bác Puffs đang khóc.
“Một viên ngọc,” bác nói, xịt còi hơi vào chiếc mùi soa, “Thưa Ông Bà, con gái hai vị là một viên ngọc. Tôi xin ngả mũ kính phục. Cực kính phục. Cô bé đã cho tôi thấy rằng một giọng ca vàng còn đáng giá hơn một miệng răng vàng.”
Và khi tiếng tăm của Jamila Ca sĩ lên cao đến mức em không thể né tránh một buổi công diễn, chính Bác Puffs đã tung tin em bị một tai nạn ô tô khủng khiếp, làm em bị biến dạng; chính Thiếu tá (đã nghỉ hưu) Latif đã chế ra tấm chadar lụa trắng lừng danh, giấu-đi-tất-cả của em[15], tấm rèm hoặc màn, thêu kim tuyến và thư pháp tôn giáo, mà em e lệ ngồi sau mỗi lần công diễn. Tấm chadar của Jamila Ca sĩ được hai nhân vật dẻo dai, cơ bắp, cũng quấn khăn (song đơn giản hơn) từ đầu đến chân, chăng lên sân khấu – thông tin chính thức nói họ là tùy nữ của em, nhưng xác định giới tính của họ sau lớp burqa[16] là điều bất khả; và chính giữa tấm vải, viên Thiếu tá khoét một cái lỗ. Đường kính: tám xăng ti mét. Chu vi: được viền chỉ vàng tinh xảo. Lịch sử gia đình tôi một lần nữa trở thành vận mệnh của một quốc gia như thế đấy, bởi vì khi Jamila hát với cặp môi áp vào lỗ hổng thêu kim tuyến, Pakistan đã phải lòng một cô bé mười lăm tuổi mà đất nước này mới được thoáng nhìn qua một tấm vải khoét lỗ vàng-và-trắng.
[15] Loại khăn trùm đầu và thân trên, chỉ để lộ mặt của phụ nữ theo đạo Hồi.
[16] Một loại áo choàng trùm kín đầu và toàn thân được phụ nữ đạo Hồi mặc khi ra nơi công cộng.
Tin đồn tai nạn đã chính thức xác lập vị thế của em trong lòng người hâm mộ; những buổi hòa nhạc của em ken đầy khán giả trong nhà hát Bambino ở Karachi và lấp kín Shalimar-bagh ở Lahore; đĩa hát của em liên tục đứng đầu bảng doanh thu. Và khi em trở thành tài sản quốc gia, “Thiên thần của Pakistan”, “Giọng ca của Đất nước”, “Bullbul-e-Din” hay là họa-mi-của-đức-tin, và bắt đầu nhận được một ngàn lẻ một lời cầu hôn quả quyết mỗi tuần; khi em trở thành đứa con cưng của cả nước và trở thành một hiện tượng đe dọa lấn át vị thế của em trong chính gia đình tôi, em cũng đồng thời biến thành con mồi của loài virus song sinh của danh vọng, con thứ nhất biến em thành nạn nhân của chính hình ảnh của mình trong mắt dư luận, bởi vì tin đồn tai nạn buộc em luôn phải quấn burqa vàng-và-trắng, kể cả ở trường của bác Alia, nơi em tiếp tục theo học; trong khi con virus thứ hai làm em mắc bệnh cường điệu và đơn giản hóa bản thân, một hiệu ứng phụ khó tránh đối với các ngôi sao, khiến lòng sùng tín mù quáng và gây mù quáng và chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã nhen nhóm ở em thì nay bắt đầu chi phối tính cách em, tới mức gần như loại trừ mọi thứ khác. Danh vọng cầm tù em trong túp lều vàng; và, là tân nhiệm ái-nữ-của-quốc-gia, cá tính em bắt đầu chịu nhiều ảnh hưởng từ những khía cạnh khắc nghiệt nhất trong tính cách của dân tộc hơn là từ thế giới trẻ thơ của những năm em còn là con Khỉ.
