Những đứa con của nửa đêm - Phần II - Chương 21 - Phần 1
Chương
21: Hút kiệt và hoang mạc
Thứ-gặm-mòn-xương
dứt khoát không dừng lại… chỉ còn là vấn đề thời gian. Đây là điều giúp tôi chi
trì: tôi bám víu vào Padma. Padma là điều quan trọng – cơ bắp của Padma, cánh
tay lông lá của Padma, Padma bông sen thanh khiết của tôi… người, bối rối, ra
lệnh: “Đủ rồi. Bắt đầu. Bắt đầu đi.”
Phải,
cần phải bắt đầu từ bức điện tín. Viễn cảm cho tôi đứng trên người khác; viễn
thông lại kéo tôi xuống…
Ngày
xửa ngày xưa, Amina Sinai đang gọt mụn cóc ở chân thì bức điện đến… Không, như
thế không được, không thể né tránh ngày tháng được: mẹ tôi, bàn chân phải gác
trên đầu gối trái, đang nạo những nốt chai trên gan bàn chân bằng một cái giũa
nhọn đầu vào ngày 9 tháng Chín năm 1962. Thế còn giờ? Giờ cũng quan trọng. À,
vậy thì: vào buổi chiều. Không, phải cụ thể hơn… Khi đồng hồ điểm ba giờ, tức
là, mặc dù ở phương Bắc, thời điểm nóng nhất trong ngày, người hầu đem cho bà
một tấm phong bì đặt trên đĩa bạc. Vài giây sau, ở tít New Delhi, Bộ trưởng
Quốc phòng Krishna Menon (tự mình chủ xướng, trong khi Nehru đi vắng để tham dự
Hội nghị các Thủ tướng thuộc khối Thịnh vượng chung) đưa ra quyết định trọng
đại nếu cần thiết sẽ dùng vũ lực với quân đội Trung Quốc ở vùng biên giới trên
dãy Himalaya. “Quân Trung Quốc phải bị đánh bật khỏi Triền Thag La,” ông Menon
nói vào thời điểm mẹ tôi xé phong bì. “Không được phép tỏ ra khiếp nhược.”
Nhưng quyết định này chỉ là chuyện vặt khi đặt cạnh hệ quả mà bức điện của mẹ
tôi mang lại; vì trong khi cuộc hành quân trục xuất kẻ thù, mật danh LEGHORN,
được chú định sẽ thất bại, và cuối cùng sẽ biến Ấn Độ thành một kịch trường
chết chóc nhất, Kịch trường Chiến tranh, bức điện sẽ ném tôi, một cách âm thầm
nhưng đích xác, đến với biến cố sẽ kết thúc với việc tôi bị trục xuất vĩnh viễn
khỏi cái thế giới bên trong tôi. Trong khi quân đoàn Ấn Độ XXXIII đang hành
động theo chỉ đạo của Menon được truyền đạt đến Đại tướng Thapar, tôi cũng bị
đặt vào một tình thế hiểm nghèo; như thể những sức mạnh vô hình đã kết luận tôi
đã vượt quá giới hạn những gì tôi được phép làm hoặc biết hoặc là; như thể lịch
sử đã quyết định đặt tôi chắc chắn ở vị trí của mình. Tôi hoàn toàn không được
có ý kiến gì trong việc này; mẹ tôi đọc bức điện, bật khóc và nói, “Các con, ta
về nhà thôi.”…và sau đó, như tôi đã nói khi bắt đầu câu chuyện trong một bối
cảnh khác, chỉ còn là vấn đề thời gian.
Bức
điện viết: XIN VỀ NGAY SINAI SAHIB BỊ BỤP TIM ỐM NẶNG LẮM SALAAMS ALICE
PEREIRA.
“Tất
nhiên là phải về ngay, chị thân yêu,” dì Emerald bảo bà chị, “Có điều,
cái bụp tim này, lạy Chúa, là gì không biết?”
