Những đứa con của nửa đêm - Phần I - Chương 05 - Phần 1

Chương
5: Lời tuyên bố công khai

Rồi
đến một tháng Một hư ảo, một giai đoạn tĩnh lặng trên bề mặt đến mức
tưởng như năm 1947 chưa hề bắt đầu. (Trong khi, dĩ nhiên, trên thực tế...)
Khi mà Phái đoàn Nội các - gồm Pethick-Lawrence già cả, Cripps khéo léo,
A.V.Alexander binh gia[1] - chứng kiến kế hoạch chuyển
giao quyền lực của mình đổ bể. (Nhưng dĩ nhiên, trên thực tế, chỉ sáu tháng nữa
là đến...) Khi mà đức ngài toàn quyền, Wavell, biết rằng mình thế là hết,
xong phim, hay nói theo ngôn ngữ biểu cảm của ta, funtoosh, (một
điều, dĩ nhiên, trên thực tế, chỉ đẩy nhanh mọi sự, vì nó mở đường cho vị toàn
quyền cuối cùng xuất hiện, người sẽ...) Khi mà Ngài Attlee hình như
còn mải định đoạt tương lai của Miến Điện với Ngài Aung Sam. (Trong khi, dĩ
nhiên, trên thực tế, ông ta đang dặn dò viên toàn quyền cuối cùng, trước khi
tuyên bố bổ nhiệm; vị toàn-quyền-cuối-cùng tương lai đang yết kiến đức vua và
được trao đặc mệnh toàn quyền; cho nên sớm, sớm thôi...) Khi mà Hội đồng Lập
hiến tạm ngừng hoạt động, dù chưa nhất trí được về bản Hiến pháp. (Nhưng, dĩ
nhiên, trên thực tế, Bá tước Mountbatten, viên toàn quyền cuối cùng, sẽ đến với
chúng ta bất kỳ lúc nào, với tiếng tích tắc vô tình, với lưỡi dao nhà binh có
thể xẻ tiểu lục địa làm ba, với bà vợ chốt cửa nhà vệ sinh ăn vụng ức gà.) Và
giữa cái tĩnh lặng như gương mà qua nó người ta không thể thấy bộ máy khổng
lồ đương rầm rập vận hành, mẹ tôi, tân Amina Sinai phu nhân, trông
vẫn bình lặng và không thay đổi mặc dù những điều lớn lao đang diễn ra dưới da
bà, một sớm tỉnh dậy, với cái đầu ong ong vì mất ngủ và cái lưỡi đóng dày một
lớp giấc-ngủ-chưa-ngủ, bỗng thấy mình buột miệng nói lớn, mà không hề chủ định,
“Mặt trời làm gì ở đây thế này, Allah? Mọc nhầm chỗ rồi.”

[1]
Năm 1946, chính phủ Anh cử phái đoàn đại diện nội các sang Ấn Độ để
đàm phán chuyển giao quyền lực với hy vọng thành lập thể chế liên bang.
Dẫn đầu đoàn là ba nhân vật kể trên. Huân tước Pethick-Lawrence là Bộ
trưởng Ngoại giao về Ấn Độ; Cripps là Chủ tịch Ủy ban Thương
mại, Alexander là Chủ tịch Cao ủy Hải quân.

... Tôi phải
ngắt lời mình. Hôm nay tôi không định thế, vì dạo này Padma tỏ ra khó
chịu mỗi khi câu chuyện của tôi trở nên tự tri; mỗi khi, như một anh múa
rối kém tài, tôi để lộ bàn tay điều khiển những sợi dây; nhưng tôi chỉ muốn nói
một lời phản đối. Vậy nên chen giữa một chương mà, bằng sự tình cờ may mắn, tôi
đặt tên là “Lời Tuyên bố Công khai”, tôi đưa ra (bằng ngôn từ mạnh nhất có
thể) lời cảnh báo toàn diện về y học sau: “Một lão Bác sĩ N.Q.Baligga nào
đấy,” tôi muốn công bố - từ trên mái nhà! Từ loa của các thánh
đường! - “là một lão lang băm. Đáng bị nhốt lại, bị tước giấy phép và
ném qua cửa sổ. Hay nặng hơn: phải hứng chịu trò lang băm của chính lão, phát
cùi hủi vì một viên thuốc kê sai. Đồ ngu dốt khốn kiếp,” tôi nhấn mạnh,
“có mắt như mù!”

