Những đứa con của nửa đêm - Phần I - Chương 06 - Phần 1
Chương 6: Những con
quái vật nhiều đầu
Trừ
phi, tất nhiên, chẳng có gì là tình cờ hết; khi ấy Musa - bất chấp mọi già nua
tận tụy của lão - không là gì khác hơn một trái bom hẹn giờ khẽ khàng tích tắc
đến thời điểm định trước; nếu vậy, chúng ta nên - một cách lạc quan - đứng dậy
reo mừng, bởi nếu mọi sự đều được sắp đặt trước, thì tức là tất cả chúng ta đều
có ý nghĩa, và được giải thoát khỏi nỗi khiếp sợ khi biết mình chỉ là ngẫu
nhiên, không hề có tại sao; hoặc là, dĩ nhiên, chúng ta có
thể - như những kẻ bi quan - buông xuôi ngay tại đây ngay lúc này,
nhận thức được sự vô ích của suy nghĩ quyết định hành động, vì ta có nghĩ gì
cũng chẳng đem lại khác biệt nào; tất cả vẫn sẽ xảy ra như nó sẽ xảy ra. Vậy
thì, sự lạc quan ở đâu? Trong định mệnh hay trong hỗn độn? Cha tôi đã lạc hay
bi quan khi mẹ tôi báo tin cho ông (sau khi tất cả xóm giềng đã biết), và ông
trả lời, “Tôi bảo mình rồi; đó chỉ là vấn đề thời gian”? Việc mẹ tôi có thai
hình như đã được vận mệnh an bài; sự ra đời của tôi, tuy vậy, phần lớn là hệ
quả của tình cờ.
“Đó
chỉ là vấn đề thời gian,” cha tôi nói, với mọi vẻ mãn nguyện; nhưng thời gian
vốn bất ổn, theo kinh nghiệm của tôi, không phải thứ có thể tin cậy. Nó thậm
chí có thể bị chia cắt: đồng hồ ở Pakistan chạy nhanh hơn các đồng nghiệp Ấn Độ
nửa tiếng... Ngài Kemal, người không muốn dây dưa gì đến chuyện Chia cắt, rất
hay nói: “Đây là minh chứng cho sự dớ dẩn của kế hoạch ấy! Bọn Liên đoàn này
định chuồn đi với hẳn ba mươi phút đây mà! Thời Gian Không Chia Cắt,” Ngài
Kemal kêu lên, “Phải thế mới đượcl” Và S.P. Butt nói, “Nếu chúng có
thể thay đổi thời gian như thế, còn gì là thực nữa đây? Tôi hỏi
ông? Còn gì là thật?”
Đó
hình như là ngày của những câu hỏi lớn. Tôi trả lời, xuyên qua những năm tháng
không đáng tin cậy, cho S.P. Butt, người đã bị cắt cổ trong đợt bạo loạn Chia
cắt và đánh mất hứng thú vời thời gian: “Cái gì là thực và cái gì là thật không
nhất thiết phải là một.” Thật, với tôi, là điều gì đó từ những
buổi đầu đời ẩn trong những câu chuyện Mary Pereira kể tôi nghe: Mary Ayah của
tôi, người không phải mẹ, nhưng còn hơn cả mẹ; Mary người biết hết về tất cả
chúng tôi. Thật là điều ẩn ngay sau đường chân trời mà ngón
tay lão đánh cá đang chỉ về, ở bức tranh trên tường phòng tôi, khi cậu bé
Raliegh lắng nghe những câu chuyện của lão. Giờ đây, viết ra chuyện này dưới
quầng sáng Anglepoise của mình, tôi đo lường sự thật dựa trên những gì xa xưa
ấy: Liệu Mary có kể như vậy không? tôi tự hỏi. Liệu ông lão đánh cá kia có nói
thế này chăng?... Và theo tiêu chí ấy, sự thật không thể phủ nhận là, vào một
ngày tháng Một năm 1947, mẹ tôi được nghe hết về tôi, sáu tháng trước khi tôi
chào đời, trong khi cha tôi gặp phải một quỷ vương.
