Những đứa con của nửa đêm - Phần II - Chương 21 - Phần 2
Trước khi kể câu chuyện tôi bước vào sa mạc của những năm cuối đời mình ra sao, tôi phải thú nhận rằng tôi có khả năng đã trách oan uổng cha mẹ mình. Không một lần, theo chỗ tôi biết, không một lần trong suốt quãng thời gian sau mạc khải của Mary, họ tiến hành tìm kiếm đứa con máu mủ đích thực của mình; và tôi đã, ở vài thời điểm trong câu chuyện này, quy thất bại ấy cho việc thiếu khả năng tưởng tượng – tôi đã nói, ít nhiều, rằng tôi vẫn là con họ bởi vì họ không thể hình dung ra tôi ở ngoài vai trò đó. Và còn có những cách suy diễn tồi tệ hơn – như họ ngần ngại dang tay đón vào lòng một thằng bé bất bơ đã sống mười một năm nơi đầu đường xó chợ; nhưng tôi muốn nêu ra một động cơ cao quý hơn: có lẽ, bất chấp tất cả, bất chấp mũi-dưa-chuột-mặt-nhọ cằm-lẹm thái-dương-sừng chân-vòng-kiềng ngón-tay-cụt đầu-sư-cọ và (phải thừa nhận là họ không biết) tai trái điếc, bất chấp cả việc nửa-đêm-tráo-trẻ của Mary Pereira… có lẽ, tôi nghĩ, mặc dù tất cả những kích động ấy, bố mẹ tôi vẫn yêu tôi. Tôi đã rút chạy khỏi họ vào thế giới bí mật của tôi; sợ họ ghét bỏ, tôi không thừa nhận một khả năng là tình yêu của họ mạnh hơn sự xấu xí, mạnh hơn cả máu thịt. Có nhiều khả năng là, điều được thu xếp qua một cú điện thoại, điều cuối cùng đã xảy ra vào 21 tháng Mười một năm 1962, được thực hiện vì những lý do cao quý nhất; đó là, cha mẹ đã hủy hoại tôi vì tình yêu.
Ngày 20 tháng Mười một là một ngày khủng khiếp; đêm đó là một đêm khủng khiếp… sáu ngày trước, vào sinh nhật thứ bảy mươi ba của Nehru, cuộc giao tranh dữ dội với phía Trung Quốc đã bắt đầu; quân Ấn – JAWAN XUNG TRẬN! – đã tấn công quân Tàu ở Walong. Tin về thảm bại tại Walong, và cuộc tháo chạy của Tướng Kaul với bốn tiểu đoàn, đến tai Nehru từ thứ Bảy ngày 18; vào thứ Hai ngày 20, nó loan khắp báo đài và tới Điền trang Methwold. NEW DELHI TỘT CÙNG HOẢNG LOẠN! ẤN ĐỘ TOÀN QUÂN TAN TÁC! Ngày hôm đó – ngày cuối cùng của cuộc đời cũ của tôi – tôi và em gái và cha mẹ tôi quây quần quanh chiếc đài Telefunken, trong khi viễn thông gieo rắc nỗi sợ Chúa trời và Trung Quốc vào tim chúng tôi. Và lúc này cha tôi nói ra một điều định mệnh: “Mình ạ,” ông trầm giọng, trong khi tôi và Jamila run lên vì sợ hãi, “Begum Sahiba, đất nước này kết thúc rồi. Phá sản, Funtoosh.” Tờ báo buổi tối loan báo sự kết thúc dịch bệnh lạc quan: TINH THẦN DÂN CHÚNG BỊ HÚT KIỆT. Và sau kết thúc này, còn có những cái kết khác; những thứ khác cũng sẽ bị hút đi.
