Những đứa con của nửa đêm - Phần I - Chương 06 - Phần 2
... Trong khi, bên dưới, cha tôi trông thấy một hình thù kỳ quái nhô ra từ bóng tối. Không hay biết tí gì về tai họa vừa xảy ra trên đầu mình, ông quan sát con quái vật từ bóng tối của căn phòng đổ nát: một sinh vật mặc quần thụng rách rưới trong cái mão hình yêu tinh, một thứ đầu ác quỷ bằng giấy bồi mỗi mặt đều là những bộ mặt cười nhăn nhở... đặc phái viên của băng Ravana. Kẻ nhận tiền. Tim đập thình thịch, ba thương gia nhìn con ma chui ra từ ác mộng của một bác nông dân ấy biến mất vào lối cầu thang dẫn lên chiếu nghỉ; và một lát sau, giữa cái tĩnh lặng của đêm trống trải, vang lên tiếng chửi thề vô cùng người của con quỷ. “Quân hiếp mẹ! Bọn hoạn quan từ lỗ nẻ chui lên!”... Không hiểu chuyện gì, họ thấy kẻ hành hạ quái dị của họ hiện ra, lao thẳng vào bóng đêm, biến mất. Những lời chửi rủa của gã... “Lũ giao hợp đằng đít! Quân lợn đè! Đồ ăn phân chính mình!”…lởn vởn trong gió. Giờ họ leo lên, sự bối rối khiến tâm thần họ hoảng loạn; Butt tìm thấy một mẩu vải xám bị xé rách; Mustapha Kemal cúi xuống một đồng rupee nhàu nát; và có lẽ, phải, sao lại không, cha tôi thoáng liếc thấy bóng đen lông lá của một con khỉ... và họ đoán.
Và giờ là tiếng rền rĩ của họ và tiếng rủa the thé của ngài Butt vọng lại lời chửi bới của con quái vật; và một trận chiến nổ ra, không lời, trong đầu bọn họ: tiền hay godown hay godown hay tiền? Ba thương gia cân nhắc, trong nỗi sợ hãi câm lặng, câu đố trọng yếu này - nhưng mà, dù họ có phó mặc chỗ tiền cho đàn chó và người chuyên bới rác, làm sao chặn được những kẻ châm lửa? - và rốt cuộc, sau khi không ai hé răng nói gì, quy luật khó cưỡng của tiền tươi thóc thật đã chiếm lĩnh họ; họ bổ xuống cầu thang đá, dọc bãi cỏ, qua những lần cổng đổ nát, rồi chạy - TÁN LOẠN! - xuống đường hào, bắt đầu vốc rupee nhét vào túi, xúc thật lực cào thật lực vơ thật lực, mặc kệ những bãi nước đái và quả thối, ôm niềm tin trái ngược mọi khả năng rằng đêm nay - nhờ hồng ân của... - chỉ một lần đêm nay thôi, băng cướp sẽ không thể giáng xuống đòn báo thù của mình như đã hứa. Nhưng, tất nhiên...
... Nhưng, tất nhiên, Ramram Nhà Tiên tri không phải đang thật sự lơ lửng giữa không trung, cách mặt đất hai mươi xăng ti mét. Tiếng hét của mẹ tôi lắng đi; bà nhìn kỹ lại; và bà nhận thấy một cái giá nhỏ, chò ra từ trong tường. “Trò rẻ tiền,” bà tự nhủ, và, “Mình làm gì ở đây thế này, ở cái xó xỉnh tồi tàn của kền kền đang ngủ và thợ múa khỉ, chờ nghe những thứ dớ dẩn gì không biết từ một lão guru[5] bay lên bằng cách ngồi trên giá?”
[5] Bậc đạo sư thông thái, người hướng dẫn về tinh thần cho tín đồ Hindu.
Điều Amina Sinai không biết là, lần thứ hai trong lịch sử, tôi chuẩn bị buộc thế giới cảm thấy sự hiện diện của mình. (Không: không phải con nòng nọc giả mạo trong bụng bà đâu: tôi muốn nói bản thân tôi, trong vai trò lịch sử của mình, vai trò mà các vị thủ tướng đã viết “... đấy là, theo một nghĩa nào đó, tấm gương của hết thảy chúng ta.” Đêm hôm đó, những thế lực vĩ đại đang vận động; và tất cả những ai có mặt sắp cảm nhận được quyền năng của chúng, và khiếp sợ.)
