Những đứa con của nửa đêm - Phần I - Chương 04 - Phần 2

Những năm ấy không hề dễ dàng. Hạn hán dẫn đến chế độ khẩu phần, và với những ngày không thịt và những ngày không gạo kéo dài triền miên, thật khó khăn khi phải nuôi thêm một miệng ăn đang lẩn trốn. Mẹ Bề trên buộc phải tiêu lạm vào cái kho của bà, nó khiến cơn giận của bà đặc lại như nước xốt trên bếp lửa. Râu bắt đầu mọc ra từ những nốt ruồi trên mặt bà. Mumtaz lo lắng nhận ra mẹ cô mỗi tháng một phình to hơn. Những lời không nói ra được trong bà đang thổi bà phồng lên... Mumtaz có cảm giác da mẹ mình bắt đầu căng ra như chực vỡ.

Và Bác sĩ Aziz luôn vắng nhà ban ngày, lẩn tránh sự im lặng chết chóc, nên Mumtaz, người luôn ở dưới đất về đêm, hồi đó rất ít được gặp người cha cô yêu thương; còn Emerald đã giữ lời, không hề tiết lộ bí mật của gia đình cho viên Thiếu tá; nhưng ngược lại, cũng không cho nhà biết về mối quan hệ của cô với anh ta, mà theo cô là công bằng; và ở ruộng ngô Mustapha với Hanif và Rashid cậu trai xe kéo bắt đầu nhiễm sự đờ đẫn của thời kỳ ấy; và rốt cuộc ngôi nhà trên đường Cornwallis trôi dạt đến tận ngày mồng 9 tháng Tám năm 1945, khi mọi thứ thay đổi.

Lịch sử gia đình, dĩ nhiên, có những quy định cụ thể về chế độ dinh dưỡng. Người ta chỉ được nuốt và tiêu hóa phần nào được phép, những khẩu phần halal[5] của quá khứ, đã vắt kiệt sắc đỏ, kiệt máu. Tiếc thay, như vậy khiến câu chuyện mất đi ít nhiều hương vị; do đó tôi sắp trở thành thành viên đầu tiên và duy nhất trong gia đình mạo phạm luật halal. Không cho giọt máu nào thoát khỏi thân thể câu chuyện, tôi đi đến cái phần không thể nói ra; và, không chút e dè, tiếp tục.

[5] Những loại thịt được phép ăn và được giết mổ theo đúng quy cách của luật đạo Hồi.

Sự kiện gì xảy ra vào tháng Tám năm 1945? Quận chúa xứ Cooch Naheen chết, nhưng đó không phải là cái tôi định kể, dù lúc từ giã cõi đời bà đã trắng bợt như ga giường đến nỗi khó mà nhìn ra bà trong bộ đồ ngủ; đã hoàn thành phận sự của mình là lưu lại cho câu chuyện của tôi cái ống nhổ bằng bạc, bà tế nhị rút lui nhanh chóng... cũng năm 1945, mùa mưa vẫn về. Trong rừng già Miến Điện, Orde Wingate và lữ đoàn Chindit của mình, cũng như đạo quân về phe Nhật của Subhas Chandra Bose, đều bị dầm trong mùa mưa vừa trở lại. Những người biểu tình Satyagraha[6] ở Jullundur, nằm bất bạo động trên đường xe lửa, đều ướt sũng. Những vết nứt trên mặt đất khô hạn đã lâu bắt đầu khép miệng; khăn mặt được chèn vào cửa ra vào và cửa sổ của tòa nhà trên đường Cornwallis, và phải vắt và thay liên tục. Muỗi sinh sôi từ những vũng nước trên khắp các lề đường. Và căn hầm – lăng Taj Mahal của Mumtaz - trở nên ẩm thấp, đến nỗi cuối cùng cô đổ bệnh. Những ngày đầu cô giấu không cho ai biết, nhưng khi mắt cô vằn đỏ và cô bắt đầu run lên vì sốt, Nadir, sợ cô viêm phổi, van nài cô gặp cha để ông khám bệnh. Cô nằm liệt nhiều tuần sau đấy trên chiếc giường thời con gái, và Aadam Aziz túc trực bên giường con, đắp khăn lạnh lên trán khi cô lên cơn sốt. Ngày mồng 6 tháng Tám bệnh phát. Sáng mồng 9, Mumtaz đã đỡ hơn và ăn được một ít thức ăn đặc.