Amina
Sinai vẫn đợi thời điểm thích hợp để chấp nhận đề nghị của Lifafa Das; nhưng
hai ngày liền sau vụ cháy nhà kho của Indiabike, Ahmed Sinai ở lì trong nhà,
không hề đến văn phòng ở Connaught Place, như thể đang tôi luyện mình cho một
cuộc chạm trán không lấy gì làm dễ chịu. Hai ngày liền túi tiền màu xám
vẫn yên vị những tưởng trong bí mật dưới gầm giường phía ông. Cha tôi tỏ ra
không hề muốn nói về lý do xuất hiện cái túi xám; nên Amina tự nhủ, “Kệ anh ấy;
ai mà thèm?” vì bà cũng có bí mật của mình, đang kiên nhẫn đợi bà cạnh cổng
Thành Đỏ trên đỉnh Chandni Chowk. Trề môi ra trong cơn giận hờn bí mật, mẹ
tôi giữ Lifafa Das cho riêng bà. “Trừ phi và trừ khi anh ấy cho mình biết anh
ấy đang tính chuyện gì, việc gì mình phải nói?” bà lý luận.
Và
rồi một buổi tối tháng Một lạnh giá, khi Ahmed Sinai bảo “Tối nay tôi phải ra
ngoài”; rồi mặc bà van nài “Trời lạnh đấy - mình ốm mất...”, ông
khoác lên người bộ âu phục và tấm áo choàng, bên dưới chiếc túi xám
bí ẩn nọ lồi lên một cục lộ liễu đến mức kỳ quái; nên rốt cuộc bà bảo, “Mặc ấm
vào,” và thả cho ông đi đâu thì đi, và hỏi “Mình về muộn à?” Và ông trả lời,
“Ừ, tất nhiên.” Năm phút sau khi ông đi, Amina Sinai lên đường đến Thành Đỏ,
thẳng tiến vào trung tâm cuộc phiêu lưu của bà.
Một cuộc
hành trình bắt đầu ở một tòa thành; cuộc kia lẽ ra phải kết thúc ở một tòa
thành, nhưng lại không. Cuộc này dự báo tương lai, cuộc kia xác định vị trí địa
lý cho tương lai ấy. Trên một hành trình, lũ khỉ nhảy múa mua vui; trong
khi, ở nơi kia, một con khỉ cũng nhảy múa, nhưng mang đến tai ương. Ở cả hai
cuộc phiêu lưu, đều có vai trò của lũ kền kền. Và những con quái vật nhiều đầu
núp ở cuối cả hai con đường.
Từng
chuyện một, nhỉ... và đây là Amina Sinai dưới những bức tường cao của Thành Đỏ,
nơi các Mughal từng trị vì, từ tầm cao ấy, quốc gia mới sẽ được tuyên bố thành
lập... dù không phải đế vương hay tín sứ, mẹ tôi vẫn được chào đón nồng
nhiệt (bất chấp thời tiết). Trong ánh sáng cuối ngày, Lifafa Das hoan hỉ,
“Begum Sahiba! Ôi, bà đến thật là hay quá!” Làn da đen trong tấm sari trắng, bà
ra hiệu cho anh lên taxi; anh đưa tay định mở cửa sau; nhưng tay tài xế búng
tay, “Mày nghĩ gì thế? Mày nghĩ mày là ai? Mau, lên ghế trước mà ngồi, thằng
ranh vặt, để bà đây ngồi ghế sau!” Vậy là Amina ngồi chung ghế với chiếc hộp vạn
hoa màu đen có bánh xe, trong khi Lifafa Das tạ lỗi, “Xin lỗi nhé, Begum
Sahiba? Ý tốt không tính là mạo phạm.”
Nhưng
đây, dứt khoát không chờ đến lượt, là một chiếc taxi khác, dừng lại ngoài
một tòa thành khác và thả xuống ba ông khách mặc âu phục, mỗi người xách một
chiếc túi xám cộm lên dưới lần áo khoác... một dài như đời người và mảnh như
một lời nói dối, người thứ hai nhìn như không xương xống, và người thứ ba môi
dưới trề ra, cái bụng có chiều nhão phệ, mái tóc đang thưa dần, nhờn và chờm
quá đỉnh tai, giữa hai hàng lông mày là một nếp nhăn mách bảo rằng, khi ông ta
về già, nó rồi sẽ hằn sâu thành vết sẹo của một người đàn ông cay nghiệt, cáu
kỉnh. Tay tài xế tỏ ra hồ hởi, bất chấp cái lạnh. “Purana Qila!” anh ta xướng
to, “Mời quý khách xuống! Thành Cổ, đến nơi rồi!”... Có rất, rất nhiều thành
phố Delhi, và Thành Cổ, đống đổ nát đen ngòm ấy, là một Delhi xa xưa đến nỗi
đặt cạnh nó, Thành phố Cũ của chúng tôi chỉ như một đứa trẻ còn quấn tã.