Có
khả năng, thậm chí có nhiều khả năng, tôi mới là sử gia đầu tiên ghi lại câu
chuyện về cuộc-đời-và-thời-đại ly kỳ không chối cãi được của mình. Người nào
nối gót tôi, dù sao đi nữa, tất yếu sẽ phải đến với tài liệu này, cuốn cẩm nang
này, cuốn Hadith hay Purana hay Grundrisse[1] này,
để tìm hướng đi và cảm hứng. Tôi khuyên những nhà luận giải kinh điển tương lai
rằng: khi nghiên cứu những sự kiện xảy ra tiếp sau “Bức điện bụp tim”, hãy nhớ
rằng ở chính giữa tâm cơn bão đổ xuống đầu tôi – hay dùng một ẩn dụ khác, lưỡi
kiếm đã đánh ra đòn sát thủ với tôi – là một sức mạnh hội tụ
duy nhất. Tôi muốn nói đến viễn thông.
[1]
Hadith là tập hợp những cuốn sách về những tập quán và truyền kỳ về Muhammad và
các tông đồ, được xem như tài liệu cơ bản của Hồi luật. Purana là tập hợp các
Phạn văn không thuộc kinh Vệ Đà, giải thích về sự sinh diệt của vũ trụ và sự
tích các thần trong đạo Hindu. Grundrisse là cách gọi tắt Grundrisse
der Kritik der Politischen Ökonomie (Đại cương Phê phán Kinh tế Chính
trị), một bản thảo có ý nghĩa rất quan trọng trong các trước tác của Karl Marx.
Điện
tín, và sau điện tín, tới điện thoại, là tác nhân hủy hoại tôi; tuy nhiên, với
sự độ lượng, tôi sẽ không kết ai vào tội âm mưu; mặc dù dư luận sẽ dễ tin rằng
giới nắm quyền kiểm soát truyền thông đã quyết tâm giành lại vị thế độc quyền
đối với sóng thông tin trên toàn quốc… Tôi phải quay về (Padma đang cau mày)
với chuỗi sự kiện tầm thường của nguyên-nhân-và-hệ-quả: chúng tôi đến sân bay
Santa Cruz trên một chiếc Dakota, vào 16 tháng Chín; nhưng để giải thích về bức
điện, tôi phải đi xa hơn ngược chiều thời gian.
Nếu
Alice Pereira đã một lần phạm tội, khi đánh cắp Joseph D’Costa của Mary chị cô,
thì những năm sau này, cô đã đi được một chặng dài trên con đường chuộc tội;
bởi suốt bốn năm qua cô là người duy nhất bầu bạn với Ahmed Sinai. Sống biệt
lập trên quả đồi phủ bụi một thời từng là Điền trang Methwold, thiên tính hay
giúp đỡ của cô phải đáp ứng những đòi hỏi nặng nề. Ông sẽ bắt cô ngồi với ông
đến nửa đêm trong khi ông nốc tửu tinh và lèm bèm về những bất công trong đời
mình; ông nhớ ra, sau nhiều năm quên lãng, giấc mơ cũ về những bất công trong
đời mình; ông nhớ ra, sau nhiều năm quên lãng, giấc mơ cũ về dịch và sắp xếp
lại kinh Quran, và đổ lỗi cho gia đình đã làm ông suy nhược tới mức không còn
đủ tinh lực để bắt đầu một sứ mệnh tầm cỡ ấy; ngoài ra, vì có cô ở đó, cơn giận
của ông thường nhắm vào cô, dưới hình thức một tràng dài những lời chửi bới tục
tằn và rủa xả vô dụng được ông chế ra trong những ngày chìm đắm vào nỗi quên
đời. Cô nỗ lực thông cảm với ông: ông cô đơn, mối quan hệ từng là không thể
thất bại của ông với điện thoại nay đã bị hủy hoại sau những biến động kinh tế
của thời kỳ này; sự nhạy bén trong vấn đề tài chính cũng bắt đầu từ bỏ ông… và
cả ông cũng trở thành con mồi của những nỗi sợ kỳ quái. Khi con đường do Trung
Quốc xây ở vùng Aksai Chin bị phát hiện, ông bắt đầu tin rằng việc bọn mọi da
vàng đến Điền trang Methwold chỉ là chuyện sớm chiều; và chính Alice đã phải
trấn an ông bằng Coca-Cola ướp đá, và bảo, “Có gì mà sợ. Bọn Khựa ấy bé tí,
đánh sao nổi jawan của chúng ta. Cứ yên tâm mà uống Coca của ông đi; sẽ chẳng
có gì xảy ra đâu.”