Tôi lên giường mà đầu đầy những khuôn mặt súng ống xe tăng Trung Quốc… nhưng đến nửa đêm, đầu tôi lại trống rỗng và im lặng, bởi Hội nghị nửa đêm cũng đã tiêu tan; người duy nhất trong đám trẻ ma thuật sẵn lòng nói chuyện cùng tôi là Parvati-phù-thủy, và chúng tôi, chán nản cùng cực vì điều Nussie-vịt-bầu chắc hẳn sẽ gọi là “ngày tận thế”, chẳng thể làm gì hơn ngoài việc chuyện trò trong im lặng.
Và còn nhiều sự hút kiệt khác, bình thường hơn: một vết nứt xuất hiện tại Đập Thủy Điện Bhakra Nangal vĩ đại, và hồ chứa nước khổng lồ ở đằng sau chảy tràn qua khe nứt… và cái liên doanh lấn biển của đám đàn bà nhà Narlikar, miễn nhiễm với lạc quan và thất bại hay bất kỳ thứ gì ngoài cám dỗ của tiền tài, tiếp tục hút đất ra từ lòng biển… nhưng vụ tiêu thoát sau cùng, thật sự đem đến cái tên cho chương này, xảy ra vào sáng hôm sau, ngay khi tôi vừa thở phào và nghĩ, rốt cuộc, cũng phải có gì đó kết thúc tốt đẹp chứ… vì buổi sáng chúng tôi nghe được một tin mừng đến không tưởng là Trung Quốc đã đột ngột, tuy không cần phải vậy, ngừng tiến quân; sau khi kiểm soát được dãy Himalaya, họ rõ ràng đã thỏa mãn; NGỪNG BẮN! báo chí reo mừng, và mẹ tôi cơ hồ ngất xỉu vì nhẹ nhõm. (Người ta đồn rằng Đại tướng Kaul bị bắt làm tù binh; Tổng thống Ấn Độ, Tiến sĩ Radhakrishnan, bình luận, “Rất tiếc là, thông tin này hoàn toàn sai sự thật”)
Bất chấp đôi mắt ròng nước và xoang mũi sưng phồng, tôi vẫn vui; bất chấp cả sự kết thúc của Hội nghị Những đứa trẻ, tôi vẫn tắm mình trong ánh hân hoan của hạnh phúc đang tràn ngập Biệt thự Buckingham; thế nên khi mẹ tôi gợi ý, “Nhà ta đi ăn mừng nào! Một chuyến dã ngoại, hai đứa thấy sao?”, đương nhiên là tôi sốt sắng đồng ý. Đó là sáng ngày 21 tháng Mười một; chúng tôi giúp làm sandwich và paratha; chúng tôi dừng lại ở một hàng nước ngọt và chất một xô nhôm đựng đá và một thùng Coca lên cốp chiếc Rover; bố mẹ đằng trước, con cái đằng sau, chúng tôi xuất phát. Jamila Ca sĩ hát cho chúng tôi nghe trên đường.
Qua xoang mũi đang bỏng rát, tôi hỏi: “Mình đi đâu đây? Juhu? Elephanta? Marve? Đâu ạ?” Và mẹ tôi, cười gượng gạo: “Bí mật, con cứ chờ xem.” Qua phố xá đầy những đám đông nhẹ nhõm reo mừng, chúng tôi phóng đi… “Ta nhầm đường rồi”, tôi thốt lên: “Đây đâu phải đường ra biển?” Cả bố mẹ tôi đồng thanh, đầy trấn an, đầy vui vẻ: “Chỉ dừng một chỗ thôi, rồi ta đi; bố mẹ hứa.”
Điện tín triệu hồi tôi; vô tuyến điện[3] làm tôi khiếp sợ; nhưng điện thoại mới là kẻ đặt trước ngày giờ địa điểm hủy hoại tôi… và bố mẹ đã nói dối tôi.
[1] Tức là sóng phát thanh.
