Những đứa con của nửa đêm - Phần I - Chương 07 - Phần 1

Chương
7: Methwold

Ngư
dân đến đây đầu tiên. Trước tiếng tích tắc của Mountbatten, trước lũ quái vật
và những lời tuyên bố công khai; khi hôn nhân dưới lòng đất vẫn là điều không
tưởng và ống nhổ còn chưa ai biết đến; sớm hơn Mercurochrome; xưa hơn các nữ đô
vật chăng những tấm ga giường khoét lỗ; và trước, trước nữa, xa hơn Dalhousie
và Elphinstone, trước khi Công ty Đông Ấn xây Pháo đài, trước William Methwold
đầu tiên; vào buổi bình minh của lịch sử, khi Bombay vẫn là một hòn đảo hình
quả tạ tay, thắt lại ở giữa thành một dải bờ hẹp lung linh mà từ đó ta có thể
thấy cảng biển tự nhiên đẹp và rộng nhất châu Á, khi Mazagaon và Worli, Matunga
và Mahirm, Salsette và Colaba vẫn còn là đảo - nói cách khác, trước thời kỳ lấn
biển, trước khi tetrapod[1] và cọc chìm biến vùng Bảy Đảo thành
một bán đảo, dài như một bàn tay tham lam xòe rộng, vươn về phía Tây ra biển Ả
Rập; ở thế giới ban sơ trước thời của những tháp đồng hồ, ngư dân - được
gọi là Koli - chèo những chiếc dhow Ả Rập, giương những cánh buồm đỏ trên nền
mặt trời sắp lặn. Họ bắt cá chim cùng cua bể, và biến tất cả chúng ta thành dân
mê cá. (Hay gần như tất cả. Padma đã quy phục dưới ma thuật huyền ngư của họ;
nhưng tại nhà tôi, chúng tôi bị lây tính khác người từ huyết thống Kashmir, với
sự lãnh đạm băng giá của bầu trời xứ Kashmir, và tiếp tục là dân ăn thịt.)

[1]
Những khối bê tông lớn có bốn chân, được sử dụng để lấp đất lấn biển.

Khi
ấy cồn có cả dừa và lúa. Và, trên hết, có sự ngự trị từ ái của nữ thần
Mumbadevi, mà tên tuổi - Mumbadevi, Mumbabai, Mumbai - hẳn đã có thể trở thành
tên thành phố. Nhưng hồi ấy, người Bồ Đào Nha đặt tên nơi này là Bom Bahia
vì cảng biển của nó, chứ không phải vì vị thần của ngư dân bắt cá chim… người
Bồ Đào Nha là những kẻ xâm lăng đầu tiên, sử dụng cảng để che chở cho tàu buôn
và chiến hạm của mình; nhưng rồi, một ngày năm 1633, một nhân viên ở Công ty
Đông Ấn tên là Methwold hình dung ra một viễn cảnh. Viễn cảnh này - giấc mơ về
một Bombay thuộc Anh, thành lũy kiên cố, sẽ bảo vệ một dải Tây Ấn trước mọi kẻ
xâm nhập - đó là một ý tưởng có sức mạnh ghê gớm đến mức khiến thời gian chuyển
động. Lịch sử dâng trào; Methwold chết; năm 1660, Charles II nước Anh đính hôn
với Catharine của Gia tộc Braganza Bồ Đào Nha - chính cái bà hoàng Catharine sẽ
suốt đời đóng vai đào phụ cho ả Nell bán cam[2]. Nhưng bà có niềm an
ủi này - rằng chính món hồi môn của mình đã đem Bombay đặt vào tay người Anh,
hẳn là trong một chiếc thùng tôn xanh, và đem viễn cảnh của Methwold một bước
nữa đến gần hiện thực. Sau đó không bao lâu, là đến ngày 21 tháng Chín năm
1668, khi Công ty Đông Ấn rốt cuộc đã chạm được tay vào hòn đảo... và rồi họ
bắt tay làm, với Pháo đài và dự án lấn biển, và trong chớp mắt một thành phố ra
đời, Bombay, mà có một bài ca cũ hát rằng:

Prima
in Indis,

Cửa
ngõ vào Ấn Độ

Ngôi
sao của phương Đông

Mặt
ngoảnh về phương Tây

[2]
Gwyn Nell, một người bán cam chuyển nghề làm diễn viên, sau này trở thành tình
nhân của Charles II.