Cuối
cùng ông làm cô kiệt quệ; nhưng rốt cuộc cô vẫn ở lại, chỉ vì cô yêu cầu và
nhận được những khoản tăng lương đáng kể, và gửi hầu hết số tiền về Goa chu cấp
cho chị Mary; nhưng vào ngày 1 tháng Chín, kể cả cô cũng không cưỡng nổi những
thỉnh phờ từ chiếc điện thoại.
Đến
lúc đó, cô cũng đã dành thời gian bên thiết bị ấy nhiều không kém gì ông chủ,
nhất là mỗi khi đám đàn bà nhà Narlikar gọi lên. Những phụ nữ ghê gớm nhà Narlikar,
vào thời điểm ấy, đang vây hãm cha tôi, gọi điện cho ông ngày hai lần, dỗ dành
thuyết phục ông bán nhà, nhắc ông rằng tình thế của ông rất tuyệt vọng, lượn lờ
trên đầu ông như kền kền lượn trên một godown đang cháy… vào ngày 1 tháng Chín,
như con kền kền ngày xưa, họ giáng xuống một cánh tay quật trúng giữa mặt ông,
bởi họ đã hối lộ Alice Pereoira để cô rời bỏ ông. Không thể chịu đựng ông hơn
nữa, cô kêu lên, “Ông tự đi mà nghe điện thoại! Tôi đi đây.”
Đêm
đó, tim của Ahmed Sinai bắt đầu trương lên. Chất chứa đầy thù hận cay đắng đau
buồn tự thương thân, nó phồng lên như trái bóng bay, nó đập quá nhanh, ngừng
đập, và cuối cùng đánh quỵ ông như một con bò mộng; ở bệnh viện Breach Candy,
bác sĩ phát hiện tim cha tôi thực tế đã biến dạng – một chỗ sưng mới lồi hẳn ra
bên dưới tâm thất trái. Nó đã, nói bằng chữ của Alice, “bụp” ra.
Alice
tìm thấy ông vào hôm sau, khi, tình cờ, cô quay lại lấy cái ô bỏ quên; như một
thư ký mẫu mực, cô viện tới quyền năng của điện tử viễn thông, điện thoại gọi
xe cứu thương và điện báo cho chúng tôi. Do chế độ kiểm duyệt thư tín giữa Ấn
Độ và Pakistan, “bức điện bụp tim” mất nguyên nhân một tuần mới đến được Amina
Sinai.
“Bay-về-Bom!”
tôi hét lên hoan hỉ, làm đám cu li ở sân bay giật mình. “Bay-về-Bom!” tôi reo
vui, bất chấp tất cả, cho tới khi con bé Jamila mới-trở-nên-nghiêm-túc nói,
“Kìa, Saleem, thiệt tình, thôi đi!” Alice Pereira đón chúng tôi tại
sân bay (điện tín đã báo trước cho cô); và sau đó chúng tôi lên một chiếc taxi
đen-và-vàng chính hiệu Bombay, tôi vừa đắm mình trong tiếng rao channa-nóng-đê,
trong chen chúc lạc đà xe đạp và người người người, vừa nghĩ thành phố của
Mumbadevi làm Rawalpindi nhìn chả khác gì một cái làng, vừa khám phá lại nơi
này, đặc biệt là những màu sắc – sắc rực rỡ bị lãng quên của hoa phượng và hoa
giấy, sắc xanh ngắt của nước chứa trong bể ở Đền Mahalaxmi[2], sắc
đen-và-trắng nhức mắt từ những cái ô của cảnh sát giao thông và sắc
xanh-và-vàng từ đồng phục của họ; nhưng phần lớn là màu xanh xanh xanh của
biển… chỉ có màu xám xịt trên gương mặt tiều tụy của cha tôi là làm tôi quên đi
vẻ rực rỡ muôn màu của thành phố, và khiến tôi tỉnh táo lại.