Giọng hát của Jamila Ca sĩ liên tục xuất hiện trên Đài Tiếng nói Pakistan, vì thế với các làng quê của cả Cánh Tây lẫn Đông[17], em trở thành như một siêu nhân, chẳng biết đến mệt mỏi, một thiên thần hát cho đồng bào mình ngày cũng như đêm; trong khi Ahmed Sinai, mà chút âu lo sót lại về sự nghiệp của con gái đã được còn hơn cả được trấn an bằng thu nhập hoành tráng của em (tuy ông từng là một người Delhi, song giờ thì ông đã là một người đạo Hồi Bombay đích thực, đặt tiền bạc lên gần như trên hết), bắt đầu thích thú bảo em tôi: “Thấy không, con gái: đoan trang, thuần khiết, nghệ thuật và đầu óc kinh doanh có thể hoàn toàn đồng nhất với nhau; khôn ngoan như bố già của con mới giải quyết được vụ này.” Jamila mỉm cười ngọt ngào và tán đồng… em từ một cô gái gầy gò như con trai đang hóa thành một mỹ nhân mảnh mai, mắt một mí, da vàng óng, có mái tóc dài gần đủ để ngồi lên; kể cả mũi em cũng đẹp. “Ở con gái tôi,” Ahmed Sinai kiêu hãnh bảo Bác Puffs, “chính những gien quý tộc của đằng nhà tôi lại trội hơn.” Bác Puffs ném một cái liếc nhìn nghi vấn, kỳ cục về phía tôi và hắng giọng. “Một thiếu nữ cực xinh xắn, thưa ngài,” bác bảo cha tôi, “Đỉnh cao, hết sảy.”
[17] Thời điểm này Pakistan vẫn bao gồm hai phần lãnh thổ nằm phía Đông và phía Tây Ấn Độ. Năm 1971, Đông Pakistan mới ly khai và trở thành Bangladesh.
Tiếng sấm rền của những tràng pháo tay chưa bao giờ tắt bên tai em tôi; ở buổi hòa nhạc đầu tiên, nay đã thành huyền thoại tại Bambino (ghế của chúng tôi do Bác Puffs lo – “Chỗ oách nhất ở nhà hát!” – cạnh bảy Puffia của bác, ai nấy đều đeo mạng… Bác Puffs huých tôi, “Này, nhóc – chọn đi! Cứ thoải mái! Nhớ nhé: món hồi môn!”, còn tôi đỏ bừng mặt và chăm chú nhìn lên sân khấu), tiếng reo “Oaa! Oaa!” đôi khi át cả giọng Jamila; và sau buổi diễn chúng tôi tìm thấy Jamila sau cánh gà ngập trong một biển hoa, tới nỗi chúng tôi phải đánh vật để len qua vườn long não đang bừng nở của tình yêu từ cả quốc gia, để tìm thấy em đang gần như ngất lịm, không phải vì kiệt sức, mà vì hương thơm quá mãnh liệt của lòng ái mộ từ biển hoa kia đã lấp kín căn phòng. Tôi cũng thấy đầu bắt đầu bồng bềnh; đến khi Bác Puffs bắt đầu ném từng ôm hoa qua cửa sổ - chúng được một đám đông người hâm mộ nhặt lại – trong lúc bác rên lên, “Hoa thì tốt thôi, bố khỉ, nhưng một anh thư dân tộc thì cũng phải thở chứ!”