Mấy anh em họ - từ một đến bốn - vây quanh ô cửa người phụ nữ da đen vừa bước vào, bị thu hút như những con ngài tới ánh nến là tiếng hét của bà... Lặng lẽ quan sát bà dưới sự hướng dẫn của Lifafa Das tiến đến ông thầy bói không ra dáng thầy bói, là ông lang bó xương người dụ rắn và anh xiếc khỉ. Giờ là những tiếng thì thào khích lệ (và có phải cả tiếng khúc khích sau những bàn tay thô kệch?): “Ôi sẽ là một số mệnh tuyệt vời lắm đấy, Sahiba!” và, “Kìa, anh, bà đây đang chờ!”... Nhưng tay Ramram này là ai? Một tên buôn bán cò con, một gã xem tướng hai hào, một kẻ ban phát mấy lời tiên đoán bùi tai cho những phụ nữ khờ khạo - hay là hàng xịn, người nắm giữ chìa khóa? Và Lifafa Das: có phải anh chỉ thấy, ở mẹ tôi, một phụ nữ có thể thỏa mãn với một trò bịp hai rupee, hay anh nhìn thấy sâu hơn, tới tận trái tim dưới lòng đất của nỗi yếu đuối trong bà? - Và khi lời tiên tri đến, có phải mấy anh em họ cũng kinh ngạc? - Rồi vụ sùi bọt mép? Cái đó thì sao? Và có thực là mẹ tôi, dưới tác động xáo trộn của buổi tối kích động này, đã từ bỏ sự kiểm soát đối với bản ngã quen thuộc của bà - mà bà vừa cảm thấy tuột khỏi mình rơi vào khối bọt biển hút nước của bầu không khí không ánh sáng trên cầu thang - và bước vào một trạng thái tâm lý mà chuyện gì cũng có thể xảy ra và đáng tin? Và còn một khả năng khác, kinh khủng hơn; nhưng trước khi nói lên nghi vấn của mình, tôi phải miêu tả, chính xác hết mức có thể, bất chấp tấm màn mờ đục của những mơ hồ này, điều thật sự đã xảy ra: tôi phải mô tả mẹ tôi, tay nghiêng ra chìa về phía người xem tướng đang lại gần, mắt thao láo như một chú cá chim - còn mấy anh em (khúc khích?), “Lời đoán số bà sắp nghe sẽ thật hết sảy, Sahiba!” và, “Nói đi, anh, nói đi!” - nhưng tấm màn đã lại buông xuống, nên tôi không dám chắc - có phải ông ta bắt đầu giống một gã xiếc rong rẻ tiền, nhai lại một lượt những kết hợp rỗng tuếch của đường sinh đường tâm và những đứa con sẽ trở thành triệu phú, trong khi các ông em họ tung hô, “Chà, chà!” và “Phán chuẩn quá, yara!” - thế rồi, có phải ông ta biến đổi? - có phải Ramram bỗng đờ ra - mắt trợn ngược đến khi chỉ còn lòng trắng - có phải ông ta, bằng giọng nói kỳ quái như một tấm gương, hỏi, “Bà cho phép tôi chạm vào đó chứ, thưa Bà?” - trong khi mấy ông em họ lặng đi như kền kền đang ngủ - và có phải mẹ tôi, cũng kỳ quái như thế, đáp, “Phải, tôi cho phép,” biến ông ta thành người đàn ông thứ ba trong đời chạm vào bà, ngoài người thân trong gia đình? - và có phải, đúng thời khắc ấy, một luồng diện như chớp giật nhoáng qua giữa những ngón tay múp míp và làn da người mẹ? Và mặt mẹ tôi, nghệt ra như thỏ, nhìn nhà tiên tri mặc áo ca rô bắt đầu xoay tròn, mắt vẫn trắng dã trên cái mềm mại của khuôn mặt; rồi chợt một cơn rùng mình lan qua người ông ta và vẫn giọng nói cao vút kỳ dị kia phát ra từ đôi môi ông ta (tôi phải miêu tả cả đôi môi ấy nữa - nhưng để sau, vì giờ...) “Con trai.”