Phế tích của một thời đại cổ xưa đến mức hoang đường này chính là nơi
Kemal, Butt và Ahmed Sinai bị một cú điện thoại nặc danh triệu đến, “Tối nay.
Thành Cổ. Sau lúc mặt trời lặn. Nhưng cấm báo cảnh sát... bằng không cái
godown funtoosh!” Ôm chặt mấy cái túi xám, họ tiến vào cái thế giới
cổ xưa, đổ nát ấy.
... Ôm
chặt túi xách, mẹ tôi ngồi cạnh chiếc hộp vạn hoa, trong khi Lifafa Das
ngồi ghế trước cạnh tay tài xế cáu kỉnh đang lấy làm khó hiểu,
dẫn đường cho xe chạy vào những con phố ở đằng sau
Bưu điện Trung tâm; và khi tiến vào những con đường đắp cao nơi cái nghèo
ngốn dần lớp tarmac[1] như một trận hạn hán, nơi con người ta
sống cuộc đời vô hình (bởi vì họ chịu chung lời nguyền vô hình với Lifafa Das,
và chẳng phải ai cũng có nụ cười rạng rỡ), có điều gì mới mẻ dồn dập ùa đến
trong bà. Dưới áp lực của những con phố mỗi phút một chật chội hơn, mỗi tấc một
đông đúc hơn, bà đã đánh mất “con mắt thành thị” của mình. Khi có con mắt thành
thị, quý vị không thể nhìn thấy những con người vô hình, những người mắc chứng
phù tinh hoàn và đám ăn mày ngồi xe hộp không có tác động đến quý vị, và những
đoạn ống bê tông của cống thoát nước tương lai nhìn không ra hình hài những cư
xá.[2] Mẹ tôi đánh mất con mắt thành thị và sự mới mẻ của những
gì bà đang thấy khiến bà đỏ mặt, sự mới mẻ như một trận mưa đá đâm lên má bà.
Kìa, trời ơi. lũ trẻ xinh xắn kia có hàm răng đen sì! Ai mà tin nổi... những bé
gái phơi trần đầu vú! Kinh khủng quá đi mất! Và, Allah-tobah, xin Chúa chở che,
những người đàn bà quét rác với - không! - gớm ghiếc quá! - cột
sống sụm xuống, dăm bó chổi tre, không ký hiện đẳng cấp; tiện dân, lạy đức
Allah!... và người què nhan nhản khắp nơi, được những bậc cha mẹ yêu con làm
cho tàn phế để đảm bảo cho chúng nguồn thu nhập trọn đời từ ăn xin... phải, ăn
mày ngồi xe hộp, những người trưởng thành với đôi chân con nít, trong những hộp
gỗ có bánh xe, làm bằng giày trượt patanh vứt đi và thùng đựng xoài cũ; mẹ tôi
kêu lên, “Lifafa Das, quay lại đi!”... nhưng anh cười nụ cười rạng rỡ của anh,
rồi nói, “Từ đây ta phải đi bộ.” Thấy rằng không thể quay lại được nữa, bà bảo chiếc
taxi đợi, và tay tài xế cáu bẳn nọ đáp, “Vâng, tất nhiên, với một quý bà thì
còn có việc gì khác ngoài đợi, bà khi bà về tôi sẽ phải đánh xe chạy lùi ra tận
đường lớn, vì ở đây làm gì có chỗ quay đầu!”... Trẻ con giật vạt sari của bà,
những cái đầu ở khắp nơi chằm chằm nhìn mẹ tôi, bà thì tự nhủ, cứ như mình bị
một con quái vật gớm ghiếc vây quanh, một sinh vật toàn đầu là đầu; rồi bà tự
đính chính, không, tất nhiên không phải quái vật, những con người khốn khổ này
- vậy thì là cái gì? Một dạng quyền lực, một lực lượng không nhận thức được sức
mạnh của mình, một sức mạnh thối rữa thành bất lực vì chưa hề được sử dụng...