Bombay
của chúng ta, Padma! Hồi ấy nó khác lắm không có hộp đêm hay nhà máy rau quả
ngâm hay khách sạn Oberoi-Sheraton hay phim trường; nhưng thành phố phát triển
với tốc độ chóng mặt, có một nhà thờ và một bức tượng kỵ mã của vị vua chiến
binh Sivaji xứ Mahratta (mà chúng tôi nghĩ là) sống dậy về đêm và phóng sầm sập
trên những nẻo đường thành phố - dọc Đại lộ Marine Drive! Trên bãi biển
Chowpatty! Qua những ngôi nhà đồ sộ trên Đồi Malabar, quanh Góc phố Kemp, ngả
nghiêng dọc bờ biển tới tận Scandal Point! Và phải, sao lại không, chạy mãi
chạy mãi, xuống đường Warden nhà tôi, dọc những bể bơi chia khu của Breach
Candy, ngược lên Đền Mahalaxmi nguy nga và Câu lạc bộ Willington cũ kỹ... Suốt
thời thơ ấu của tôi, mỗi khi Bombay rơi vào thời kỳ đen tối, một kẻ mất ngủ đi
đêm nào đó sẽ kể rằng mình đã thấy bức tượng phóng qua; tai họa, ở thành phố
thời thơ ấu của tôi, nhảy múa theo điệu nhạc ma quái
từ những chiếc móng bằng đá xám của một con ngựa.


giờ họ ở đâu, những cư dân đầu tiên ấy? Trong số họ dừa là khá nhất. Dừa vẫn bị
chặt đầu hằng ngày trên bãi biển Chowpatty; trong khi ở bãi Juhu, dưới ánh mắt
uể oải của các minh tinh màn bạc ngụ tại Khách sạn Sun ’n’ Sand, những cậu bé
vẫn thoăn thoắt trèo dừa và hái xuống thứ quả râu xồm. Dừa có cả một lễ hội của
riêng mình, Ngày Dừa, được tổ chức chỉ vài hôm trước ngày sinh đồng thời điểm
của tôi. Về phần dừa, quý vị có thể yên tâm. Lúa thì không may mắn thế; những
ruộng lúa giờ đây đã vùi dưới bê tông; chung cư mọc lên nơi lúa từng ngâm mình trong
bùn và từ đó ta có thể nhìn thấy biển. Thế nhưng, ở thành phố, chúng ta vẫn là
dân nghiền gạo. Gạo Patna, Basmati, Kashmiri, ngày ngày vẫn đổ về thành thị;
cho nên thứ gạo gốc, nguyên thủy vẫn lưu dấu ấn trên tất cả chúng ta, và không
thể nói là đã chết đi vô ích. Về phần Mumbadevi - ngày nay bà không được ưa
chuộng lắm, đã bị thay thế bằng thần Ganesh đầu voi trong sự sùng bái của cư
dân. Lịch lễ hội cho thấy sự suy vi của bà:
Ganesh - “Ganpati Baba” - có lễ hội Ganesh Chaturthi của mình,
khi những đám rước hoành tráng được tiền hô hậu ủng, diễu hành đến
Chowpatty mang theo tượng thạch cao của vị thần, rồi ném xuống biển. Ngày
Ganesh là dịp lễ cầu mưa, nó gọi gió mùa về, nó cũng được tổ chức vài ngày
trước khi tôi xuất hiện cuối kỳ tích tắc đếm ngược - nhưng còn ngày của
Mumbadevi ở đâu? Nó không có trong lịch. Lời nguyện cầu của dân đánh cá
chim, câu khấn vái của người săn cua bể đi về đâu?... Trong số những cư dân đầu
tiên, ngư dân Koli có kết cục thê thảm nhất. Ngày nay bị nhồi vào một ngôi làng
tí hon ở ngón cái của bán đảo hình bàn tay, họ được công nhận là đã mang
đến cái tên cho một quận - Colaba. Nhưng hãy đi đến cuối ĐêColaba - qua
những hàng quần áo rẻ tiền và quán ăn Iran và những căn hộ hạng xoàng của giáo
viên, nhà báo và thư ký - quý vị sẽ tìm thấy họ, mắc kẹt giữa căn cứ hải quân
và biển cả. Và đôi khi những phụ nữ Koli, tay tanh mùi ruột cá và thịt cua, lại
ngạo nghễ chen lên hàng người chờ xe buýt ở Colaba, với tấm sari màu gấc (hay
tím) xắn lên đầy khiêu khích giữa hai chân, với một ánh nhìn nhói lòng của
những lần thất bại và bị tước đoạt xa xưa trong đôi mắt lồi có phần giống cá
của họ. Một pháo đài, rồi đến một thành phố, cướp đất của họ; máy đóng cọc đã
(rồi tetrapod sẽ) đánh cắp từng mảnh biển của họ. Nhưng những chiếc dhow Ả Rập
vẫn đây, vẫn chiều chiều dong buồm trên bóng hoàng hôn... tháng Tám năm 1947,
người Anh, kẻ chấm dứt sự thống trị của chài lưới, dừa, lúa và Mumbadevi, chuẩn
bị đến lượt mình ra đi; không có sự thống trị nào là vĩnh cửu.