… Chúng tôi dừng lại trước một tòa nhà lạ lẫm trên đường Carnac. Ngoại thất: đổ nát. Mọi cửa sổ: buông mành. “Đi với bố chứ, con trai?” Ahmed Sinai xuống xe; tôi, vui mừng được tháp tùng bố đi công chuyện, hớn hở đi cạnh ông. Trên cửa gắn một tấm biển đồng: Phòng khám Tai Mũi Họng. Và tôi, bỗng nhiên cảnh giác: “Cái gì đây, Abba? Sao mình lại đến…” Và tay ông, siết chặt vai tôi – thế rồi một người đàn ông áo trắng – và y tá – rồi “À vâng, thưa ngài Sinai ra đây là cậu Saleem – rất đúng giờ - tốt, tốt”; trong khi tôi “Abba, không – còn chuyến picnic…”; nhưng các bác sĩ đã dẫn tôi đi mất, cha tôi tụt lại sau, người đàn ông áo trắng gọi với ông, “Sẽ không lâu đâu – mà đình chiến mừng quá, hả?” Và y tá, “Cháu vui lòng đi theo cô để thay quần áo và gây mê.”
Lừa đảo! Lừa đảo, Padma! Tôi bảo rồi: đã một lần, dã ngoại lừa tôi; thế rồi đến một bệnh viện và một căn phòng với cái giường cứng và những ngọn đèn treo trần sáng lòa và tôi gào khóc, “Không không không,” và y tá, “Nào đừng ngốc thế, cháu thành người lớn đến nơi rồi, nằm xuống đi,” và tôi, nhớ lại khoang mũi đã bắt đầu mọi thứ trong đầu tôi, dịch mũi bị hít lên lên lên một-nơi-nước-mũi-không-nên-đến ra sao, mối liên hệ được thiết lập, và giải phóng những tiếng nói ở trong tôi thế nào, liền quẫy đạp la hét tới mức họ phải ghì tôi xuống. “Thiệt tình,” cô y tá nói, “đứa bé này thật là, tôi chưa thấy bao giờ.”
Và thế là điều bắt đầu trong tủ giặt đã kết thúc trên bàn mổ; bởi vì tay chân tôi bị ghì chặt xuống, và một người đàn ông bảo, “Cháu sẽ không cảm thấy gì đâu, còn dễ hơn cả cắt amiđan, chữa xoang nhanh í mà, nhoáng cái là xong,” và tôi “Không đừng mà không,” nhưng giọng nói lại tiếp, “giờ chú sẽ áp chiếc mặt nạ này lên mặt cháu, cứ đếm đến mười nhé.”
Đếm. Những con số bước đều một hai ba.
Tiếng khí thoát ra xì xì. Những con số giẫm đạp tôi bốn năm sáu.
Những khuôn mặt bồng bềnh trong sương mù. Và vẫn những con số hỗn loạn, tôi đang khóc, tôi nghĩ vậy, những con số bước thình thịch bảy tám chín.
Mười.
“Chúa ơi, thằng bé vẫn tỉnh. Thật bất thường. Tốt nhất là thêm liều nữa – cháu nghe được chú chứ? Saleem, phải không? Ngoan lắm, đếm đến mười lần nữa nhé!” Đừng hòng bắt được tôi. Hằng hà sa số tập hợp trong đầu tôi. Chủ nhân của những con số, tôi. Chúng lại đến rồi mười một mười hai.
Nhưng họ sẽ không đời nào để tôi dậy cho đến khi… mười ba mười bốn mười lăm… Ôi Chúa Ôi Chúa màn sương váng vất và tôi rơi ngược lại rơi rơi, mười sáu, qua mặt chiến tranh và lọ gia vị, rơi rơi, mười bảy mười tám mười chín.