Xả
giận xong rồi, tôi phải tạm để mẹ mình nghĩ ngợi thêm chút nữa về hành vi kỳ
quặc của mặt trời, để giải thích rằng Padma của chúng ta, kinh hãi vì tôi đề
cập đến sự rạn nứt, đã bí mật phó thác cho lão Baligga - lão ju-ju này! lão
lang vườn ấy! - và do đó, tên đại bịp ấy, kẻ tôi sẽ không hạ mình tô điểm
bằng cách mô tả lão, liền mò đến. Tôi, hoàn toàn ngây thơ và cũng vì Padma,
đồng ý cho lão khám. Lẽ ra tôi phải sợ điều tồi tệ nhất; điều tồi tệ
nhất là cái lão đem lại. Quý vị tin được thì cứ tin: lão lừa bịp ấy tuyên bố
tôi nguyên vẹn! “Tôi không thấy nứt gì cả,” lão trầm giọng như đưa đám, nhưng
khác Nelson tại Copenhagen[2] ở chỗ lão không có
con mắt sáng nào, cái mù của lão không phải là lựa chọn của thiên tài ngoan
cường mà là tai ương tất yếu của ngu xuẩn! Đui mù, lão nghi vấn về tình trạng
tâm lý của tôi, gieo nghi ngờ về độ tin cậy của tôi trong vai trò nhân chứng.
Và còn gì nữa Chúa mới biết: “Tôi không thấy nứt gì cả.”

[2] Đô
đốc Horatio Nelson của hải quân Anh. Trong trận chiến Copenhagen năm
1801, Nelson nhận được tín hiệu rút lui, giơ ống nhòm lên bên mắt chột và
nói: “Tôi không thấy tín hiệu gì hết.” Kết quả quân Anh giàng chiến
thắng, buộc Đan Mạch phải ngồi vào đàm phán
.

Cuối
cùng, chính Padma đã xua lão đi. “Không sao đâu, Bác sĩ Sahib,”
cô nói, “chúng tôi sẽ tự chăm lo cho anh ấy.” Trên mặt cô tôithấy một
sự tự ý thức về lỗi lầm khờ dại của mình... Baligga
thế là xéo, vĩnh viễn không trở lại những trang sách này. Nhưng lạy
Chúa! nào nghề y – nghề nghiệp của Aadam Aziz - đã tụt xuống đến
mức ấy? Đến cái bể phốt rặt những Baligga này? Sau cùng, nếu
thế thật, thì ai cũng tự lo thân được chẳng cần bác sĩ... một điều
đưa tôi trở về với lý do tại sao một sáng nọ AminaSinai thức giấc với
mặt trời trên môi.

“Nó
mọc nhầm chỗ rồi!” bà buột miệng thốt lên; rồi, giữa cơn mụ mị đang tan dần của
một đêm khó ngủ, nhận ra trong cái tháng ảo giác này mình đã trở thành nạn nhân
của một trò ảo thuật ra sao, vì mọi chuyện chẳng qua là bà vừa thức dậy
ở Delhi, tại nhà người chồng mới, nhìn ra hướng Đông, về phía mặt
trời; nên sự thật của vấn đề là mặt trời vẫn ở đúng chỗ, chỉ có vị trí của bà
là thay đổi... nhưng kể cả khi đã tiêu hóa xong suy nghĩ giản đơn ấy, và cất nó
đi cùng nhiều nhầm lẫn tương tự bà gặp phải từ khi đến đây (vì sự lẫn lộn về
mặt trời thường xuyên xảy ra với bà, như thể trí óc bà từ chối tiếp nhận sự
thay đổi của hoàn cảnh, vị trí mới, trên mặt đất của giường bà), có gì đó trong
ảnh hưởng lộn xộn của nó vẫn lưu lại và khiến bà không thể thấy hoàn toàn thanh
thản.