ngày 19 tháng Sáu, hai tuần sau khi đến nơi bằng tàu Frontier Mail, cha mẹ tôi
bước vào cuộc mặc cả kỳ quái với một người Anh sắp ra đi như vậy. Tên ông ta là
William Methwold.

Lối
vào Điền trang Methwold (ta đang bước vào vương quốc của tôi, tiến vào trái tim
của tuổi thơ tôi; cổ tôi bỗng dưng nghẹn lại) rẽ khỏi đường Warden ở đoạn giữa
bến xe buýt và một dãy cửa hàng nhỏ. Hiệu đồ chơi Chimalkers; Thiên Đường của
Độc giả[3]; hiệu kim hoàn Chimanbhoy Fatbhoy; và, trên hết, Bombelli
hàng Bánh kẹo, với bánh Hầu tước, với Sô Cô La Dài Cả Mét! Những cái tên lừng
lẫy; nhưng giờ chưa phải lúc. Đi qua cậu bé thị đồng bằng bìa đang giơ tay chào
ở Hiệu giặt là Band Box, con đường đưa ta về nhà. Ngày ấy tòa cao ốc màu hường
của đám đàn bà nhà Narlikar (sự mô phỏng xấu xí cột sóng phát thanh ở Srinagar!)
thậm chí còn chưa có trong suy nghĩ của bất kỳ ai; con đường đi lên một quả đồi
thấp, không cao hơn ngôi nhà hai tầng là mấy; nó lượn vòng ra biển, nhìn xuống
Câu lạc bộ Bơi lội Breach Candy, nơi dân da hồng có thể bơi trong cái bể hình
Ấn-Độ-thuộc-Anh mà chẳng sợ cọ xát phải một làn da đen; và kia, bề thế tọa lạc
xung quanh một vòng xuyến nhỏ, là bốn tòa cung điện của William Methwold, trên
đó treo những tấm biển rồi sẽ - nhờ tôi - tái xuất hiện nhiều năm sau, những
tấm biển hai chữ; hai thôi, nhưng đã lùa được cặp cha mẹ khờ khạo của tôi vào
trò chơi quái dị của Methwold: BÁN NHÀ.

[3]
Tên một hiệu sách.