Tiếng vỗ tay cũng vang lên, trong buổi tối Jamila Ca sĩ (và gia đình) được mời đến Dinh Tổng thống để hát cho vị tổng chỉ huy của các lọ gia vị. Phớt lờ những tin tức trên báo nước ngoài về những khoản tiền tham nhũng và tài khoản tại nhà băng Thụy Sĩ, chúng tôi kỳ cọ đến khi sáng bóng lên; một gia đình kinh doanh khăn tắm dứt khoát phải sạch không tỳ vết. Bác Puffs dành cho hàm răng vàng một màn đánh bóng đặc biệt kỹ càng; và trong một đại sảnh nằm dưới tầm mắt những chân dung đeo vòng hoa của Muhammad Ali Jinnah, người sáng lập Pakistan, Quaid-i-Azam[18], và của bạn và người kế nhiệm bị ám sát của ông – Liaquat Ali, một tấm vải khoét lỗ được trương lên cho em tôi hát. Tiếng hát của em cuối cùng cũng tắt; một giọng nói của tua ngù vàng tiếp nối bài hát viền kim tuyến của em. “Jamila, con ta,” chúng tôi nghe, “giọng hát của con sẽ là lưỡi gươm của sự thuần khiết; là vũ khí của chúng ta để thanh tẩy tâm hồn con người.” Tổng thống Ayub là, như tự ông thừa nhận, một người lính đơn giản; ông ta tiêm nhiễm vào em tôi những phẩm chất nhà binh, giản đơn về trung-thành-với-lãnh-tụ và tin-vào-Chúa; và em, “Ý nguyện của Tổng thống là tiếng lòng của cháu.” Qua ô tròn trên tấm vải khoét lỗ, Jamila Ca sĩ cống hiến hết mình cho lòng yêu nước; và diwan-i-khas, tòa ngự khán phòng này, vang dậy tiếng pháo tay, song lịch thiệp, không phải tiếng oaa oaa ồn ã của biển người tại Bambino mà là sự tán thưởng chính quy từ đội mề-đay-và-sao đeo tua ngù cùng tràng vỗ tay hân hoan từ bậc cha mẹ đang ứa lệ. “Tôi nói!” Bác Puffs thì thầm, “cực đỉnh, hả?”
[18] Lãnh tụ vĩ đại.
Những gì tôi ngửi thấy, Jamila có thể hát lên. Sự thật cái đẹp niềm vui nỗi đau: mỗi thứ đều có hương riêng, có thể phân biệt được qua mũi tôi; mỗi thứ, trong màn trình diễn của Jamila, có thể tìm được tiếng nói lý tưởng của mình. Mũi tôi, giọng em: chúng đích thực là những thiên khiếu bổ sung cho nhau; nhưng chúng lại ngày một xa nhau. Trong khi Jamila hát những bài ca yêu nước, mũi tôi hình như lại lưu luyến những mùi xấu xí hơn xâm nhập vào nó: nỗi cay đắng của Bác Alia, mùi thối hoăng bất biến từ đám bạn học đầu óc thủ cựu của tôi; thế nên khi em thăng hoa tới trời cao, tôi rơi vào cống rãnh.
Tuy nhiên, nhìn lại, tôi nghĩ khi ấy tôi đã yêu em rồi, từ lâu trước khi có người bảo tôi… có bằng chứng gì cho tình yêu em gái không thể thổ lộ của Saleem không? Có đấy. Jamila Ca sĩ có chung một đam mê với con Khỉ Đồng đã tan biến; em khoái bánh mì. Chapati, paratha, tandoori nan? Đúng, nhưng. À, vậy thì: men nở có được chuộng hơn[19]? Có; em tôi – bất chấp lòng yêu nước – không ngớt thèm thuồng bánh mì ủ men. Và, ở khắp Karachi, đâu là nguồn bánh mì men nở chất lượng duy nhất? Không phải hàng bánh; thứ bánh mì ngon nhất thành phố được trao tay qua ô cửa sập duy nhất trên một bức tường kín như bưng, vào mỗi sáng thứ Năm, bởi các xơ của dòng tu kín Santa Ignacia. Mỗi tuần, cưỡi chiếc Lambretta, tôi mang về cho em những ổ bánh nóng hổi tinh khôi của các xơ. Bất chấp những dòng người xếp hàng rồng rắn; coi nhẹ mùi cay, nồng, ngộp hơi phân của những phố hẹp quanh tu viện; phớt lờ mọi công việc khác vào thời điểm đó, tôi đi lấy bánh mì. Tư tưởng phê bình hoàn toàn vắng bóng trong tim tôi; chưa một lần tôi hỏi chẳng lẽ em không thấy cái di tích cuối cùng này của đoạn tình duyên cũ giữa em với Thiên Chúa giáo có chút không hay với vai trò mới Họa mi của Đức tin của em.
[19] Bánh mì trộn men nở (yeast) là kiểu bánh mì của châu Âu. Các loại bánh mì kiểu Ấn như chapati, paratha và tandoori nan không dùng men này.