[6] Triết lý đấu tranh chính trị phi bạo lực của Mahatma Gandhi.

Và giờ ông tôi đi lấy chiếc cặp da cũ có chữ HEIDELBERG đóng bằng sắt nung lên mặt da ở đáy cặp, vì ông đã quyết định rằng, do cô rất suy kiệt, tốt hơn ông nên khám sức khỏe toàn diện cho cô. Khi ông mở cặp, cô bắt đầu khóc.

(Và giờ chúng ta đã tới đây. Padma: đến rồi đây.)

Mười phút sau, quãng thời gian dài im lặng chấm dứt vinh viễn khi ông tôi gầm lên, xộc ra từ phòng người bệnh. Ông rống lên gọi vợ, các con gái, các con trai. Phổi ông rất khỏe và âm thanh này đến tai Nadir Khan ở dưới hầm. Không khó khăn gì để gã đoán ra được nguyên nhân sự náo loạn ấy.

Cả gia đình tập hợp quanh chiếc đài trong phòng khách, dưới những bức ảnh không có tuổi. Aziz bế Mumtaz vào phòng và đặt cô lên chiếc ghế dài. Mặt ông rất đáng sợ. Quý vị hình dung được mũi ông cảm thấy thế nào chứ? Bởi ông đang ôm trong lòng một quả bom sắp phải ném xuống: đó là, hai năm sau ngày cưới, con gái ông vẫn là trinh nữ.

Đã ba năm từ ngày Mẹ Bề trên cấm khẩu. “Con gái, có đúng không?” Im lặng, vật vờ trong những góc nhà như một tấm mạng nhện rách, cuối cùng cũng bị thổi bay; nhưng Mumtazchỉ gật đầu: Vâng. Đúng.

Rồi cô lên tiếng. Cô bảo cô yêu chồng và chuyện kia sau này rồi sẽ ổn. Anh là người tốt và chừng nào việc có con trở nên khả thi anh nhất định sẽ làm được chuyện ấy. Cô bảo hôn nhân không nên phụ thuộc vào chuyện ấy, cô nghĩ vậy, cho nên cô mới không muốn nhắc tới nó, và cha cô thật không phải khi lớn tiếng nói cho cả nhà biết như thế. Lẽ ra cô còn nói nhiều hơn; nhưng Mẹ Bề trên đã bùng nổ.

Ba năm lời lẽ trong bà tuôn trào (nhưng cơ thể bà, phải khẩn cấp căng ra để chứa chúng, không hề co lại). Ông tôi đứng chết trân bên chiếc Telefunken khi bão tố trút xuống đầu. Đây là ý ai? Ai bày ra cái kế hoạch rồ dại, cáigìkhôngbiết, cho quân hèn hạ không làm nổi đàn ông ấy đến ở cái nhà này? Cho gã ở đây, cáigìkhôngbiết, tự do như chim, cái ăn cái ở ba năm giời, ông quan tâm gì đến những ngày không thịt, ông thì biết đâu gạo châu củi quế? Ai là kẻ nhu nhược, cáigìkhôngbiết, phải, kẻ nhu nhược đầu bạc đã cho phép cái đám cưới trái luân thường này? Ai đã dắt con gái mình vào, cáigìkhôngbiết, giường quân vô lại ấy? Đầu ai rặt những thứ ngu đần khốn nạn chẳng ma nào hiểu nổi, cáigìkhôngbiết, não ai mềm nhũn ra vì những tư tưởng ngoại quốc hoang đường đến nỗi đẩy con mình vào một đám cưới bất bình thường đến thế? Ai cả đời đã xúc phạm Chúa, cáigìkhôngbiết, và đây là báo ứng lên đầu ai? Ai đã gieo tai ương vào chính nhà mình... bà nhiếc móc ông tôi đúng một giờ mười chín phút, và khi bà chấm dứt thì mây cũng kiệt nước và ngôi nhà đầy những vũng nước nhỏ. Và, trước khi bà kết thúc, cô út Emerald đã làm một điều hết sức kỳ lạ.