Điền
trang của MethwoId: bốn tòa nhà giống hệt nhau có phong cách kiến trúc tương
xứng với những chủ nhân đầu tiên (nhà của kẻ chinh phục! Biệt thự La Mã; những
ngôi nhà ba tầng của các vị thần, trên một đỉnh Olympus hai tầng, một ngọn
Kailash[4] lùn!) - những dinh thự rộng, vững chãi có mái đỏ chữ
A và tháp canh bốn góc, những ngọn tháp trắng ngà đội mũ ngói đỏ chóp nhọn (rất
hợp để nhốt các nàng công chúa!) - những ngôi nhà có hàng hiên, nối với khu của
người hầu bằng cầu thang sắt xoắn ốc khuất ở mặt sau - những ngôi nhà mà chủ
nhân của chúng, William Methwold, đặt tên một cách vương giả theo những cung
điện châu Âu: Biệt thự Versailles, Biệt thự Buckingham, Biệt thự Escorial và
Sans Souci. Hoa giấy bò khắp nơi; cá vàng bơi giữa những bể nước xanh lợt;
xương rồng mọc trong thạch viên; những cây xấu hổ bé xíu chen chúc dưới mấy gốc
me; có bướm và hoa hồng và cả ghế mây trên thảm cỏ. Và vào cái ngày giữa
tháng Sáu ấy, Ngài Methwold bán những cung điện trống không của mình với cái
giá thấp đến kỳ cục - nhưng có một số điều kiện. Và bây giờ, không dền dứ thêm
nữa, tôi giới thiệu ông ta với quý vị, vẹn nguyên với đường ngôi nằm giữa
mái tóc... một vị thần Titan cao mét tám, tay Methwold này, mặt tươi màu hoa
hồng và tuổi trẻ vĩnh cửu, ông ta có mái tóc đen dày chuốt dầu thơm, rẽ ngôi ở
chính giữa. Rồi ta sẽ nói về cái ngôi giữa này, mà sự thẳng thớm như cây thông
nòng súng khiến MethwoId trở nên không cưỡng nổi trước đàn bà, khiến họ
không sao kiềm chế được nổi ham muốn vò tung nó lên… Mái tóc của Methwold,
rẽ ngôi giữa, liên quan rất mật thiết đến sự ra đời của lôi. Đó là một
trong những đường viền mái tóc mà dọc theo nó lịch sử và tình dục sẽ vận động.
Như diễn viên xiếc đi dây. (Nhưng bất chấp tất cả, ngay cả tôi, người chưa
từng gặp ông ta, chưa từng quan sát hàm răng sáng loáng ung dung hay mái
tóc chải chuốt cầu kỳ ấy, cũng không thể đem lòng oán hận ông ta được).

[4]
Một đỉnh núi thuộc dãy Himalaya, được coi là nơi ở của thần linh.

Còn
mũi ông ta? Trông nó thế nào? Nổi bật? Phải, hẳn rồi, di sản của người bà
quý tộc Pháp - từ Bergerac! - mà dòng máu chảy trong huyết quản ông ta biếc màu
bích thủy và khiến nét hào hoa phong nhã ấy tối lại với một điều gì đó độc địa
hơn, một ánh ngọt ngào chết chóc của ngải đắng.

Điền
trang của Methwold được bán với hai điều kiện: rằng mỗi ngôi nhà được mua kèm
theo tất cả mọi thứ bên trong, và toàn bộ đồ đạc phải được chủ nhân mới lưu
giữ; việc chuyển giao thực sự sẽ không diễn ra cho đến nửa đêm 15 tháng Tám.

“Mọi
thứ?” Amina Sinai hỏi. “Em không thể vứt đi cả một cái thìa? Allah, cái
chụp đèn kia... Em không thể bỏ đi một cái lược?”

“Thượng
vàng hạ cám,” Methwold nói. “Đấy là điều kiện của tôi. Ngẫu hứng, Ngài
Sinai... ngài sẽ cho phép tay thực dân sắp cuốn gói chơi trò chơi nhỏ của hắn
chứ? Bọn tôi còn gì mấy để làm nữa đâu, dân Anh bọn tôi, ngoài việc chơi trò
chơi.”

“Mình
nghe này, nghe này, Amina,” sau này Ahmed nói, “Mình muốn sống ở cái phòng
khách sạn này suốt đời à? Cái giá ấy rất tuyệt; quá tuyệt là đằng khác. Và ông
ta còn làm gì được sau khi đã bàn giao giấy tờ? Lúc đó mình thích vứt cái
chụp đèn nào thì vứt. Có chưa đầy hai tháng...”

“Các
vị sẽ uống cocktail trong vườn nhé?” Methwold nói, “Sáu giờ chiều hằng ngày. Giờ
cocktail. Hai mươi năm nay chưa từng sai trật.”