“Cuối
cùng, ai cũng có thể sống vắng cha,” Bác sĩ Aziz bảo con gái khi chia
tay; và Mẹ Bề trên bổ sung, “Lại thêm một đứa con côi trong nhà,
cáigìkhôngbiết, nhưng có sao, Muhammad cũng là con côi đấy thôi; và con
cũng có thể nói vậy về Ahmed Sinai của con, cáigìkhôngbiết, ít nhất
nó cũng là dân Kashmir một nửa.” Rồi, tự tay mình, Bác
sĩ Aziz chuyển chiếc rương tôn xanh lên khoang tàu nơi Ahmed Sinai
chờ cô dâu. “Món hồi môn này xét ra thì chẳng nhỏ nhưng cũng không quá lớn,”
ông nói. “Chúng ta chẳng phải là crorepatis[3], con cũng biết. Nhưng
chúng ta đã cho con đủ; Amina sẽ cho con nhiều hơn.” Trong chiếc rương xanh là:
ấm trà bằng bạc, sari thêu kim tuyến, những đồng vàng của các bệnh nhân hàm ơn
biếu Bác sĩ Aziz, một viện bào tàng trong đó những vật trưng bày tượng
trưng cho những căn bệnh được chữa và những sinh mệnh được cứu. Lúc
này AadamAziz nhấc bổng con gái lên (bằng chính tay mình), trao cô, sau
món hồi môn, vào vòng tay người đàn ông đã đổi tên và do đó đã tái sinh cô, bởi
vậy theo một nghĩa nào đó đã trở thành cha đồng thời là chồng cô... ông đi
(bằng chính chân mình) dọc sân ga khi đoàn tàu bắt đầu lăn bánh. Như
một tay chạy tiếp sức ở cuối vòng đua, ông đứng đó, bị
vây phủ giữa khói bụi và những người bán truyện tranh và cái hỗn loạn của những
cây quạt lông công và quà vặt và hết thảy cái huyên náo trì trệ của đám
phu khuân vác ngồi xổm và bầy thú thạch cao trên xe đẩy khi
con tàu vào guồng chạy về hướng thủ đô, bắt tốc độ để vào vòng đua tiếp. Trên
khoang tàu Amina Sinai phu nhân ngồi (nguyên đai nguyên kiện) gác chân lên
chiếc rương tôn xanh, vì cao hơn một tấc nên không nhét vừa gầm ghế. Với đôi
xăng đan gác lên bảo tàng khóa kín đựng những thành tựu của cha mình, cô tăng
tốc tiến vào cuộc đời mới, bỏ lại sau lưng Aadam Aziz để ông dồn hết tâm
huyết cho nỗ lực kết hợp các kỹ thuật của Tây y và hakim[4], một nỗ
lực sẽ từ từ khiến ông kiệt quệ, khiến ông nhận ra rằng sự thống trị của mê tín
dị đoan, sùng thần bái quỷ và vô số điều huyền bí khác sẽ không bao giờ bị phá
vỡ ở Ấn Độ, vì các hakim từ chối không hợp tác; trong khi ông già đi
và thế giới trở nên ít thực hơn, ông bắt đầu hoài nghi đức tin của
mình, nên trước khi ông nhìn thấy Chúa mà chưa bao giờ ông có thể tin hay không
tin, có lẽ ông đang đợi chờ cuộc gặp gỡ ấy.

[3] Triệu
phú (một crore là 10 triệu rupee).

[4]
Thầy thuốc điều trị theo phương pháp cổ truyền của đạo Hồi.

Khi
tàu rời ga Ahmed Sinai bật dậy chốt cửa khoang lại rồi sập cửa chớp
xuống, trước sự ngạc nhiên của Amina; nhưng rồi bỗng có tiếng thình thịch ở
ngoài, và có bàn tay vặn nắm đấm cửa cùng tiếng nài nỉ “Cho chúng con vào với,
Maharaj! Maharajin, bà có đấy không, bảo ông nhà mở cửa đi.” Và luôn như
thế, trên mọi chuyến tàu trong truyện này đều có những nắm đấm ấy, những giọng
nói ấy đập cửa van nài; trên tuyến Frontier
Mail đi Bombay và mọi tuyến tàu nhanh những năm ấy; và nó luôn
luôn đáng sợ, cho đến khi rốt cuộc tôi là kẻ ở ngoài, cố sống cố chết bám chặt,
cầu xin: “Kìa, Maharaj! Cho con vào với, hỡi ngài tôn kính.”

“Dân
lậu vé.” Ahmed Sinai
nói, nhưng không đơn giản như vậy. Họ là một lời tiên tri. Sẽ sớm có những lời
tiên tri khác.

...
Và lúc này mặt trời đang ở nhầm chỗ. Mẹ tôi nằm trên giường và thấy
thấp thỏm; nhưng cũng háo hức vì điều vừa xảy ra trong bà và, cho tới
lúc này, vẫn là bí mật của riêng bà. Cạnh bà, Ahmed Sinai ngáy
hết cỡ. Ông không bị mất ngủ; không hề, bất chấp
những rắc rối đã khiến ông đem về nhà một cái túi xám đựng đầy
tiền và giấu dưới gậm giường khi tưởng Amina không để ý. Cha tôi ngủ ngon
lành, cuộn mình trong sự bao bọc êm ái của thiên tư vĩ đại nhất ở mẹ
tôi, điều hóa ra còn giá trị hơn rất nhiều những thứ trong cái rương tôn
xanh: AminaSinai đã dành cho Ahmed món quà là sự ân cần không mệt mỏi của
bà.