Mấy anh em nín lặng - lũ khỉ cổ tròng dây ngừng chí chóe - rắn hổ mang cuộn mình trong giỏ - và người thầy bói đi vòng tròn, thấy lịch sử cất tiếng nói qua môi mình. (Phải thế chăng?) Bắt đầu, “Con trai... gớm thay đứa con trai!” Và nó đến, “Một đứa con trai, Sahiba, sẽ không bao giờ già hơn tổ quốc mình - không già hơn cũngchẳng trẻ hơn.” Và giờ, nỗi sợ thực sự trong lòng người dụ rắn người múa chồn người bó xương và anh chàng hộp vạn hoa, bởi vì chưa bao giờ họ thấỵ Ramram như thế, trong lúc ông ta tiếp tục, ngân nga, cao vút lên: “Có hai cái đầu - nhưng bà sẽ chỉ thấy một - sẽ có đầu gối và mũi, mũi và đầu gối.” Mũi và gối và gối và mũi... nghe kỹ nhé, Padma; ông ta nói cấm có sai! “Báo chí ca ngợi nó, hai mẹ nuôi dạy nó! Tụi đạp xe mê nó - nhưng đám đông sẽ chê nó! Chị em sẽ khóc; hổ mang sẽ ngóc...” Ramram, vẫn chạy vòng quanh nhanh nữa nhanh nữa, trong khi bốn anh em xi xầm, “Gì thế này, baba?” và, “Lạy Chúa, Shiva, phù hộ chúng con!’ Trong khi Ramram, “Đồ giặt che khuất nó, giọng nói dẫn dắt nó! Bạn bè thương tổn nó - máu sẽ phản bội nó!” Và Amina Sinai, “Thế nghĩa là sao? Tôi không hiểu - Lifafa Das - ông ấy bị sao thế?” Thế nhưng, mắt trắng dã và người xoay tít quanh bà đang đờ ra như tượng, Ramram Seth vẫn không dừng lại: “Ống nhổ tẩy não nó, bác sĩ hút kiệt nó - rừng già sẽ chiếm nó - phù thủy tái chiếm nó! Lính tráng kết án nó - bạo chúa sẽ rán nó...” Trong khi Amina cầu xin lời giải thích và mấy anh em rơi vào một cơn kinh hãi xoắn xuýt tay chân không kìm nổi vì có gì đó đã chi phối tất cả và không ai dám chạm vào Ramram Seth khi ông xoay tít đến đỉnh điểm: “Nó sẽ có con trai mà không có con trai! Nó sẽ già trước khi nó già! Và nó sẽ chết... trước khi nó mất.”
Có phải vậy chăng? Có phải khi đó Ramram Seth, bị tàn phá có một sức mạnh lớn hơn sức mạnh của ông ta lưu chuyển qua cơ thể, đột nhiên ngã vật ra đất và sùi bọt mép? Có phải cây gậy của người múa chồn được nhét vào giữa hàm răng lập cập? Có phải Lifafa Das đã nói. “Begum Sahiba, xin bà đi cho: anh tôi đổ bệnh rồi”?
Và cuối cùng người dụ rắn - hay tay múa khỉ, hay ông lang bó xương, hay cả Lifafa Das của chiếc hộp vạn hoa có bánh xe - đã nói, “Tiên đoán nhiều quá, giời ạ. Tối nay Ramram nhà ta tiên đoán nhiều quá đây mà.”
Nhiều năm sau, khi ngấp nghé bước vào thời kỳ lẩm cẩm, khi đủ thứ bóng ma trào ra từ quá khứ mà nhảy múa trước mắt bà, một lần nữa mẹ tôi gặp lại anh chàng hộp vạn hoa, người được bà cứu mạng bằng cách tuyên bố về sự giáng hạ của tôi và đã báo đáp bằng cách dẫn bà đến với quá nhiều tiên đoán, và bình thản bảo anh, không chút cay đắng. “Cậu quay lại rồi à,” bà nói, “Ừm, để tôi nói cậu nghe điều này: tôi ước gì khi ấy mình hiểu được điều anh cậu nói - về máu, đầu gối và mũi. Vì biết đâu đấy? Tôi đã có thể có một đứa con trai khác.”
Như ông tôi vào buổi đầu, giữa một hành lang đầy mạng nhện trong ngôi nhà một người mù, rồi một lần nữa vào hồi kết; như Mary Pereira sau khi mất đi Joseph của mình, và như tôi, mẹ tôi có biệt tài nhìn thấy ma.