Không, đây không phải là những con người thối rữa, dầu gì đi nữa. “Mình đang
sợ,” mẹ tôi thấy mình nghĩ vậy, đúng lúc một bàn tay chạm vào tay bà. Quay lại,
bà thấy mình đang nhìn vào gương mặt của - không thể nào! - một người đàn ông
da trắng, bàn tay rách rưới chìa ra, và giọng nói như một bài hát nước ngoài
cao vút, “Bố thí chút gì đi, Begum Sahiba...” rồi cứ lặp đi lặp lại như đĩa hát
bị vấp trong khi bà bối rối nhìn khuôn mặt trắng trẻo với hàng mi dài và chiếc
mũi khoằm quý phái - bối rối, vì anh ta da trắng, mà ăn xin vốn không phải dành
cho người da trắng. “… Lặn lội từ tận Calcutta lên đây, đi bộ,” anh ta nói,
“tro phủ đầy người, bà thấy đấy, Begum Sahiba, vì nỗi nhục nhã đã có mặt ở đó
trong vụ Thảm sát - tháng Tám năm ngoái, bà nhớ không, Begum Sahiba, hàng nghìn
người bị đâm chết trong bốn ngày ngập tiếng kêu gào...” Lifafa Das bất lực đứng
đó, không biết phải xử sự ra sao trước một người da trắng, dù là ăn xin, rồi
“... Bà có nghe nói tới gã người Âu không?” người ăn xin hỏi, “... Phải, trong
đám sát nhân, Begum Sahiba, đi ngoài phố giữa đêm với tấm áo vấy máu, một gã da
trắng, phát điên vì tương lai vô định của những kẻ như gã; bà có nghe không?”
Và giờ, giọng nói như hát khó hiểu ấy tạm dừng, thế rồi: “Hắn là chồng tôi.”
Đến bây giờ mẹ tôi mới nhìn bộ ngực bị ép chặt dưới mớ áo rách... “Bố thí cho
nỗi nhục của tôi.” Kéo tay bà. Lifafa Das kéo tay kia, thì thào, Hijra, lại cái
ấy mà, đi thôi Begum Sahiba; và Amina đứng bất động khi bị kéo về hai hướng
ngược nhau, những muốn nói Đợi đấy, người phụ nữ da trắng, đợi tôi xong việc
đã, tôi sẽ đưa bà về nhà, cho bà ăn cho bà mặc, trả bà về thế giới của bà;
nhưng đúng lúc đó người đàn bà nhún vai và tay không bỏ đi xuống con phố hẹp
dần, nhỏ dần thành một điểm cho đến khi biến mất - ngay tức thì! - vào cái bần
tiện xa xăm của con đường. Và giờ Lifafa Das, một vẻ kỳ quái hiện ra trên mặt,
nói, “Họ funtoosh rồi! Xong hẳn! Rồi họ sẽ đi sớm thôi; khi đó chúng ta sẽ được
tự do mà giết lẫn nhau.” Khẽ đặt một bàn tay lên bụng, bà theo anh tiến vào một
ô cửa tối om, trong khi khuôn mặt bà bừng cháy.
[1] Thứ
vật liệu lát đường là hỗn hợp của nhựa đường (tar) và đá dăm (marcadam).
Rushdie chủ ý dùng những từ có gốc Anh (tarmac và reccine đều là hai thương
hiệu ở Anh) để thể hiện sự xâm thực toàn diện của Anh trên đất Ấn Độ.
[2] Những
đoạn ống bê tông cỡ lớn dùng làm đường ống thoát nước là nơi trú ngụ của những
người vô gia cư.
...