Có thể nào truy nguyên một tình yêu trái luân thường? Có phải Saleem, người hằng khao khát một vị trí trung tâm của lịch sử, đã mê đắm những gì gã thấy ở cô em gái, người hội tụ những hy vọng của chính gã vào cuộc đời? Có phải thằng Thò-Lò-nhưng-giờ-hết-rồi khắp người thương tích, một thành viên của Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm toàn thân tan nát không khác gì cô gái ăn xin Sundari đầy mặt sẹo dao, đã phải lòng sự toàn thiện toàn mỹ mới mẻ của đứa em? Từng là Mubarak, Kẻ được Ban phước, có phải tôi ái mộ ở em sự trọn vẹn của những mộng ước thầm kín nhất đời tôi?... Tôi sẽ chỉ nói rằng tôi chưa ý thức được điều gì xảy ra với mình cho đến khi, với chiếc scooter giữa cặp đùi mười sáu tuổi, tôi bắt đầu theo hơi những ả làng chơi.
Trong lúc Alia âm ỉ cháy; vào buổi ban đầu của khăn bông Hiệu Amina; ở thời kỳ thánh hóa của Jamila Ca sĩ; khi căn nhà lệch tầng, mọc lên theo lệnh của dây rốn, còn lâu mới hoàn thành; trong giai đoạn tình yêu muộn đơm hoa của cha mẹ tôi; bị bao vây giữa những tín niệm có phần cằn cỗi ở miền đất của những kẻ thuần khiết, Saleem Sinai bắt đầu chấp nhận chính mình. Tôi không nói rằng gã không buồn; từ chối kiểm duyệt quá khứ, tôi thừa nhận gã cũng lầm lì, cũng thường xuyên bất hợp tác, và chắc chắn là đầy trứng cá như hầu hết các cậu trai cùng lứa. Những giấc mơ của gã, bị tước bỏ những đứa trẻ của nửa đêm, chìm trong một nỗi hoài nhớ đến độ buồn nôn, khiến gã bật dậy ọc ọe vì mùi xạ nặng nề của cơn hối tiếc đè nén các giác quan; có những ác mộng về những con số đều bước một hai ba, về một cặp đầu gối linh hoạt như tay[20], siết chặt, bóp nghẹt… nhưng cũng có một năng khiếu mới, một chiếc Lambretta, và một tình yêu khiêm nhường, nhu thuận (tuy còn vô thức) dành cho em gái… Bứt cặp mắt người kể chuyện khỏi quá khứ đang được trần thuật, tôi nhấn mạnh rằng Saleem, hồi-ấy-và-bây-giờ, đã thành công trong việc hướng sự chú ý của bản thân vào tương lai đến-nay-vẫn-chưa-được-kể. Trốn khỏi, bất cứ khi nào có thể, căn nhà nơi hơi cay gắt từ sự ghen tị của bà bác biến cuộc đời thành quá sức chịu đựng, và một trường trung học tràn ngập những mùi khó chịu không kém, tôi nhảy lên con thiết mã và khám phá những nẻo đường mùi ở thành phố mới của tôi. Và sau khi biết tin về cái chết của ông tôi ở Kashmir, tôi càng thêm quyết tâm nhấn chìm quá khứ vào món mùi-hầm đặc quánh, sôi sục của hiện tại… Ôi những buổi đầu váng vất trước khi có cơ chế phân loại! Chẳng có hình thù gì (trước khi tôi khởi sự định hình chúng), đủ thứ mùi vị tràn vào trong tôi: mùi phân hủy thê lương của phân súc vật trong những khu vườn của bảo tàng trên đường Frere, mùi hơi người mưng mủ của những gã trai mặc quần thụng nắm tay nhau tối tối ở Sadar[21], mùi sắc như dao của những tia bã trầu và vị đắng ngọt lẫn lộn của trầu và nha phiến: tôi có thể đánh hơi thấy “trầu tên lửa” từ những con hẻm đông nghịt