Hai
Xưa có một cái tủ giặt và một thằng bé khịt quá mạnh. Mẹ nó cởi đồ và phô ra một Trái Xoài Đen. Những giọng nói xuất hiện, song không phải của các Tổng thiên thần. Một bàn tay, làm điếc bên tai trái. Và thứ gì sinh trưởng mạnh nhất trong mùa nóng: ảo tưởng, sự phi lý, dục vọng. Có chuyện ẩn náu trong tháp đồng hồ, và gian lận trên lớp. Và tình yêu ở Bombay nảy nở từ một tai nạn xe đạp; sừng-thái-dương nhập vào hõm-forcep, và năm trăm tám mươi mốt đứa trẻ tìm đến đầu tôi. Những đứa trẻ của nửa đêm: đã có thể là hiện thân của niềm hy vọng và tự do, và cũng có thể là những-kẻ-dị-hợm-đáng-bị-kết-liễu. Parvati-phù-thủy, người trung thành hơn cả, và Shiva, kẻ trở thành một triết lý sống. Có câu hỏi về mục đích, và cuộc tranh luận giữa ý thức và vật chất. Có đầu gối và mũi và mũi và đầu gối.
Bắt đầu có cãi cọ, và thế giới người lớn thâm nhiễm vào thế giới trẻ con; ích kỷ và hợm hĩnh và thù ghét xuất hiện. Và sự bất khả của một triết lý thứ ba; nỗi sợ của việc cuối-cùng-sẽ-chẳng-đi-đến-đâu bắt đầu lớn dần. Và điều không ai đề cập: rằng mục đích của năm trăm tám mươi mốt đứa trẻ nằm ở trong sự hủy diệt của chúng; rằng chúng đã ra đời, chỉ để trở thành không gì cả. Những lời tiên tri bị phớt lờ khi chúng nói đến cái kết cục này.
Và những mạc khải, và sự đóng cửa một tâm trí; và lưu đày, và lần trở về sau-bốn-năm; ngờ vực gia tăng, bất đồng nảy nở, từng mười, hai mươi người bỏ đi. Rồi, đến cuối cùng, chỉ còn một giọng nói ở lại; song bệnh lạc quan vẫn dai dẳng – điều-chúng-ta-chia-sẻ vẫn còn cơ hội khuất phục điều-chia-rẽ-chúng-ta.
Cho đến khi:
Im lặng bên ngoài tôi. Một gian phòng tối om (buông mành). Không nhìn thấy gì (không có gì để nhìn).
Im lặng bên trong tôi. Một mối liên kết bị cắt đứt (vĩnh viễn). Không nghe thấy gì (không còn gì để nghe).
Im lặng, như một hoang mạc. Và một cái mũi thông, thoáng (khoang mũi tràn ngập không khí). Không khí, như một kẻ đốt đền, xâm phạm tư thất của tôi.
Hút kiệt. Tôi đã bị hút kiệt. Chim parahamsa, đã hạ cánh.
(Vĩnh viễn.)
Ôi, nói toẹt ra đi, nói toẹt ra đi: ca phẫu thuật mà danh nghĩa là hút kiệt xoang mũi sưng phồng của tôi và việc nạo hút một-lần-cho-mãi-mãi đường mũi của tôi gây hậu quả là cắt đứt bất cứ mối liên kết nào từng được thiết lập trong tủ giặt; và tước bỏ của tôi khả năng ngoại cảm được mũi phú cho; và trục xuất tôi khỏi triển vọng về những đứa trẻ nửa đêm.
Cái tên chứa đựng số phận của con người; sống như chúng ta đang sống ở một nơi những cái tên chưa có được sự vô nghĩa của phương Tây, và vẫn không chỉ đơn thuần là những âm tiết, ta chính là nạn nhân của danh tự của mình. Sinai hàm chứa Ibn Sina, pháp sư bậc thầy, đạo sĩ Sufi[4] lão luyện; và cũng là mặt trăng Sin, vị thần cổ đại của xứ Hadhramaut[5], với chế độ liên kết riêng của mình, với quyền năng tác-động-từ-xa lên thủy triều của trái đất. Nhưng Sin cũng là chữ S, xoắn xuýt như linh xà, là mãng xà cuộn tròn trong một cái tên. Rồi còn có sự ngẫu nhiên khi phiên âm – Sinai, trong văn tự La Mã (nhưng Nastalid thì không) là tên của chốn-mạc-khải, của thoát-hài, của những điều răn và của bê vàng[6]; nhưng khi tất cả những điều đó đã được nói và làm, khi Ib Sina bị lãng quên còn vầng trăng đã lặn, khi rắn náu mình còn mạc khải chấm dứt, đó là cái tên của một hoang mạc[7] - của cằn cỗi, vô sinh, cát bụi; tên của sự kết thúc.