... Nhưng giờ, bởi vẫn còn nhiều câu hỏi và mơ hồ nữa, tôi buộc phải nói lên vài điều nghi ngờ. Nghi ngờ cũng là một con quái vật với quá nhiều đầu; vậy thì, vì sao tôi không thể ngăn mình thả nó xông vào mẹ ruột của tôi?... Từ nào, tôi tự hỏi, sẽ miêu tả khách quan cái bụng của lão thầy bói? Và ký ức - cái ký ức mới mẻ, biết tuốt của tôi, chứa đựng hầu hết cuộc đời của cha mẹ ông bà và tất cả mọi người - đáp lời: mềm; nhão như bánh bột ngô. Một lần nữa, miễn cưỡng, tôi hỏi: tình trạng đôi môi lão ta thế nào? Và câu trả lời hiển nhiên: đầy; dày thịt; thi sĩ. Và lần thứ ba tôi lục vấn ký ức của mình: thế còn mái tóc? Đáp án: thưa; đen; xuôi; chờm qua tai. Và giờ nỗi nghi ngờ vô căn cứ của tôi đặt câu hỏi tối hậu... phải chăng Amina, trong trắng nhường kia, kỳ thực đã... bởi sự yếu lòng trước những người đàn ông giống Nadir Khan, có thể nào bà lại... trong tâm trạng kỳ dị ấy, và xúc động trước bệnh tình của lão thầy bói, lẽ nào bà không... “Không!” Padma quát lên, thịnh nộ. “Sao anh dám ám chỉ? Về người phụ nữ tốt bụng ấy - mẹ đẻ ra anh? Rằng bà ấy sẽ? Anh chẳng biết cái gì mà cũng dám nói thế?” Và, tất nhiên, như mọi khi, cô đúng. Nếu cô mà biết, cô sẽ nói rằng chẳng qua tôi chỉ muốn báo thù, vì điều tôi đích xác đã thấy Amina làm, nhiều năm về sau, qua ô cửa sổ bụi bặm của Pioneer Café; và có lẽ cái ý niệm phi lý của tôi đã sinh ra từ đó, nảy nở một cách phi logic ngược thời gian, rồi chín muồi khi tìm đến cuộc phiêu lưu sớm hơn và, phải, hầu như chắc chắn là trong sạch này. Phải, hẳn là như thế. Nhưng con quái vật không chịu nằm xuống... “À,” nó bảo, “thế còn chuyện bà ấy nổi cơn tam bành - cái hôm Ahmed thông báo họ sẽ chuyển xuống Bombay?” Giờ nó nhại lại bà: “Anh - lúc nào cũng anh quyết. Còn tôi thì sao? Nhỡ tôi không muốn thì sao... Tôi chỉ vừa thu xếp cái nhà này tinh tươm xong và vừa mới...!” Nào, Padma: có phải đấy là tâm huyết của người nội trợ - hay là sự ngụy trang?
Phải - ngờ vực vẫn lẩn quất đâu đây. Con quái vật chất vấn, “Tại sao bà ấy không, bằng cách này hay cách khác, kể cho chồng về chuyến đi của mình?” Câu trả lời của bị cáo (Padma của chúng ta lên tiếng thay cho mẹ tôi vắng mặt): “Nhưng thử nghĩ xem ông ấy sẽ tức giận thế nào, lạy Chúa! Ngay cả khi không có vụ hỏa tặc khiến ông ấy đau đầu! Một đám đàn ông lạ; bà ấy thì một thân một mình; ông ấy lại chả điên lên! Điên hẳn ấy!”
Những nghi ngờ không đáng... tôi phải gạt bỏ chúng; phải gìn giữ sự nghiêm khắc của mình lại cho sau này, khi, thiếu vắng sự mơ hồ, không còn tấm rèm che phủ, bà trao cho tôi những bằng chứng rõ ràng, xác thực, không thể chối cãi.
... Nhưng, tất nhiên, khi cha tôi trở về nhà đêm ấy, với mùi cống rãnh lấn át thứ hơi hám quen thuộc của thất bại tương lai, trên mắt và má ông nước mắt hòa tro chảy thành dòng; lỗ mũi ông đầy lưu huỳnh còn đầu đầy thứ bụi xám của vải giả da ám khói... vì tất nhiên là chúng đã đốt trụi cái godown.