hàng rong giữa phố Elphinstone và đường Victoria. Mùi-lạc-đà, mùi-ô-tô, mùi hăng như muỗi mắt của khói xe tuk-tuk, hương thuốc lá lậu và “tiền đen”, xú khí cạnh tranh của đám tài xế xe buýt và mùi mồ hôi đơn thuần của hành khách bị lèn như cá hộp. (Một gã tài xế, hồi ấy, quá cay cú vì bị địch thủ ở hãng khác vượt mặt – mùi buồn nôn của thất bại trào ra từ tuyến nội tiết của gã – nên đã đánh xe đến nhà đối thủ vào buổi đêm, bóp còi đến khi anh bạn khốn khổ kia ló ra, rồi cán qua anh ta dưới hàng lốp xe sặc mùi, như bác tôi, phục hận.) Các thánh đường rót vào tôi mùi tinh dầu của sự sùng đạo; tôi ngửi thấy mùi quyền lực nồng đậm phát tán từ đoàn mô tô cắm cờ Quân đội; từ áp phích ở rạp chiếu bóng tôi nhận ra mùi hào nhoáng rẻ tiền từ những phim Viễn Tây[22] nhập khẩu và những phim võ thuật bạo lực nhất từ trước đến giờ. Có một thời gian, tôi như người say thuốc, đầu tôi quay mòng mòng trước sự phức tạp của mùi; nhưng rồi niềm khát khao mãnh liệt với hình thái của tôi đã lên tiếng, và tôi đã sống sót.
[20] Nguyên văn: prehensile, nghĩa đen là có khả năng cầm nắm. Tính từ này được dùng miêu tả các loài động vật có chi hoặc đuôi có khả năng cầm nắm như khỉ, vượn.
[21] Khu trung tâm thương mại của Karachi.
[22] Nguyên văn: spaghetti Western, một dòng phim Viễn Tây kinh phí thấp vào thập niên 1950-60, tiêu biểu nhất là những phim của Sergio Leone như A Fistful of Dollars.
Quan hệ Ấn-Pakistan ngày càng xấu đi; biên giới bị đóng cửa, khiến chúng tôi không thể đi Agra viếng ông tôi; chuyện Mẹ Bề trên di cư sang Pakistan cũng bị chậm lại ít nhiều. Trong lúc này, Saleem đang phát triển một lý thuyết tổng quát về mùi: quy trình phân loại đã bắt đầu. Tôi coi cách tiếp cận khoa học này là cách bày tỏ lòng tôn kính của riêng mình với linh hồn ông tôi… để bắt đầu, tôi hoàn thiện kỹ năng phân loại, cho đến khi tôi có thể phân biệt số lượng vô tận các loại cau và (khi nhắm mắt) mười hai nhãn hiệu đồ uống có ga trên thị trường. (Từ lâu trước khi nhà bình luận người Mỹ Herbert Feldman đến Karachi để bất bình trước việc thành phố này có tới một chục thứ nước ngọt có ga nhưng chỉ có ba nhà cung cấp sữa đóng chai, tôi có thể bịt mắt mà phân biệt Pakola với Hoffman’s Mission, Cirra Cola với Fanta. Feldman coi những đồ uống này là biểu hiện của chủ nghĩa đế quốc tư bản; còn tôi, ngửi ra được đâu là Canada Dry và đâu là 7-Up, tách biệt chính xác Pepsi với Coca, lại quan tâm hơn đến việc vượt qua bài test khứu giác tinh tế chúng đặt ra. Double Kola và Kola Kola, Perri Cola và Bubble Up đều được bịt mắt nhận diện và gọi tên.) Chỉ khi chắc chắn nắm vững các mùi vật chất tôi mới chuyển sang những mùi khác chỉ mình tôi ngửi thấy: hương vị của cảm xúc và một ngàn lẻ một động cơ làm nên con người: tình yêu và sự chết, lòng tham và khiêm nhường, đã-từng và chưa-từng được dán nhãn và sắp xếp chỉn chu trong các ngăn kéo của tâm trí tôi.