Trong khi đó, tại Thành Cổ, Ahmed Sinai chờ đợi Ravana. Cha tôi giữa buổi hoàng
hôn: đứng giữa khung cửa tối om của cái từng là một căn phòng
giữa những tường thành đổ nát, môi dưới trề ra dày thịt, tay chắp sau
lưng, đầu ngổn ngang chuyện tiền nong. Ông chưa bao giờ là người hạnh
phúc. Ông mơ hồ ngửi thấy mùi thất bại từ tương lai; ông xử tệ với người hầu;
có lẽ ông ước rằng, thay vì theo chân người cha quá cố vào ngành kinh doanh vải
giả da, ông đã có dũng khí đeo đuổi cái hoài bão ban đầu của mình, sắp xếp lại
kinh Quran theo trình tự thời gian chuẩn xác. (Có lần ông bảo tôi: “Khi
Muhammad tiên tri, họ chép lời Ngài lên lá cọ, cất tạm bợ trong một cái hộp.
Lúc Ngài mất, Abu Bakr và những người khác cố nhớ lại cho đúng thứ tự; nhưng
trí nhớ của họ không được tốt cho lắm.” Một cú rẽ nhầm nữa: lẽ ra viết lại một
cuốn sách thiêng, cha tôi nấp trong một đống đổ nát, chờ đợi lũ yêu quái. Chẳng
có gì lạ khi ông không hạnh phúc; vì tôi sẽ chẳng giúp được gì. Vừa ra đời, tôi
đã làm giập nát ngón chân ông.)... Người cha bất hạnh của tôi, tôi nhắc lại,
luôn cáu kỉnh khi nghĩ về tiền bạc. Đến vợ ông, người phỉnh từng đồng
rupee từ ông, và móc túi ông hằng đêm. Đến bà vợ cũ (sau cùng chết bất đắc kỳ
tử, khi cãi vã với một người đánh xe lạc đà và bị con lạc đà cắn vào cổ), người
viết cho ông những lá thư xin xỏ bất tận, dù đã có khoản bồi thường ly dị.
Và đến cô em họ Zohra, người cần tiền hồi môn từ ông, để cô ả có thể nuôi con
mình lớn lên, cưới con ông, và nhờ thế càng đào mỏ ông được nhiều hơn. Rồi
những lời hứa hẹn tiền nong của Thiếu tá Zulfikar (thời kỳ này, Thiếu tá Zulfy
và cha tôi rất hợp nhau). Ngài Thiếu tá viết những lá thư nói, “Anh cần
phải quyết định vì Pakistan khi nó ra đời, vì nó nhất định sẽ ra đời. Đó chắc
chắn là mỏ vàng cho những người như chúng ta. Hãy để em giới thiệu anh với
chính M.A.J,”nhưng Ahmed Sinai không tin ở Muhammad Ali Jinnah, và không đáp
ứng đề nghị của Zulfy; nên khi Jinnah trở thành Tổng thống Pakistan, sẽ có
thêm một cú rẽ nhầm nữa để ta ngẫm nghĩ. Và, cuối cùng, những lá thư từ bạn cũ
của cha tôi, Bác sĩ phụ khoa Narlikar, ở Bombay. “Bọn Anh đang lũ lượt bỏ
đi, Sinai bhai... Nhà đất rẻ như bèo! Bán hết đi; lên đây; mua; và
sống xa hoa đến hết đời!” Các tiết kinh Quran không có chỗ trong một cái
đầu đầy tiền đến thế... và, trong lúc đó, ông ở đây, cạnh S.P. Butt người
sẽ chết trên một chuyến tàu tới Pakistan, và Mustapha Kemal người sẽ bị côn
đồ giết hại trong ngôi nhà đồ sộ của ông ta ở đường Cột Cờ, trên ngực là
dòng chữ “quân đầu cơ hiếp mẹ” viết bằng chính máu ông... cạnh hai nhân
vật xấu số này, chờ đợi trong bóng tối bí mật của một gian phòng đổ nát, theo
dõi kẻ tống tiền đến lấy tiền. “Góc Tây Nam,” cú điện ra lệnh, “Tháp canh. Cầu
thang đá bên trong. Leo lên. Chiếu nghỉ trên cùng. Để tiền lại. Rút. Hiểu
chưa?” Coi thường mệnh lệnh, họ núp trong căn phòng đổ nát; đâu đó trên đầu họ,
giữa chiếu nghỉ trên cùng của tháp canh, ba chiếc túi xám nằm chờ giữa bóng tối
đang đổ về.