Hai tay Emerald giơ lên ngang mặt, gập lại thành nắm đấm, riêng ngón trỏ thò ra. Ngón trỏ thọc vào lỗ tai và dường như nhấc bổng Emerald khỏi ghế cho đến khi cô bỏ chạy, tay vẫn nút trên tai, chạy – HẾT TỐC LỰC! - mà không có tấm dupatta, ra ngoài phố, qua những vũng nước, qua cái gác xe kéo, qua hàng trầu nơi mấy ông già mới vừa thận trọng ló mình ra giữa bầu không khí trong lành sau cơn mưa, và tốc độ của cô làm kinh ngạc lũ nhóc đang vào vị trí, đang chờ bắt đầu trò né qua né lại giữa những tia nước trầu, vì tất cả đều rất xa lạ với việc thấy một thiếu nữ, nhất lại là một trong ba Teen Batti, hoảng hốt chạy một mình qua những con phố sũng mưa với ngón tay nút tai và không có dupatta trên vai. Ngày nay, ở thành thị không thiếu gì các cô tiểu thư hiện đại, thời trang, không quấn dupatta; nhưng hồi ấy mấy ông cụ buồn bã chắt lưỡi, vì một phụ nữ không có dupatta là một phụ nữ không có danh giá, và không rõ vì sao Emerald Bibi lại quyết định để danh giá ở nhà? Mấy ông già thấy khó hiểu, nhưng Emerald hiểu. Cô nhìn thấy, rõ ràng, trong trẻo, trong bầu không khí sau mưa, rằng căn nguyên những rắc rối của gia đình cô chính là gã phệ hèn nhát (phải, Padma) trốn trong lòng đất kia. Nếu trừ bỏ được gã mọi người sẽ lại hạnh phúc như xưa... Emerald chạy không dừng bước đến khu Doanh trại. Nơi quân đội đồn trú; nơi Thiếu tá Zulfikar ở đó! Phá bỏ lời thề, dì tôi chạy đến văn phòng anh ta.

Zulfikar là một cái tên nổi tiếng với tín đồ đạo Hồi. Đó là tên thanh gươm hai mũi của Ali, cháu trai của Nhà Tiên tri Muhammad. Đó là thứ vũ khí thế giới chưa từng thấy bao giờ.

Ồ, phải: còn một chuyện nữa cũng xảy ra trên thế giới vào hôm đó. Một thứ vũ khí thế giới chưa từng thấy bao giờ đang được ném xuống người dân da vàng ở Nhật Bản. Nhưng tại Agra, Emerald sử dụng vũ khí bí mật của riêng cô. Nó có đôi chân vòng kiềng, lùn, đầu bẹt; mũi gần chạm cằm; nó ao ước một ngôi nhà lớn hiện đại có bồn tắm lắp ngay cạnh giường.

Chưa bao giờ Thiếu tá Zulfikar tuyệt đối tin chắc liệu Nadir Khan có đứng sau vụ ám sát con Chim ngân nga hay không; nhưng anh ta nôn nao chờ cơ hội làm sáng tỏ việc này. Khi Emerald kể cho anh ta về lăng Taj Mahal dưới lòng đất, anh ta phấn khích đến mức quên cả giận dữ, liền bổ đến đường Cornwallis đem theo một tiểu đội mười lăm người. Họ xông vào phòng khách, dẫn đầu là Emerald. Dì tôi: sự phản bội mang gương mặt tuyệt mỹ, không dupatta, mặc quần thụng hồng. Aziz chết lặng nhìn toán lính cuộn tấm thảm phòng khách rồi nâng cánh cửa sập lên trong khi bà tôi ra sức vỗ về Mumtaz. “Đàn bà thì phải lấy đàn ông,” bà bảo, “chứ không lấy chuột, cáigìkhôngbiết! Con không phải xấu hổ khi bỏ, cáigìkhôngbiết, con sâu ấy.” Nhưng con gái bà vẫn khóc.

Không hề có Nadir dưới thế giới ngầm! Được tiếng gầm đầu tiên của Aziz đánh động, bị chôn vùi bởi nỗi bấn loạn tràn ngập lòng gã dễ dàng hơn trận mưa mùa gió chướng, gã biến mất. Cánh cửa lật của một trong mấy nhà vệ sinh bị bật tung - phải, đúng nơi gã từng gọi Bác sĩ Aziztừ chỗ ẩn náu trong tủ giặt, sao lại không. Chiếc“hộp sẫm sét” bằng gỗ - một “ngai vàng” - nằm chỏng chơ, cái bô tráng men trống không lăn lóc trên tấm thảm xơ dừa. Nhà vệ sinh có cửa thông ra con ngõ cạnh ruộng ngô; cửa mở toang. Nó vốn được khóa ở ngoài, nhưng chỉ bằng khóa Ấn Độ, nên rất dễ phá... và trong gian biệt viện dưới ánh đèn mờ của Taj Mahal, là cái ống nhổ sáng bóng và một lời nhắn, gửỉ Mumtaz, do chồng cô ký, ba từ, sáu âm tiết, ba dấu chấm than:

Talaaq! Talaaq! Talaaq!