Những nỗ lực sắp xếp đầu tiên: tôi thử phân loại mùi theo màu – quần lót đun sôi và mực in trên tờ Daily Jang có chung một chất màu xanh, trong khi gỗ tếch lâu năm và rắm mới đều màu nâu sẫm. Ô tô và nghĩa địa được tôi xếp chung màu xám… ngoài ra còn có cách phân loại theo hạng cân: mùi hạng ruồi (giấy), mùi hạng gà (cơ thể vừa tắm xà phòng, cỏ), hạng bán trung (mồ hôi và hoa quỳnh); shahi-korma và dầu xe đạp xếp hạng bán nặng trong hệ thống của tôi, trong khi hoắc hương, tức giận, phản trắc và phân nằm trong số những mùi hạng nặng của trần thế. Và tôi có cả hệ thống hình học: sự tròn trịa của niềm vui và góc cạnh của tham vọng; có mùi hình elip, rồi thì ôvan và hình vuông… một nhà từ điển học của khứu giác, tôi du ngoạn đường Bunder và khu P.E.C.H.S[23]; một nhà hồ điệp học, tôi đánh bẫy những làn hơi như bẫy bướm vào mành lưới của lông mũi tôi. Ôi kỳ diệu thay những cuộc du hành trước buổi ra đời của triết lý!... Bởi tôi sẽ sớm nhận ra rằng, công việc của tôi, nếu muốn có chút giá trị nào, phải có một khía cạnh đạo đức; rằng sự phân loại duy nhất quan trọng là phân cấp chi tiết đến vô hạn những mùi tốt và xấu. Nhận rõ bản chất cốt lõi của đạo đức, ngửi được mùi gì là thiêng liêng hoặc báng bổ, tôi đã phát minh ra, trong sự cô lập của những cuộc rong ruổi bằng xe máy, môn khoa học của luân lý mũi.
[23] Một khu dân cư khá giả ở Karachi.
Thiêng liêng: mạng purdah, thịt halal, tháp của muezzin, và thảm cầu nguyện; báng bổ: đĩa hát của Tây, thịt lợn, rượu. Giờ tôi mới hiểu, tại sao các giáo sĩ (thiêng liêng) từ chối lên máy bay (báng bổ) vào đêm trước Id-ul-Fitr, thậm chí không chịu lên những chiếc xe tỏa ra thứ mùi bí hiểm đối lập với lòng kính Chúa, để chắc chắn mình có thể nhìn thấy trăng non[24]. Tôi học được sự tương khắc về mùi giữa đạo Hồi và chủ nghĩa xã hội, cũng như mâu thuẫn cố hữu giữa hương nước hoa cạo râu của các thành viên câu lạc bộ Sind và mùi nghèo khổ của đám ăn mày vạ vật ở cổng câu lạc bộ… tuy nhiên, càng ngày tôi càng bị thuyết phục bởi một sự thật xấu xí – nghĩa là cái thiêng liêng, cái tốt, rất ít thu hút tôi kể cả khi những mùi hương ấy vây phủ em tôi khi em hát; trong khi mùi hăng nơi cống rãnh dường như sở hữu một sự hấp dẫn khó cưỡng, chết người. Ngoài ra, tôi mới mười sáu; có những thứ đang sôi sục dưới thắt lưng, sau lớp quần vải thô màu trắng; và không một thành phố nhốt phụ nữ trong nhà nào lại thiếu gái điếm. Trong khi Jamila hát những điều thần thánh và tình-yêu-tổ-quốc, tôi khám phá sự báng bổ và dục vọng. (Tôi dư tiền để đốt; cha tôi đã trở nên không những yêu thương mà còn hào phóng).
[24] Ngắm trăng sau khi kết thúc tháng Ramadan là một nghi lễ thiêng liêng của người đạo Hồi.
Bên ngoài Lăng Jinnah vĩnh viễn không hoàn thiện, tôi kiếm gái làng chơi. Tụi thanh niên đến đây để cưa cẩm các cô gái Mỹ, dắt họ vào khách sạn hoặc bể bơi; tôi thích trả tiền và duy trì sự độc lập của mình. Và cuối cùng tôi đánh hơi ra người gái điếm trong gái điếm, người sở hữu một tài năng là tấm gương cho tài năng của tôi. Tên ả là Tai Bibi, và ả nói mình đã năm trăm mười hai tuổi.