[2]
Đền thờ của đạo Hindu thường có một bể nước thiêng cho tín đồ tắm rửa để thanh
trừ bệnh tật.
Alice
Pereira bỏ chúng tôi tại bệnh viện để trở về làm việc cho đám đàn bà nhà
Narkilar; và giờ một bất ngờ xảy ra. Mẹ tôi, Amina Sinai, bừng tỉnh khỏi trạng
thái đờ đẫn và nỗi trầm uất và màn-sương-tội-lỗi và cơn đau-mụn-cóc khi vừa
thấy mặt cha tôi, và hình như đã tìm lại tuổi trẻ một cách thần kỳ; với đức cần
mẫn thiên phú đã phục hồi trọn vẹn, bà khởi sự quá trình giúp Ahmed hồi phục,
dưới sự thôi thúc của một quyết tâm không gì cản nổi. Bà đưa ông về căn phòng
ngủ ở tầng một nơi bà đã chăm sóc ông qua trận đóng băng; bà ở bên ông cả ngày
lẫn đêm, rót sinh lực vào cơ thể ông. Và tình yêu của bà đã được đền đáp, bởi
vì Ahmed Sinai không chỉ hồi phục hoàn toàn đến mức làm các bác sĩ người Âu ở
Breach Candy phải sững sờ, mà còn có một thay đổi tuyệt đối kỳ diệu hơn đã xảy
ra, ấy là, khi Ahmed trở lại là mình dưới sự săn sóc của Amina, ông không trở
lại với con người từng nhọc công nguyền rủa bà vật lộn với tửu tinh, mà với con
người vốn có của ông, chan chứa ăn năn và tha thứ và tiếng cười và lòng khoan
dung và phép mầu thần diệu nhất, ấy là tình yêu. Ahmed Sinai, đến cuối cùng, đã
đem lòng yêu mẹ tôi.
Và
tôi là con dê tế thần họ đem phụng hiến cho tình yêu của họ.
Họ
thậm chí đã bắt đầu ngủ chung trở lại; và dù rằng em tôi – với một thoáng tái
hiện của con Khỉ trước kia – nói, “Cùng giường ấy à, Allah, chhi-chhi, gớm
quá!”, tôi thấy mừng cho họ; và thậm chí, trong giây lát, vui mừng hơn cho
chính tôi, bởi vì tôi đã về lại miền đất của Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm.
Trong khi những tít báo hành quân ra trận, tôi khôi phục mối quan hệ với các
đồng bạn phi thường của mình, không hề biết có bao nhiêu cái kết đang chờ đợi
sẵn.
Vào
ngày 9 tháng Mười – QUÂN ĐỘI ẤN SẴN SÀNG CHO MỘT NỖ LỰC TOÀN DIỆN – tôi thấy có
thể triệu tập Hội nghị (thời gian và những nỗ lực của tôi đã dựng lên rào chắn
cần thiết quanh bí mật của Mary). Chúng trở lại đầu tôi; đó là một tối vui
mừng, một tối để chôn vùi những bất đồng cũ, để cùng nỗ lực toàn diện vì sự
đoàn tụ. Chúng tôi nhắc lại, hết lần này tới lần khác, niềm vui hội ngộ; phớt
lờ một sự thật sâu xa hơn – rằng chúng tôi cũng giống mọi gia đình, rằng những
cuộc đoàn tụ gia đình trong hình dung bao giờ cũng tươi vui hơn là trên thực
tế, và rằng sẽ đến lúc mọi gia đình phải đường ai nấy đi. Vào 15 tháng Mười -
ẤN ĐỘ BỊ TẤN CÔNG DÙ KHÔNG KHƠI MÀO – những câu hỏi tôi hằng sợ hãi và cố gắng
không khơi mào bắt đầu: Tại sao Shiva không có mặt? Và: Tại
sao cậu phải khóa trái một phần tâm thức?