...
Giữa bóng tối đang đổ về trên một lối cầu thang ngột ngạt, Amina Sinai leo đến
với lời tiên tri. Lifafa đang vỗ về bà; bởi vì giờ đây khi bà đã đi taxi vào
cái chai chật chội nơi đến lượt anh có quyền thương hại bà, anh cảm thấy một sự
thay đổi ở bà, một sự hối hận về quyết định của mình; anh trấn an bà khi họ
trèo lên. Lối cầu thang tối tăm ấy đầy những mắt, những con mắt lấp loáng sau
cửa chớp trước cảnh tượng người phụ nữ da đen leo cầu thang, những con mắt liếm
láp người bà như những cái lưỡi mèo linh hoạt, thô ráp; và trong khi Lifafa Das
nói, êm dịu, mẹ tôi cảm thấy ý chí bà xẹp dần, Cái gì đến, sẽ đến, sức mạnh ý
thức và sự tự chủ rỉ từ bà vào khối bọt biển đen ngòm của bầu không
khí ở cầu thang. Chân bà lê từng bước nặng nề theo chân anh, lên những tầng
trên cùng của tòa chawl[3] đồ sộ tù mù, khu chung cư xập xệ nơi
Lifafa Das và mấy ông anh họ có một góc nhỏ, tít trên mái... ở đây, sát mái, bà
thấy ánh sáng tối tăm len xuống đầu những người què đang xếp hàng. “Anh họ thứ
hai của tôi là thầy lang bó xương,” Lifafa Das nói. Bà trèo qua những người đàn
ông gãy tay, những người đàn bà bàn chân bị quặt ngược thành những góc khó tin,
qua những người lau cửa sổ bị ngã và thợ nề rạn xương, con gái một bác sĩ bước
vào một thế giới cổ xưa hơn bơm tiêm và bệnh viện; cho đến khi, rốt
cuộc, Lifafa Das nói, “Đến nơi rồi, Begum,” và dẫn bà qua một gian phòng nơi
ông thầy lang bó xương đang buộc cành và lá cây vào những chân tay giập nát,
băng những cái đầu vỡ bằng lá cọ, cho đến khi bệnh nhân bắt đầu giống những cái
cây nhân tạo, cành lá trồi ra từ vết thương... rồi ra đến một mảnh sân thượng
rộng và bằng phẳng trát xi măng. Amina, mắt hấp háy trong bóng tối trước ánh
sáng của những ngọn đèn lồng, nhận ra những hình thù quái dị trên sân thượng:
khỉ múa may; cầy nhảy nhót; rắn lắc lư trong sọt; và trên bức tường bao, bóng
những con chim lớn, hình dáng cũng khoằm và dữ tợn như cái mỏ của chúng: kền
kền.
[3] Một
kiểu chung cư rẻ tiền, tiện nghi sơ sài, chỉ có ở tiểu lục địa Ấn Độ.
“Arre
baap,” bà kêu lên, “cậu đưa tôi đến đâu thế này?”
“Không phải
lo đâu, Begum,” Lifafa Das đáp. “Đây là các anh họ của tôi. Anh thứ ba và
thứ tư. Anh kia là người múa khỉ...”
“Tập
luyện ấy mà, Begum!” một giọng nói thốt lên. “Bà xem: khỉ ra trận và hy
sinh vì tổ quốc!”
“...
còn kia, anh xiếc chồn với rắn.”
“Xem
chồn nhảy kìa, Sahiba! Xem rắn múa kìa!”
“... Còn
lũ chim?...”
“Không
sao đâu, thưa Bà: chẳng qua có Tháp Im lặng[4] của Bái hỏa giáo
ở ngay gần đây; khi đó không có người chết, lũ kền kền lại đến. Giờ chúng
ngủ rồi; ban ngày chúng thích xem các anh tôi luyện tập,” tôi nghĩ vậy.
[4] Kiến
trúc thiên táng của Bái Hỏa giáo, thi hài được đặt lộ thiên trên đỉnh tháp.