Nhưng mùi của ả! Thứ mùi nồng đậm nhất mà gã, Saleem, từng ngửi thấy; gã bị mê muội vì một thứ gì trong đó, một thứ khí độ đế vương lưu dấu trong sử sách… gã thấy mình nói với sinh vật không răng ấy: “Tuổi tác của bà không quan trọng; quan trọng là cái mùi.”
(“Lạy Chúa,” Padma ngắt lời, “Gớm quá đi mất – sao ông có thể?”)
Mặc dù ả chưa bao giờ hé lộ mối liên hệ nào với một người lái đò Kashmir, cái tên ả tạo ra lực hút mãnh liệt nhất trong mọi lực hút; mặc dù ả có lẽ chỉ bỡn Saleem khi nói, “Cậu trai, ta năm trăm mười hai tuổi rồi,” cảm quan lịch sử của gã vẫn bị khêu gợi. Nghĩ gì về tôi tùy quý vị; tôi đã trải qua một chiều nóng, ẩm trong căn phòng trọ với một tấm nệm đầy rận và một ngọn đèn trần trụi và ả gái điếm già nhất thế gian.
Rốt cuộc điều gì làm tôi không cưỡng nổi Tai Bibi? Ả có tài câu dẫn gì mà khiến những gái điếm khác phải hổ thẹn? Thứ gì làm cánh mũi mới trở nên nhạy cảm của Saleem phát điên? Padma: người gái điếm cổ đại của tôi sở hữu khả năng kiểm soát tuyến nội tiết toàn diện đến mức có thể biến đổi mùi cơ thể cho giống bất kỳ ai trên đời. Các tuyến eccrine và aporine tuân theo chỉ thị của ý muốn cổ xưa của ả; và dù ả bảo, “Chớ hy vọng ta đứng dậy làm với cậu, cậu không đủ tiền trả đâu,” thuật tỏa hương của ả vẫn vượt quá sức chịu đựng của Saleem.
(… “Chhi-chhi,” Padma bịt tai lại, “Lạy Chúa, người đâu mà bẩn thỉu tởm lợm thế. Thật tôi không ngờ!”…)
Vậy là hắn ở đó, gã trai xấu xí dị dạng này, cùng với mụ khọm già, người bảo, “ta sẽ không đứng dậy, ta bị mụn cóc,” và nhận ra hai chữ mụn cóc có vẻ đã kích thích gã; thì thào bí mật về khả năng điều khiển tuyến eccrine-và-apocrine, ả hỏi gã có muốn ả thử bắt chước mùi của ai không, gã có thể tả và ả có thể thử, cứ vừa thử vừa sửa như vậy họ có thể… đầu tiên gã rụt lại, Không không không, nhưng ả dỗ dành gã bằng giọng nói như tiếng vò giấy, cho đến khi, bởi gã chỉ có một mình, cách biệt với thế gian và mọi thời gian, một mình với lão nương thần bí hoang đường này, gã bắt đầu miêu tả các mùi với sức thấu cảm của cái mũi kỳ diệu, còn Tai Bibi bắt đầu phỏng theo miêu tả của gã, và làm gã kinh hoàng khi bằng cách thử-và-sửa, ả thành công trong việc tái tạo mùi cơ thể mẹ gã các cô dì gã, ô hô cậu thích thế phải không sahibzada bé bỏng, tiếp tục đi, cứ thoải mái dí mũi sát vào đi, cậu là một anh chàng rất ngộ đây… cho đến khi đột nhiên, vì vô tình, phải, tôi thề rằng mình không bảo ả làm thế, đột nhiên trong quá trình thử-và-sửa mùi hương vạn lần không được phép nói ra ấy lan ra từ cơ thể già nua cũ kỹ nhăn nheo nứt nẻ của ả, và giờ gã không thể che giấu điều ả nhìn thấy, ô hô, sahibzada bé bỏng, ta vừa chạm phải cái gì đây, cậu không cần nói cô ta là ai nhưng chắc chắn đây là người ấy rồi.