Vào
ngày 20 tháng Muời, quân Ấn Độ bị quân Trung Quốc đánh bại – đập tan tại triền
Thag La. Thông cáo chính thức của Bắc Kinh tuyên bố: Vì mục đích tự vệ,
bộ đội biên phòng Trung Quốc buộc phải kiên quyết giáng trả. Nhưng khi,
cũng đêm ấy, lũ trẻ nửa đêm phát động một cuộc hiệp đồng công kích vào tôi, tôi
chẳng có phòng tuyến nào. Chúng tấn công tôi ở chính diện và từ mọi hướng, kết
tội tôi giấu giếm, quanh co, chuyên quyền, tự phụ; tâm trí tôi, không còn là
nghị trường, đã trở thành chiến trường nơi chúng đồ sát tôi. Không còn là “anh
Hai Saleem”, tôi tuyệt vọng im nghe chúng xé xác tôi; bởi, bất chấp mọi
âm-thanh-và-cuồng-nộ của chúng, tôi không thể khai mở thứ tôi đã niêm phong;
tôi không thể buộc mình nói cho chúng biết bí mật của Mary. Kể cả
Parvati-phù-thủy, bao lâu nay là người ủng hộ tôi nhiệt tình nhất, cuối cùng
cũng mất kiên nhẫn với tôi. “Ôi, Saleem”, cô nói, “Chúa mới biết cái đất
Pakistan ấy đã làm gì cậu; nhưng cậu khác xưa nhiều quá.”
Ngày
xưa, lâu rồi, cái chết của Mian Abdullah đã hủy hoại một Hội nghị khác, vốn tồn
tại được hoàn toàn nhờ vào sức mạnh ý chí của ông; giờ đây, khi lũ trẻ nửa đêm
mất lòng tin ở tôi, chúng đồng thời mất đi niềm tin vào điều tôi đã tạo dựng
cho chúng. Từ 20 tháng Mười đến 20 tháng Mười một, tôi tiếp tục triệu tập – hay
cố gắng triệu tập – những phiên họp ban đêm; nhưng chúng tháo chạy khỏi tôi,
không phải từng người mà hàng mười và hai mươi đứa một; mỗi đêm, số người sẵn
lòng tiếp sóng lại ít đi; mỗi tuần, cả trăm đứa rút về với cuộc sống riêng.
Trên dãy Himalaya, người Gurkha và Rajput tháo chạy tán loạn khỏi quân đội
Trung Quốc, còn ở thượng nguồn tâm trí tôi, một đạo quân khác cũng bị tiêu diệt
vì nhiều thứ - hục hặc, định kiến, chán nản, ích kỷ - những điều tôi cứ tưởng
là quá nhỏ nhặt, quá vặt vãnh không thể chạm đến chúng.
(Nhưng
lạc quan, như một căn bệnh mạn tính, dứt khoát không tiêu tan; tôi đã tiếp tục
tin – giờ vẫn tiếp tục – rằng điều-chúng-tôi-chia-sẻ cuối cùng sẽ lấn át
điều-chia-rẽ-chúng-tôi. Không: tôi sẽ không nhận trách nhiệm chủ yếu về sự kết
thúc của Hội nghị Những đứa trẻ; bởi vì thứ đã hủy diệt mọi cơ hội tái sinh của
nó chính là tình yêu của Ahmed và Amina Sinai).
…
Còn Shiva? Shiva, người bị tôi lạnh lùng chiếm đoạt quyền vị hợp pháp từ khi ra
đời? Không một lần, trong tháng sau cùng ấy, tôi huy động ý nghĩ của mình để
tìm kiếm hắn; nhưng sự tồn tại của hắn, đâu đó trong thế giới này, không ngớt
giày vò từng ngóc ngách tâm trí tôi. Shiva-kẻ-hủy-diệt, Shiva Đầu-gối-gõ-nhau…
hắn trở thành, với tôi, đầu tiên là cơn đau nhói của tội lỗi; rồi một nỗi ám
ảnh; và cuối cùng, khi hồi ức về sự hiện tồn của hắn mờ đi, hắn trở thành một
dạng triết lý; hắn đã thành đại diện, trong tâm thức tôi, của mọi hận thù và
bạo lực và sự-đồng-thời-yêu-ghét-mọi-vật-chất-trên-thế-gian; đến nỗi tận bây
giờ, khi nghe chuyện xác chết đuối nổi lềnh phềnh như bóng bay trên dòng
Hooghly và vỡ tung khi tàu bè quẹt phải; hay tàu hỏa bị đốt, hay chính trị gia
bị sát hại, hay bạo loạn ở Orissa hay Punjab, tôi lại có cảm giác có bàn tay
Shiva đè nặng lên mọi chuyện, chú định rằng chúng ta phải không ngơi bì bõm
trong vũng lầy giết chóc hãm hiếp lòng tham chiến tranh – rằng Shiva, tóm lại,
đã tạo ra chúng ta như bây giờ. (Hắn cũng ra đời vào nửa đêm; hắn, như tôi, gắn
kết với lịch sử. Các chế độ liên kết - nếu tôi đúng khi nghĩ rằng chúng áp dụng
cho tôi – cũng cho phép hắn tác động lên dòng chảy của thời đại.)