“Nhưng
lạy Chúa, cái màu sơn... tủ đồ thì chật ních quần áo cũ, Janum... ta sẽ phải
sống với đống vali, chẳng có chỗ để cất lấy một bộ quần áo!”

“Làm
ăn quá tệ, Ngài Sinai ạ,” Methwold nhấp một ngụm Scotch
giữa xương rồng và hoa hồng, “Chưa thấy thế bao giờ. Mấy trăm năm chính quyền
tử tế, thế rồi đột nhiên, cắp đít đi luôn. Ngài phải thừa nhận là chúng tôi
không phải cái gì cũng xấu: làm đường sá. Trường học, tàu hỏa, và chế độ nghị
viện, toàn những thứ tốn kém. Taj Mahal Mahal cứ đổ nát dần cho đến khi một
người Anh chịu để mắt đến nó. Và giờ, đột nhiên, độc lập. Bảy mươi ngày để cuốn
gói. Tôi cực lực phản đối việc này, nhưng biết làm gì bây giờ?”

“…
Nhìn mấy vết ố trên thảm mà xem, Janum; suốt hai tháng ta phải sống như những
người Anh ấy à? Mình ngó vào nhà tắm chưa? Không có nước cạnh hố xí. Trước giờ
em có tin đâu, nhưng hóa ra đúng thật, lạy Chúa, họ chỉ chùi đít bằng giấy
thôi!...”

“Ngài
nói xem, Ngài Methwold,” giọng Ahmed Sinai biến đổi, trước mặt một người Anh nó
biến thành sự bắt chước kệch cỡm chất giọng Oxford lè nhè, “sao nhất thiết phải
trì hoãn? Kể ra, bán luôn là hay nhất. Giải quyết dứt điểm đi.”

“…
Rồi tranh vẽ mấy mụ già người Anh ở khắp nơi, baba! Đến chỗ để treo ảnh cha tôi
trên tường cũng chẳng còn!...’’

“Dường
như, Ngài Sinai,” Ngài Methwold rót thêm rượu vào cốc khi mặt trời lao xuống
biển Ả Rập ở phía sau bể bơi Breach Candy, “bên dưới cái ngoại hình Anh quốc
cứng nhắc này ẩn chứa một tâm hồn mang nỗi thèm khát ẩn dụ rất Ấn Độ.”

“Và
uống rượu nhiều quá, Janum... như thế không tốt.”

“Tôi
không hiểu lắm - Ngài Methwold, ừm - chính xác ngài muốn nói...”

“...
Chà, ngài biết đấy: ở mức độ nào đó, tôi cũng đang chuyển giao quyền lực. Ngứa
ngáy muốn làm điều đó cùng lúc với đức ngài Raj. Như tôi nói ấy: trò chơi.
Chiều ý tôi chứ, Sinai? Nói cho cùng: cái giá này, chính ngài đã thừa nhận,
không hề tệ.”

“Ông
ta điên rồi à, Janum? Mình nghĩ sao: giao dịch thế có an toàn không, nếu ông ta
bị dở hơi?”

“Nghe
này, bà xã,” Ahmed Sinai nói, “ta nói chuyện này thế đủ rồi. Ngài Methwold là
người tử tế; con nhà dòng dõi; nguời có phẩm giá; tôi sẽ không để tên ông
ấy bị... Và hơn nữa, những người mua khác chẳng ai làm rộn như mình đâu,
tôi đảm bảo... Chưa kể, tôi đã nhận lời rồi, việc này chấm dứt ở đây.”

“Làm
cái kẹo giòn,” Ngài Mehwold nói, chìa ra cái đĩa. “Tự nhiên đi, Ngài S.. Phải,
một chuyện kỳ quái. Chưa từng thấy gì như thế. Mấy tay hàng xóm cũ của tôi -
toàn dân ở nát đất Ấn Độ này rồi - tự nhiên, cắp đít đi luôn. Chả ra gì. Thấy
Ấn Độ mất ngon. Sau một đêm. Quá khó hiểu với một gã đơn giản như tôi. Như thể
họ phủi sạch tay - không muốn mang theo một mẩu nào. “Thôi bỏ đi,” họ bảo. Về
quê, làm lại từ đầu. Mà có thiếu tiền đâu, chẳng ai thiếu cả, ông biết đấy,
nhưng ngay cả thế vẫn quá Dị. Bỏ tôi lại, ôm cả cái nhà. Rồi tôi nảy ra một ý
tưởng.”