[4] Sufi: từ dùng để gọi những người tu hành theo tông phái thần bí (sufism) thuộc đạo Hồi.
[5] Tên một thành bang nằm ở phía Nam bán đảo Ả Rập, ngày nay thuộc Cộng hòa Yemen.
[6] Rushdie nhắc đến nhiều điển tích tôn giáo liên quan đến đỉnh Sinai. Đây là nơi (i) Tổng Thiên thần Gabriel đã giáng hạ và giao tiếp với Muhammad; (ii) theo tín ngưỡng Do Thái, đức Jehovah phán rằng tín đồ phải cởi giày khi đặt chân lên đỉnh Sinai vì đây là thánh địa; (iii) cũng tại đây, Moses đã nhận được hai tấm bia đá trên khắc Mười Điều Răn của Chúa; (iv) Aaron đã đúc tượng con bê bằng vàng làm thần vật tượng trưng cho Chúa để người Israel chiêm bái khi Moses vắng mặt.
[7] Bán đảo Sinai (ngày nay thuộc Ai Cập) là một khu vực có địa hình chủ yếu là sa mạc.
Tại Ả Rập – Arabia Deserta[8] – thời của Nhà Tiên tri Muhammad, có nhiều nhà tiên tri khác cũng cùng thuyết giảng: Maslama của bộ lạc Banu Hanifa ở Yamama, nằm ở trung tâm Ả Rập, và Hanzala ibn Safwan, và Khalid ibn Sinan. Chúa của Maslama là ar-Rahman, đấng Từ bi; ngày nay tín đồ đạo Hồi cầu nguyện Allah, ar-Rahman[9]. Khalid ibn Sinai được cử đến thuyết giáo cho bộ lạc ‘Abs; một thời gian, ông được họ tin theo, nhưng rồi thất bại. Không phải bao giờ các nhà tiên tri cũng là giả mạo chỉ vì họ bị lịch sử vượt mặt, và nuốt chửng. Sa mạc chưa bao giờ vắng bóng những người có đạo hạnh.
[8] Sa mạc Ả Rập.
[9] Theo kinh Quran, ar-Rahman là tên của Chúa (Allah). Rushdie ám chỉ Chúa của đạo Hồi là một đức Chúa “tổng hợp”, dung nạp những yếu tố từ tôn giáo khác.
“Mình ạ,” Ahmed Sinai nói, “đất nước này kết thúc rồi.” Sau vụ ngừng bắn và hút xoang, những lời này trở lại ám ảnh ông; và Amina bắt đầu thuyết phục ông di cư sang Pakistan, nơi các chị em còn sống của bà đang định cư, và nơi mẹ bà sẽ đến sau cái chết của cha bà. “Một khởi đầu mới,” bà gợi ý, “Janum, như vậy sẽ hay lắm. Quả đồi bị Chúa ruồng bỏ này còn gì cho ta nữa đâu?”
Vậy là rốt cuộc, sau bao sóng gió, Biệt thự Buckingham được giao vào tay đám đàn bà nhà Narlikar; và sau hơn mười lăm năm lỡ hẹn, gia đình tôi chuyển đến Pakistan, Xứ Sở của những kẻ Thuần Khiết. Ahmed Sinai hầu như không lưu lại gì; có nhiều cách chuyển tiền với sự trợ giúp của các công ty đa quốc gia, và cha tôi rành chuyện đó. Còn tôi, tuy buồn khi chia tay nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng không phải không vui khi được đi khỏi một thành phố nơi Shiva đang rình rập đâu đó như một quả mìn được chôn giấu kỹ càng.