Tôi
nói như thể tôi không bao giờ gặp lại hắn nữa; thực ra là có. Nhưng chuyện đó,
đương nhiên, cũng phải xếp hàng như các chuyện khác; tôi chưa đủ khỏe mạnh để
kể cố sự ấy ngay lúc này.
Căn
bệnh lạc quan, dạo ấy, một lần nữa đạt đến độ quy mô đại dịch; tôi, trong khi
đó, bị một cơn viêm xoang hành hạ. Được kích phát một cách kỳ quái sau trận
thua ở triền Thag La, dư luận lạc quan về cuộc chiến trở nên béo tốt (và nguy
hiểm) như một trái bóng bơm quá căng; tuy nhiên, cái khoang mũi chịu khổ đã lâu
của tôi, bao giờ cũng trong tình trạng quá căng, cuối cùng đã buông súng trong
cuộc chiến với chứng nghẹt mũi. Trong khi các nghị sĩ tuôn ra những diễn từ về
“bọn bành trướng Trung Hoa” và “máu các jawan tuẫn đạo của chúng ta”, mắt tôi
bắt đầu trào nước; trong khi cả quốc gia tự thổi phồng lên, tự thuyết phục mình
rằng tiêu diệt bọn lùn da vàng là chuyện trong tầm tay, xoang mũi tôi cũng căng
phồng và làm biến dạng một khuôn mặt vốn đã gây sửng sốt tới mức chính Ayub
Khan đã nhìn chằm chằm vào nó với vẻ kinh ngạc không giấu giếm. Bị căn bệnh lạc
quan kiểm soát, sinh viên đốt Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai bằng hình nộm; với
cơn sốt lạc quan hiển hiện trên lông mày, đám đông tấn công các thợ giày, lái
buôn đồ cổ và chủ quán ăn Hoa kiều. Bừng bừng ý chí lạc quan, Chính phủ thậm
chí còn giam giữ các công dân Ấn Độ gốc Hoa – giờ được coi là “ngoại kiều thù
địch” – trong các trại ở Rajasthan. Tập đoàn công nghiệp Birla đã hiến tặng một
trường bắn mini cho đất nước; nữ sinh bắt đầu tham gia diễu hành của quân đội.
Nhưng tôi, Saleem, cảm thấy như sắp chết vì ngạt thở. Không khí, bị dịch lạc
quan làm đặc quánh lại, từ chối đi vào phổi tôi.
Ahmed
và Amina Sinai nằm trong số những bệnh nhân nặng nhất của dịch lạc quan vừa tái
phát; đã lây bệnh qua vật chủ là tình yêu vừa nảy nở, họ lại hòa mình vào cơn
phấn khích của xã hội trong một niềm hăm hở. Khi Morarji Desai, ngài Bộ trưởng
Tài chính uống-nước-tiểu, phát động phong trào “Kim khí làm vũ khi”, mẹ tôi
liền quyên tặng vòng vàng và khuyên tai lục bảo; lúc Morarji gợi ý về trái
phiếu quốc phòng, Ahmed Sinai liền mua cả mớ. Chiến tranh dường như đã đem đến cho
Ấn Độ một bình minh mới; trên tờ Thời báo Ấn Độ, một bức biếm
họa có tên “Chiến tranh với Trung Quốc” vẽ Nehru đang xem các đồ thị về “Độ Hòa
nhập Cảm xúc”, “Hòa hợp Chủ-Thợ” và “Niềm tin của Nhân dân vào Chính phủ” và
reo lên, “Chưa bao giờ tình hình lại tốt như thế này!” Bồng bềnh trên biển lạc
quan, chúng tôi – đất nước, cha mẹ tôi, tôi – mù quáng trôi về phía rặng đá
ngầm.