“… Phải, quyết định, quyết định,” Amina kích
động nói, tôi thì
ngồi một đống ở đây với đứa bé, tôi thì còn làm được gì nữa? Tôi phải sống ở
nhà người lạ với đứa bé đang lớn dần, thì sao?... Ôi, mình bắt tôi làm những gì
thế này...”

“Đừng
khóc,” Ahmed nói, đi tới đi lui trong phòng, “Ngôi nhà ấy tốt mà. Mình biết là
mình cũng thích nó. Mà có hai tháng… chưa đầy hai tháng... sao, nó đạp à? Để
tôi xem nào... Đâu? Đây à?”

“Đấy,”
Amina nói, lấy tay quẹt mũi, “Đạp khiếp lên được ấy.”

“Ý
tưởng của tôi,” Ngài Methwold giải thích, mắt đăm đăm nhìn mặt trời sắp lặn,
“là dàn dựng việc chuyển giao tài sản của riêng tôi. Bỏ lại tất cả, ngài thấy
đấy? Chọn những người thích hợp, như ngài chẳng hạn, Ngài Sinai! - rồi bàn giao
tất cả nguyên vẹn tuyệt đối: trong tình trạng hoạt động hoàn hảo. Thử nhìn xem:
mọi thứ đều ngon nghẻ, ngài có công nhận không? Chuẩn không cẩn chỉnh, tụi tôi
vẫn nói. Hay, như các vị trong tiếng Hindu: Sabkuch ticktock hai. Mọi thứ đều
ngon lành.”

“Mấy
ngôi nhà này cũng toàn người tử tế đang mua thôi,” Ahmed đưa cho Amina cái khăn
mùi soa, “hàng xóm mới, tử tế... nhà ông Homi Catrack bên Điện Versailles,
người Parsee, nhưng là chủ ngựa đua. Sản xuất phim này kia. Rồi nhà Ibrahim bên
Sans Souci, Nussie Ibrahim cũng đang có thai, hai người có thể là bạn bè... và
ông lão Ibrahim, có mấy đồn điền sisal[5] hoành tráng ở châu
Phi. Gia đình tử tế.”

[5]
Một loài cây cho sợi, dùng để bện dây thừng.

“…Và
sau đó tôi muốn làm gì với ngôi nhà cũng được...?”

“Ừ,
sau đó, tất nhiên, ông ta đi rồi còn đâu...”

“…
Tất cả đã được thu xếp đâu vào đấy,” William Methwold nói. “Ngài có biết ông tổ
tôi là người có ý tưởng xây dựng cả thành phố này không? Một kiểu Raffles của
Bombay[6]. Là hậu duệ của cụ, trong thời khắc trọng đại này, tôi
thấy, tôi không biết, cần phải đóng vai của mình. Phải, tuyệt vời... bao giờ
ngài dọn đến? Nói một câu là tôi dọn ra Khách sạn Taj ngay. Mai à? Tuyệt lắm.
Sabkuch ticktock hai.”

[6] Sir Thomas
Stamford Raffles, người thiết lập thương cảnh Anh ở Singapore năm 1818.