Một
căn phòng nhỏ, ở đầu kia sân thượng. Ánh sáng trào ra qua cánh cửa khi Amina
tiến vào... và thấy, trong nhà, một người đàn ông trạc tuổi chồng mình, một
người to béo có mấy tầng cằm, mặc chiếc quần trắng ố bẩn, áo ca rô đỏ, không đi
giày, đang bỏm bẻm nhai hạt hồi và uống một chai Vimto, ngồi xếp bằng
trong một căn phòng trên tường là tranh vẽ mọi hóa thân của thần Vishnu, và mấy
thông báo: BIẾT VIẾT, và KHÁCH NHỔ NƯỚC BỌT LÀ TẬT XẤU. Chả có đồ đạc gì... và
Shri Ramram Seth đang ngồi xếp bằng, cách mặt đất hai mươi xăng ti mét.
Tôi
phải thừa nhận: xấu hổ thay, mẹ tôi rú lên...
...
Trong khi, tại Thành Cổ, bầy khỉ rú lên giữa những thành lũy. Thành phố đổ nát
này, bị con người bỏ hoang, giờ là nơi trú ngụ của langoor. Đuôi dài và mặt
đen, lũ khỉ bị ám ảnh bởi một ý niệm tối thượng về sứ mệnh. Lên lên lên chúng
trèo, nhảy lên những đỉnh cao nhất của tòa thành, đánh dấu lãnh địa, rồi toàn
tâm toàn ý vào việc tháo dỡ, từng hòn đá một, toàn bộ pháo đài. Padma, thật
đấy: em chưa bao giờ đến đó, chưa bao giờ đứng dưới ánh hoàng hôn nhìn những
sinh vật lông lá, quyết tâm, tận lực ấy xoay xở với từng viên đá, kéo rồi
lại lay, lay rồi lại kéo, gỡ từng viên một ra... ngày ngày, dưới tay lũ khỉ,
từng viên đá lăn xuống những bức tường, nảy lên ở chỗ góc và mặt lồi, lao
xuống con hào bên dưới. Một ngày kia sẽ không còn Thành Cổ nữa; cuối cùng,
chẳng còn gì ngoài một đống gạch vụn nằm dưới chân lũ khỉ đang reo hò chiến
thắng... và đây là một con khỉ, chạy dọc những bức tường thành - tôi sẽ gọi nó
là Hanuman, lấy tên vua khỉ đã giúp Hoàng tử Rama đánh bại gã Ravana đầu tiên,
Hanuman của những cỗ chiến xa biết bay... Quan sát nó khi nó lại gần ngọn tháp
này - lãnh địa của nó; khi nó nhảy kêu chạy từ góc này sang góc kia giữa vương
quốc của mình, chà mông lên đá; rồi dừng lại, đánh hơi thấy gì đó đáng lẽ không
có ở đây... Hanuman bổ về phía hốc tường này, ở chiếu nghỉ trên cùng, nơi ba
người đàn ông đã bỏ lại ba vật xám mềm kỳ lạ. Và trong khi lũ khỉ nhảy nhót
trên gác thượng đằng sau nhà bưu điện, chú khỉ Hanuman nhảy nhót đầy cuồng nộ.
Vồ lấy mấy vật xám nọ. Rồi, chúng buộc khá lỏng thôi, chẳng tốn công lay đi kéo
lại, kéo đi lay lại lắm đâu... xem Hanuman đây, kéo lê từng viên đá xám mềm ra
mép dốc đứng của bức tường thành ngoài. Nhìn nó xé chúng ra: rột! rẹt! roạt!...
Nhìn nó thành thạo bốc giấy từ bên trong mấy vật xám ra, rắc chúng xuống như
một trận mưa bồng bềnh để gột rửa những viên đá rơi dưới hào!... Giấy rơi xuống
với một vẻ duyên dáng lười nhác, miễn cưỡng, chìm xuống như một hồi ức tươi đẹp
vào hàm răng của bóng tối; và giờ, đạp! thụi! lại đạp! ba hòn đá xám mềm lăn
khỏi mép tường, rơi rơi vào bóng đêm, và cuối cùng vọng lên một tiếng tõm khe
khẽ đầy sầu muộn. Hanuman, công việc xong xuôi, hết hứng thú, hối hả chạy đến
một chóp tháp xa xa trong vương quốc của mình, bắt đầu lay một hòn đá.