Tiếng Anh thiếu đi cái âm hưởng sét đánh của tiếng Urdu, và dù sao quý vị cũng biết nó nghĩa là gì. Tôi ly dị em. Tôi ly dị em. Tôi ly dị em.

Nadir Khan đã làm chuyện nên làm.

Ôi cơn thịnh nộ kinh hồn của Thiếu tá Zulfykhi biết con chim đã bay khỏi tổ! Trước mắt anh ta chỉ có một màu: đỏ. Ôi cơn giận có thể sánh ngang với trận lôi đình của ông tôi, dù chỉ hé lộ qua những cử chỉ nhỏ nhặt! Thiếu tá Zulfy, đầu tiên, lồng lộn đi ra đi vào trong niềm tuyệt vọng; sau cùng trấn tĩnh lại; và lao ra qua nhà tắm, qua ngai vàng, dọc ruộng ngô, qua cánh cổng bức tường vành đai. Chẳng thấy tăm hơi gì của gã thi sĩ không vần béo bệu, tóc dài vừa đào tẩu. Nhìn bên trái: không có gì. Bên phải: cũng không. Chàng Zulfy điên dại cân nhắc, rồi cắm đầu chạy qua dãy xích lô. Mấy ông già đang chơi phụt-ống-nhổ và cái ống nhổ đang để giữa đường. Lũ nhóc, né qua né lại giữa những tia nước trầu. Thiếu tá Zulfy chạy, cắm đầu cắm cổ. Qua giữa mấy ông già và cái đích, song anh ta lại thiếu cái lanh lẹ của lũ nhóc. Một khoảnh khắc thật đen đủi: một tia nước đỏ bay thấp và mạnh bắn ngay chóc vào háng anh chàng. Một vệt ố như bàn tay túm lấy đũng cái quần nhà binh; siết chặt; chặn anh ta lại. Thiếu tá Zulfy khựng lại trong cơn cuồng nộ. Ôi, còn đen đủi hơn; vì một đấu thủ thứ hai, tưởng rằng anh lính điên dại sẽ chạy tiếp, phun ra một tia thứ hai. Bàn tay đỏ thứ hai siết chặt bàn tay thứ nhất và trọn vẹn một ngày đen đủi của Thiếu tá Zulfy...chậm rãi, quả quyết, anh ta bước tới cái ống nhổ mà đá nó đi, vào đám bụi. Anh ta nhảy lên nó - một! hai! nữa! - giẫm nó bẹp rúm, và nhất định không cho thấy nó làm đau chân anh. Rồi, với ít nhiều kiêu hãnh, anh ta tập tễnh bỏ đi, quay lại chiếc xe đậu trước nhà ông tôi. Mấy ông già nhặt lại cái đồ đựng vừa bị hành hạ tàn tệ ấy và bắt đầu gò nó lại hình dáng cũ.

“Em sắp lấy chồng,” Emerald bảo Mumtaz,“nếu chị không chịu khó vui vẻ lên một chút thì thật bất nhã. Mà chị cũng phải dặn dò em này nọ chứ.” Lúc này, dù mỉm cười với em gái, mumtaz tự nhủ ở địa vị Emerald nói vậy thật quá hỗn xược; và, có lẽ chỉ vô tình, gia tăng áp lực lên cây bút chì cô dùng để vẽ hoa văn bằng phẩm henna lên lòng bàn chân em gái. “Nào!”Emerald ré lên, “Không cần phải cáu thế! Em chỉ nghĩ ta nên cố gắng làm bạn của nhau.”

Quan hệ của mấy chị em đã có phần trở nên căng thẳng sau khi Nadir Khan mất tích; vàMumtaz không hề thích việc Thiếu tá Zulfikar(người đã quyết định không buộc tội ông tôi chứa chấp một đối tượng bị truy nã, và dàn xếp việc ấy với Chuẩn tướng Dodson) đến xin phép, và được phép, cưới Emerald. “Như thế khác nào tống tiền,” cô nghĩ. “Gì thì gì, còn Alia thìsao? Con gái lớn không nên lấy chồng sau chót, và xem chị ấy kiên nhẫn với anh lái buôn của mình thế nào.” Nhưng cô không nói gì, chỉ nở nụ cười nhẫn nại, dành trọn đức chu đáo của cô cho việc chuẩn bị lẽ cưới, và bằng lòng chịu khó vui vẻ một chút; trong khi Alia tiếp tục chờ đợiAhmed Sinai. (“Cô ấy sẽ chờ đến hết đời,” Padma đoán: chính xác.)