Đây
là những người đã sống quanh tôi thời thơ ấu: Ngài Homi Catrack, đại gia điện
ảnh và chủ ngựa đua, có đứa con gái ngớ ngẩn Toxy, phải bị nhốt cùng bà bảo
mẫu, Bi-Appah, người đàn bà đáng sợ nhất tôi từng biết; rồi nhà Ibrahim ở Sans
Souci, ông lão Ibrahim Ibrahim có chòm râu dê và sisal, hai ông con trai Ismail
và Ishaq, và cô vợ Nussie nhỏ thó le te đen đủi của Ismail, mà tụi tôi vẫn gọi
là Nussie-vịt-bầu vì cái dáng đi lạch bạch, chủ nhân của cái tử cung trong đó
thằng Sonny bạn tôi đang lớn dần, ngay lúc này, càng lúc càng đến gần hơn cái
tai ương vối chiếc kẹp phụ khoa... Biệt thự Escorial được chia thành nhiều căn
hộ. Tầng trệt là nhà Dubash, chồng là một nhà vật lý sẽ trở thành ngọn hải đăng
của trung tâm nghiên cứu nguyên tử Trombay, vợ là một phụ nữ tầm thường mà dưới
vẻ nhạt nhẽo ẩn giấu một sự cuồng tín tôn giáo thực thụ - nhưng tôi sẽ để nó
nằm yên đó, chỉ đề cập đến việc họ là bố mẹ thằng Cyrus (mà vài tháng nữa mới
được thụ thai), sư phụ đầu tiên của tôi, đứa chuyên đóng vai con gái
trong những vở kịch ở trường, và biệt hiệu là Cyrus-đại-đế. Tầng trên
là bạn của bố tôi Bác sĩ Narlikar, người cũng mua một căn hộ ở đây... ông
ta cũng đen như mẹ tôi: có khả năng tỏa sáng rực rỡ mỗi khi hưng phấn hay hứng
tình; ghét trẻ con, dù chính ông ta đưa chúng tôi ra đời; và sẽ giải phóng ra
thành phố, khi ông ta chết, một đám đàn bà có thể làm mọi chuyện và không
chướng ngại gì cản được bước tiến của họ. Và, cuối cùng, ở tầng cao nhất, là
Trung tá Sabarmati và Lila - Sabarmati, ngôi sao đang lên của Hải quân, cùng cô
vợ với những sở thích đắt tiền; anh ta vẫn chưa tin nổi vận may của mình khi
kiếm được cho cô nàng một căn nhà rẻ thế. Họ có hai con trai, mười tám tháng và
bốn tháng, sẽ lớn lên thành hai thằng nhóc một chậm chạp một hiếu động, biệt
hiệu Mắt Ghẻ và Tóc Dầu; cả hai không biết (sao mà biết được?) rằng tôi sẽ hủy
hoại cuộc đời tụi nó... Được William Methwold lựa chọn, những người sẽ hình
thành trung tâm thế giới của tôi dọn đến Điền trang, và chịu đựng sự ngẫu hứng
kỳ quặc của người Anh nọ - vì cái giá, nói cho cùng, quá tốt.