Là
một dân tộc, chúng tôi bị ám ảnh với những sự trùng hợp. Mỗi điểm tương đồng
giữa chuyện này với chuyện kia, giữa những thứ tưởng như không liên quan, khiến
chúng tôi hớn hở vỗ tay khi phát hiện ra. Nó là một dạng khát khao hình thái
của cả một dân tộc – hay có lẽ đơn giản là biểu hiện của niềm tin sâu sắc của
chúng tôi rằng hình thái ẩn náu trong hiện thực; rằng ý nghĩa chỉ hiển lộ trong
một sát na. Thế nên điềm báo là điểm yếu của chúng tôi… chẳng hạn, khi lá cờ Ấn
Độ lần đầu được kéo lên, cầu vồng xuất hiện trên cánh đồng nọ ở Delhi, một cây
cầu vồng màu nghệ và xanh; và chúng tôi thấy như được ban phước. Ra đời giữa sự
trùng hợp, tôi nhận ra nó liên tục săn đuổi tôi… trong khi người dân Ấn Độ mù
quáng hướng đến một thảm bại quân sự, tôi cũng đang đến gần (mà hoàn toàn không
biết) một thảm họa của riêng tôi.
Biếm
họa trên Thời báo Ấn Độ nói về “Độ Đoàn kết Cảm xúc”, ở Biệt
thự Buckingham, mẩu sót lại cuối cùng của Điền trang Methwold, cảm xúc chưa bao
giờ đoàn kết thế. Ahmed và Amina sống những ngày tháng như đôi chim cu đang
thời ve vãn; và trong khi tờ Nhân dân Nhật báo của Bắc Kinh
phê phán “Chính quyền Nehru rốt cuộc đã trút bỏ tấm áo Không Liên Kết”, hai anh
em tôi không phê phán gì, bởi lần đầu tiên sau nhiều năm chúng tôi không phải
giả vờ giữ lập trường không liên kết trong cuộc chiến giữa bố mẹ chúng tôi;
điều chiến tranh đã gây ra cho Ấn Độ, việc chấm dứt mọi hành động thù địch lại
giành được ở ngọn đồi hai tầng của nhà tôi. Ahmed Sinai thậm chí đã từ bỏ trận
chiến hằng đêm với tửu tinh.
Đến
ngày 1 tháng Mười một - ẤN ĐỘ TẤN CÔNG DƯỚI SỰ YỂM TRỢ CỦA PHÁO BINH – đường
mũi của tôi lâm vào tình trạng cực kỳ nghiêm trọng. Mặc dù mẹ bắt tôi chịu đựng
sự tra tấn hàng ngày của Bình xịt Vick’s và dầu Vick’s pha với nước (thứ mà,
với chăn trùm kín đầu, tôi bị bắt phải hít thật lực), xoang mũi tôi dứt khoát
không phản ứng trước mọi cách điều trị. Đây chính là ngày cha tôi dang tay và
nói. “Lại đây, con trai – lại đây để ta yêu con.” Trong cơn cuồng điên hạnh
phúc (có lẽ, rốt cuộc, bệnh lạc quan đã nhiễm vào tôi) tôi cho phép mình bị ép
tới ngạt thở trong cái bụng nhão xệ của ông; nhưng đến khi ông buông tôi ra,
nước mũi đã nhoe nhoét chiếc bush-shirt của ông. Tôi nghĩ đó là sự kiện cuối
cùng đã kết án tôi; bởi vì chiều hôm ấy, mẹ tôi phát động tấn công. Vờ như sắp
gọi cho bạn, bà thực hiện một cú điện thoại nào đấy. Trong khi quân Ấn tấn công
dưới sự yểm trợ của pháo binh, Amina Sinai lên kế hoạch cho sự sụp đổ của tôi,
dưới sự bảo vệ của một lời nói dối.