“Nhưng còn đám gác đêm?” - ngủ, Padma, ngủ. Được cảnh báo trước rằng hãy uống thuốc ngủ để phòng khi... Mấy gã lala dũng cảm, mấy tay chiến binh Pathan ấy, những kẻ, sinh ra ở thành thị, chưa từng thấy đèo Khyber[6], mở những gói giấy nhỏ, trút thứ bột màu gỉ sắt vào ấm chè sôi sục. Họ kéo mấy cái giường bạt ra rõ xa khỏi godown của cha tôi để tránh xà nhà rơi và cơn mưa tàn lửa; rồi nằm dài trên giường bạt họ nhấp nước chè và tiến vào cơn mụ mị ngọt đắng của thuốc ngủ. Đầu tiên họ om sòm cả lên, lớn tiếng tán tụng những ả gái điếm ưa thích của mình bằng tiếng Pushtu; rồi lăn ra cười rinh rích khi những ngón tay mềm mại của thuốc ngủ ngó ngoáy cù vào sườn họ... đến khi tiếng cười nhường chỗ cho giấc mơ và họ lang thang trên những con đèo ở biên giới của thuốc ngủ, cưỡi bầy ngựa của thuốc ngủ, và cuối cùng đạt đến một trạng thái vô giác không mộng mị mà không gì trên đời có thể đánh thức họ dậy chừng nào thuốc ngủ còn chưa chạy hết vòng dược lực.
[6] Lala - người nhút nhát, ngại va chạm. Pathan, một tộc người cư trú tại vùng biên giới giữa Afghanistan và Pakistan. Đèo Khyber nằm ở đây.
Ahmed, Butt và Kemal đến nơi bằng taxi - anh lái xe, phát hoảng vì ba người đàn ông tay siết chặt từng nắm tiền nhàu nát bốc mùi gớm ghiếc hơn cả địa ngục vì những vật chất chẳng thơm tho gì mà chúng tiếp xúc dưới hào nước, lẽ ra đã không chờ họ, có điều nếu vậy họ sẽ từ chối trả tiền anh. “Tha cho tôi, các ngài ơi,” anh nài nỉ, “tôi là một kẻ bé mọn; đừng bắt tôi ở đây...” nhưng lúc đó lưng họ đã đi xa khỏi anh, tiến về ngọn lửa. Anh nhìn họ chạy, tay siết chặt những đồng rupee nhoe nhoét cà chua và cứt chó; miệng há hốc, anh trân trối nhìn cái godown đang cháy, nhìn từng đám mây giữa trời đêm, và như tất cả những người có mặt, anh buộc phải hít thứ không khí ngập ngụa vải giả da và diêm và gạo cháy. Tay bưng mắt, dòm qua kẽ tay, anh tài xế bé nhỏ râu quặp thấy Ngài Kemal, mảnh như một cây bút chì điên loạn, quật đá túi bụi lên thân hình say ngủ của những người gác đêm; và anh suýt nữa đã bỏ cả tiền xe mà chạy trong kinh hoàng vào lúc cha tôi hét lên, “Coi chừng!”... nhưng, vẫn ở lại bất chấp tất cả, anh thấy cái godown vỡ tung ra dưới sức mạnh của những lưỡi lửa liếm vào, anh thấy trào ra khỏi cái godown cả một dòng dung nham không tưởng của gạo đậu lăng đậu xanh áo khoác không thấm nước hộp diêm và rau quả dầm nấu chảy, anh thấy từng bông hoa nóng đỏ của ngọn lửa nở bung lên trời khi các thứ trong nhà kho chảy tràn ra nền đất cứng vàng như một bàn tay cháy đen của sự tuyệt vọng. Phải, tất nhiên cái godown đã bị đốt trụi, nó hóa thành than hồng từ trên trời trút lên đầu họ, nó xộc vào những cái miệng há hốc của đám gác đêm mình mẩy thâm tím song vẫn ngáy... “Chúa cứu vớt chúng ta,” Ngài Butt nói, và Mustapha Kemal, thực tế hơn, trả lời: “Ơn Chúa là ta đã được bảo hiểm cẩn thận.”
“Đúng lúc đó,” về sau Ahmed Sinai bảo vợ, “đúng lúc đó tôi quyết định từ bỏ nghề buôn vải giả da. Bán cả văn phòng, cả thương hiệu, quên sạch những gì tôi biết về kinh doanh reccine. Lúc đó - không trước, không sau, tôi cũng đi đến quyết định, sẽ không nghĩ ngợi gì về vụ Pakistan dớ dẩn của gã Zulfy chồng con bé Emerald nhà mình nữa. Giữa hơi nóng hầm hập của đám cháy ấy,” cha tôi thổ lộ - và giải phóng cơn tam bành của bà vợ - “tôi quyết định dọn đến Bombay, chuyển sang kinh doanh bất động sản. Nhà cửa ở đấy đang rẻ như bèo,” ông bảo bà trước khi bà kịp lên tiếng phản đối, “Narlikar biết.”
(Nhưng sẽ đến lúc, ông gọi Narlikar là quân phản bội.)