...
Ba mươi ngày nữa là đến ngày chuyển giao quyền lực và Lila Sabarmati đang nói
chuyện điện thoại, “Làm sao chị chịu được hả, Nussie? Ở đây phòng nào cũng có
lũ vẹt biết nói, và trong almirah[7] tôi thấy đầy váy bị nhậy
cắn với xu chiêng cũ!’’... Rồi Nussie mách Amina, “Cá vàng, Allah, tôi không
chịu nổi bọn nó, nhưng Methwold sahib tự mình đến cho chúng ăn... rồi mấy nồi
Bovril[8] dở mà ông ấy bảo tôi không được vứt đi... điên rồi,
chị Amina ạ, chúng ta đang làm gì thế này?”... Còn ông lão Ibrahim nhất định
không chịu bật cái quạt trần trong phòng ngủ, lủng bủng, “Cái máy ấy sẽ rơi -
nó sẽ chặt đầu tao xuống giữa đêm - thứ nặng như thế thì dính trên trần được
bao lâu?”... Còn Homi Catrack, một dạng nhà tu khổ hạnh, thì buộc phải nằm trên
một chiếc đệm to và êm, ông ta bị đau lưng và mất ngủ, còn những vòng đen hệ
quả của giao phối cận huyết trong mắt ông ta bị bao quanh bởi từng quầng thâm
mất ngủ, và đám người làm bảo nhau, “Thảo nào các sahib ngoại quốc đều bỏ đi, Sahib
ạ, họ chắc là thèm ngủ chết được.” Nhưng tất cả vẫn kiên gan bám trụ; và ngoài
những vấn đề cũng có cả những ưu điểm. Hãy nghe Lila Sabarmati (“cô ả ấy - đẹp
đến nỗi khó mà đứng đắn được” mẹ tôi nói)... “Một chiếc pianola[9],
chị Amina! Và nó vẫn chạy. Suốt ngày em chỉ ngồi và ngồi, bật đủ thứ trên trời
dưới biển! “Đôi Tay Trắng Xanh Em Yêu Bên Vườn Shalimar... vui thật, vui lắm
ấy, chị chỉ cần nhấn cần đạp!”... Còn Ahmed Sinai tìm thấy một tủ cocktail ở
Biệt thự Buckingham (vốn là tư gia của chính Methwold trước khi trở thành nhà
tôi); ông đang khám phá sự hưng phấn đến từ whisky Scotch hảo hạng và nói, “Thì
sao? Ngài Methwold chỉ hơi lập dị một chút, thế thôi - chả lẽ chúng ta không
chiều nổi ông ấy? Với nền văn minh lâu đời của mình, chả lẽ chúng ta không thể
văn minh như ông ấy?”... và làm một hơi cạn cốc. Ưu và nhược điểm: “Cả một lũ
chó phải trông nom, chị Nussie,” Lila Sabarmati cằn nhằn. “Em ghét chó, ghét
lắm ấy. Và em mèo bé bỏng choochie của em, dễ sương lắm cơ, nó sợ
chết khiếp đi ấy!”... Và Bác sĩ Narlikar, lung linh lên vì bực bội, “Ngay đầu
giường tôi! Toàn tranh trẻ con, anh Sinai! Đấy anh xem: Béo! Hồng! Ba đứa! Nghe
có được không?”... Nhưng giờ khi chỉ còn hai mươi ngày nữa, tình hình lắng dịu
dần, mặt gai góc của mọi việc cũng nhòa đi, nên tất cả không ai nhận thấy điều
đang diễn ra: tòa Điền trang, Điền trang của Methwold, đang thay đổi họ. Tối
tối cứ sáu giờ họ lại ra vườn, bày tiệc cocktail, và khi William Methwold ghé
thăm, họ vào rất ngọt những vai giả giọng Oxford lè nhè; và họ học, về quạt
trần và bếp ga và chế độ ăn thích hợp cho lũ vẹt đuôi dài, còn Methwold giám
sát sự biến đổi của họ, lầm rầm khe khẽ. Nghe cho kỹ: ông ta đang nói gì? Phải,
đúng vậy. “Sabkuch ticktock hai,” William Methwold lầm rầm. Ngon lành cả.

[7]
Tủ quần áo

[8]
Một nhãn hiệu nước thịt hầm của Anh

[9]
Loại đàn piano tự động, chơi những cuộn nhạc bấm lỗ

Khi
ấn bản Bombay của tờ Thời báo Ấn Độ vốn đang tìm kiếm một phóng sự
chân dung hấp dẫn nhằm chào mừng ngày Độc lập sắp tới, tuyên bố sẽ trao giải
thưởng cho bất kỳ bà mẹ Bombay nào có thể sắp xếp sinh em bé đúng vào thời điểm
ra đời của quốc gia mới, Amina Sinai, vừa tỉnh dậy sau một giấc mơ bí ẩn về
giấy bẫy ruồi, bèn dán mắt vào tờ báo. Tờ báo được gí vào mũi Ahmed Sinai; và
ngón tay Amina, đắc thắng chọc vào trang báo, nhấn mạnh sự quả quyết tuyệt đối
trong giọng bà.

“Thấy
chưa, Janum?” Amina tuyên bố. “Chính là em đấy.”

Hiện
lên, trước mắt họ, là viễn cảnh về những dòng tít in đậm loan tin “Một Tấm hình
Duyên dáng của Bé Sinai - Đứa trẻ của Giờ phút Huy hoàng này!” - một viễn cảnh
về những tấm-hình-em-bé A-1 thượng-hạng trang-nhất cỡ-đại; nhưng Ahmed bắt đầu
phản bác, “Thử tính đến khả năng trượt xem, Begum,” cho đến khi bà mím chặt môi
lại đầy bướng bỉnh, và lặp lại, “Không có nhưng nhị gì cả; chắc chắn đó là em;
em biết chắc là như thế. Đừng hỏi sao em biết.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3