Tháng Một năm 1946. Lều rạp, bánh kẹo, khách khứa, hát hò, cô dâu ngất xỉu, chú rể đứng dơ như phỗng trước quá nhiều ánh mắt nhìn vào: một đám cưới linh đình... tại đây, anh lái buôn vải giả da, Ahmed Sinai, thấy mình hút vào câu chuyện với nàng Mumtaz vừa ly dị. “Em yêu trẻ con? - trùng hợp quá, tôi cũng thế...” “Em chưa có con à, cô gái tội nghiệp? À, thực tế là, vợ tôi không thể...” “Ôi, không; khổ thân anh quá; tâm tính cô ấy chắc xấu lắm nhỉ!” “…Ôi, như địa ngục... xin lỗi em. Cảm xúc mãnh liệt nó cuốn tôi đi.” “- Có sao đâu; anh đừng nghĩ đến nữa. Chị ấy có ném bát đĩa các thứ không?” “Có ném không ấy à? Một tháng liền chúng tôi phải ăn bằng giấy báo!” “Không, trời ơi, anh bốc phét ghê quá!” “Ôi, nào có ăn thua, có qua được mắt em đâu. Nhưng cô ấy có ném thật.” “Khổ thân anh quá.” “Không - em. Em mới khổ chứ.” Và nghĩ: “Người đâu mà duyên thế, bên cạnh Alia lúc nào trông anh ấy cũng rất buồn chán...” Và, “Cô gái này, mình chả để ý bao giờ, nhưng trời ơi...” Và, “thấy rõ là anh ấy yêu trẻ con; mà như vậy mình có thể...” Và, “… Ừm, quan trọng gì cái nước da...” Dễ nhận thấy là, khi cần phải hát, Mumtaz tìm được nhiệt tình để hòa vào mọi khúc ca; trong khi Alia vẫn im lặng. Cô đã bị bầm tím còn nặng hơn cả cha mình hồi ở Jallianwala Bagh; nhưng quý vị không thấy dấu vết gì ở cô.

“Chà, em gái u sầu, cũng đã biết yêu đời rồi đấy nhỉ.”

Tháng Sáu năm ấy, Mumtaz tái giá. Chị cô - học theo mẹ mình - sẽ không nói chuyện với em gái cho đến ngày, ngay trước khi cả hai qua đời, nhìn thấy cơ hội báo thù. Aadam Aziz với Mẹ Bề trên cố gắng, nhưng bất thành, thuyết phục Alia rằng chuyện như thế vẫn xảy ra, thà biết sớm còn hơn muộn, rằng Mumtaz bị tổn thương sâu sắc và cần một người đàn ông giúp cô vượt qua... vả lại, Alia có đầu óc, cô sẽ ổn thôi.

“Nhưng, nhưng,” Alia nói, “có ai lấy sách làm vợ đâu.”

“Em đổi tên đi,” Ahmed Sinai bảo. “Đã đến lúc bắt đầu cuộc đời mới. Hãy vứt Mumtaz vàNadir Khan của cô ta ra cửa sổ, anh sẽ chọn cho em một cái tên mới. Amina. Amina Sinai: em thấy sao?”

“Anh nói sao cũng được, ông xã,” mẹ tôi đáp.

“Dào ôi,” Alia, đứa con khôn ngoan, viết trong nhật ký, “ai thèm dính vào ba cái trò cưới xin này? Không phải mình: không; không đời nào.”

Mian Abdullah là sự khởi đầu hụt của rất nhiều kẻ lạc quan; phụ tá của ông (cái tên không được nhắc đến tại nhà ông tôi) là ngoặt sai lầm của mẹ tôi. Nhưng đó là những năm hạn hán; rất nhiều mùa màng gieo trồng vào giai đoạn ấy rốt cuộc chẳng thu được gì.

“Chuyện gì xảy ra với gã bệu kia?” Padma bực bội hỏi, “Anh không định bảo là anh sẽ không kể đấy chứ?”

Báo cáo nội dung xấu