Trong dòng họ nhà tôi, bao giờ chúng tôi cũng đi khi bị xô đẩy - mùa đông băng giá năm 48 là ngoại lệ duy nhất. Lão lái đò Tai đuổi ông tôi khỏi Kashmir; Mercurochrome xua ông khỏi Amritsar; sự tan vỡ của cuộc sống dưới thảm trực tiếp dẫn đến việc mẹ tôi rời bỏ Agra; và những con quái vật nhiều đầu đẩy cha tôi tới Bombay, để tôi có thể ra đời ở đó. Đến cuối tháng một năm ấy, lịch sử rốt cuộc đã, bằng một loạt cú xô đẩy, tự dẫn mình đến thời điểm gần như sẵn sàng để tôi xuất đầu lộ diện. Có những điều bí ẩn không thể giải đáp được chừng nào tôi chưa bước lên sân khấu... chẳng hạn như điều bí ẩn trong lời nhận xét khó hiểu nhất của Shri Ramram: “Sẽ có cái mũi và đầu gối: đầu gối, và cái mũi.” Món tiền bảo hiểm đến; tháng Một kết thúc; và trong quãng thời gian cần thiết để đóng cửa hoạt động kinh doanh ở Delhi và dọn đến thành phố mới, nơi - như Bác sĩ phụ khoa Narlikar biết rõ - nhà đất tạm thời đang rẻ như bèo, mẹ tôi chuyên tâm vào cái kế hoạch phân đoạn để học cách yêu chồng của bà. Bà bắt đầu cảm thấy một niềm say mê sâu sắc với hình dấu hỏi của đôi tai ông; với độ sâu đặc biệt của rốn ông, nơi ngón tay bà có thể vào đến hết đốt thứ nhất, mà chưa cần phải ấn; dần dần bà yêu cả cái lồi của đầu gối ông; nhưng, dù cố gắng đến mấy (và vì đang dành cho bà sự ưu đãi do thiếu bằng chứng, tôi sẽ không đưa ra đây một lý do khả dĩ nào), có một bộ phận ở ông bà không bao giờ yêu nổi, dù đó chính là thứ ông sở hữu, hoạt động hoàn toàn bình thường, còn Nadir Khan chắc chắn là thiếu; vào những đêm ông nhấp nhổm trên bụng bà - khi đứa bé trong tử cung bà chỉ nhỏ bằng con ếch - bà không có chút khoái cảm nào.
... “Đừng, đừng nhanh thế, Janum, cuộc sống của em, lâu hơn chút nữa đi,” bà nói; và Ahmed, nhằm kéo dài thời gian, cố nghĩ đến đám cháy, đến điều cuối cùng xảy ra vào cái đêm rực lửa ấy, ngay khi quay đầu bỏ đi thì ông nghe thấy một tiếng kêu ghê rợn trên không, và, ngẩng lên, kịp thấy một con kền kền - giữa đêm! - một con kền kền từ Tháp Im lặng bay trên đầu, và vừa đánh rơi bàn tay Parsee[7] đang ăn dở, bàn tay phải, cái bàn tay - lúc này! - tát thẳng vào mặt ông khi rơi xuống; trong khi Amina, nằm dưới ông ở trên giường, tự trách mình: Sao mày không thích được, đồ đàn bà ngu xuẩn, từ nay mày phải cố vào.
[7] Nguyên văn: Parsee, tín đồ Bái hỏa giáo, đặc biệt là hậu duệ của những người từ Ba Tư chạy sang Ấn Độ trong khoảng thế kỷ 7-8 Công nguyên.
Ngày mồng 4 tháng Sáu, đôi vợ chồng đổng sàng dị mộng rời Bombay trên chuyến tàu Frontier Mail. (Có tiếng đập cửa, tiếng người cố sống cố chết cầu xin, tiếng nắm đấm kêu gào, “Maharaj! Mở cửa đi, một tích tắc thôi! Trời ơi, từ dòng sữa của lòng nhân từ, hỡi ngài tôn quý, làm ơn cứu vớt!” Và có cả - giấu dưới đống hồi môn trong chiếc thùng tôn xanh - một chiếc ống nhổ cấm kỵ bằng bạc, khảm thanh kim thạch, chế tác tinh xảo.) Cùng ngày, Bá tước Mountbatten xứ Miến Điện tổ chức họp báo, tại đó ông ta tuyên bố việc Chia cắt Ấn Độ, và treo tờ lịch đếm ngược của mình lên tường: bảy mươi ngày nữa là đến thời điểm chuyển giao quyền lực... sáu mươi chín... sáu mươi tám... tích, tắc.