Nhà tôi, rốt cuộc, rời Bombay vào tháng Hai năm 1963; và, vào ngày xuất hành, tôi cầm một quả địa cầu nhôm cũ ra vườn rồi chôn nó giữa những bụi xương rồng. Ở trong: một lá thư của Thủ tướng, một bức-hình-em-bé trang-nhất-cỡ-đại, với lời chú thích “Em bé của Nửa đêm”… Có thể chúng không phải là thánh tích – tôi không định so sánh những kỷ vật vụn vặt của đời mình với sợi tóc ở Hazratbal của Đấng Tiên tri, hay di hài của Thánh Francis Xavier tại Nhà thờ Bom Jesus – nhưng chúng là tất cả những gì sót lại từ quá khứ của tôi: một quả địa cầu nhôm móp méo, một lá thư ố mốc, một tấm ảnh. Chẳng còn gì khác, kể cả cái ống nhổ bạc. Ngoại trừ một hành tinh bị Con Khỉ giẫm nát, mọi kỷ lục còn lại được phong ấn trong hai cuốn thiên thư đóng kín, Sidijeen and Illiyun, hai cuốn Thiện Thư và Ác Thư; dù gì đi nữa, chuyện là như thế.
… Chỉ khi chúng tôi đã ở trên chiếc S.S.Sabarmati và buông neo ngoài Rann xứ Kutch, tôi mới nhớ tới cụ Schaapsteker; và, đột nhiên, tự nhủ có ai thông báo cho cụ rằng chúng tôi sắp đi không. Tôi không dám hỏi, sợ câu trả lời có thể là không; bởi vậy khi tôi nghĩ đến cảnh đội giải phóng mặt bằng vào việc, và hình dung ra những cỗ máy hủy diệt đập thủng văn phòng của cha tôi và căn phòng thiên thanh của tôi, kéo đổ cây cầu thang sắt cuốn của người hầu và căn bếp nơi Mary Pereira đã khuấy nỗi sợ của mình vào chutney và rau quả dầm, thảm sát hàng hiên nơi mẹ tôi từng ngồi với đứa bé như tảng đá trong bụng, tôi cũng tưởng tượng ra một quả cầu lăng[10] khổng lồ đâm sầm vào lãnh địa của Sharpsticker sahib, và ra chính ông già mất trí, nhợt nhạt kiệt quệ lưỡi chẻ, bị phơi ra ở đó trên nóc một tòa nhà đang vỡ vụn, giữa những ngôi tháp sụp đổ và mái ngói đỏ, ông cụ Schaapsteker nhăn nheo già đi chết dần dưới ánh mặt trời đã bao năm ông không nhìn thấy. Nhưng có lẽ tôi đang kịch tính hóa vấn đề; có lẽ tôi bị nhiễm tất cả những điều này từ một bộ phim cũ tên là Chân trời đã mất, trong đó những phụ nữ xinh đẹp và nhăn nheo và chết đi khi rời bỏ Shangri-La.
[10] Một quả bóng bằng sắt rất lớn, treo trên đầu cần cẩu như con lắc đồng hồ. Đây là thiết bị chuyên dùng để phá nhà, rất thịnh hành vào những năm 1950, 1960.
Với mỗi con rắn, có một cái thang; với mỗi cái thang, là một con rắn. Chúng tôi đến Karachi vào ngày 9 tháng Hai – và chỉ sau vài tháng, em gái tôi Jamila đã bước lên bệ phóng của một sự nghiệp sẽ đem lại cho nó cái tên Thiên thần của Pakistan và Họa mi của Đức tin; chúng tôi rời Bombay, nhưng vẫn được thơm lây. Còn một điều nữa: mặc dù tôi bị hút kiệt – mặc dù chẳng còn tiếng ai nói chuyện trong đầu tôi, và sẽ chẳng bao giờ nữa – nhưng lại có một sự bù đắp: ấy là, lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là niềm hân hoan tột bậc khi sở hữu một khứu giác.