Không
một ai nhẫn nại như Amina. Đen sậm làn da, long lanh đôi mắt, mẹ tôi sinh ra đã
là người tỉ mỉ nhất trên đời. Cần mẫn, bà cắm hoa trên từng hành lang, từng căn
phòng của ngôi nhà ở thành Delhi cũ; thảm được chọn với sự cẩn thận
vô biên. Bà có thể bỏ ra hai mươi lăm phút nghĩ ngợi về vị trí của
một cái ghế. Trước khi bà hoàn thành việc xây tổ ấm, tỉa tót chỗ này một tí,
sửa sang chỗ kia một tẹo, Ahmed đã thấy chỗ ở của gã mồ côi là mình đây
trở nên đầy dịu dàng và yêu thương. Amina sẽ dậy trước ông, đức cần
mẫn thôi thúc bà lau chùi mọi thứ, kể cả mấy tấm mành tre (đến khi ông bằng
lòng thuê một hamal làm việc đó); nhưng điều mà Ahmed không bao giờ biết là
năng khiếu của bà được áp dụng chuyên chú nhất và bền bỉ nhất không phải lên
những ngoại vật trong cuộc sống của họ, mà là lên chính bản
thân Ahmed Sinai ông.


sao bà lấy ông? - Vì muốn nguôi ngoai, vì cần con cái. Nhưng đầu tiên chứng mất
ngủ bao bọc não bà đã cản trở mục đích thứ nhất; còn con cái thì chẳng phải bao
giờ cũng đến ngay. Vậy là Amina thấy mình mơ thấy một khuôn mặt thi sĩ không
được phép mơ và tỉnh giấc với một cái tên không được phép nói ra trên môi. Quý
vị hỏi: rồi bà làm thế nào? Tôi trả lời: bà nghiến răng và quyết tâm chấn chỉnh
lại mình. Bà tự nhủ thế này: “Đồ ngu dốt vô ơn, mày không thấy bây giờ chồng
mày là ai sao? Mày không biết một người chồng đáng được nhận những gì sao?” Để
tránh sự tranh cãi vô bổ quanh câu trả lời đúng cho hai câu hỏi này, tôi xin
nói rằng, đối với mẹ tôi, một người chồng đáng được nhận sự trung thành tuyệt
đối, và tình yêu toàn tâm toàn ý. Nhưng có một khó khăn: Amina, đầu óc chất
chứa Nadir Khan và bệnh mất ngủ, thấy mình không thể mang lại cho
Ahmed Sinai những điều đó một cách tự nhiên. Vậy là, vận dụng cái thiên tư cần
mẫn vốn có, bà bắt đầu rèn cho mình yêu ông. Để làm được điều đó bà chia ông,
trong đầu bà, thành từng bộ phận cấu thành riêng rẽ, cơ thể cũng như hành vi,
phân loại ông thành nào môi nào khẩu tật nào định kiến nào sở thích... tóm lại,
bà đã mắc phải bùa phép của tấm ga giường khoét lỗ của cha mẹ mình, vì bà đã
quyết tâm đem lòng yêu chồng theo từng mảnh một.

Mỗi
ngày bà chọn một mảnh của Ahmed Sinai, và tập trung toàn bộ thân tâm vào
nó cho tới khi nó trở nên hoàn toàn quen thuộc; cho tới khi bà thấy sự ưa
thích dâng lên trong lòng rồi hóa thành cảm mến và, cuối cùng, tình yêu. Cứ như
thế bà đi đến chỗ si mê giọng nói quá to của ông và cái cách nó chọc vào màng
nhĩ bà làm bà rùng mình; và cái quái tật là luôn vui vẻ cho đến khi cạo râu
xong - sau đó sáng nào cũng vậy, tính tình ông trở nên gay gắt, cục cằn, quy củ
và xa cách; và đôi mắt kền kền ẩn chứa điều bà tin chắc là một nội tâm nhân hậu
sau một cái nhìn mơ hồ u ám; và cái cách môi dưới ông trề ra so với môi trên;
và cả chiều cao khiêm tốn khiến ông cấm tiệt bà đi giày cao gót... “Lạy Chúa,”
bà tự nhủ, “xem ra ở mỗi người đàn ông có cả triệu thứ để yêu!” Nhưng bà không
sờn lòng. “Rốt cuộc,” bà thầm lý luận, “có ai thật sự hiểu người khác trọn
vẹn?”, và tiếp tục học cách yêu và ngưỡng mộ thói ưa đồ nướng, tài trích
thơ Ba Tư của ông, nếp nhăn giận dữ nơi chân mày ông... “Cứ thế này,” bà thầm
nhủ, “sẽ luôn có gì đó mới mẻ ở anh ấy để yêu; và cuộc hôn nhân này sẽ chẳng
thể nhàm chán được.” Cứ thế, một cách cần mẫn, mẹ tôi ổn định cuộc sống ở thành
phố cũ. Cái rương tôn nằm im chưa mở trong cái tủ cũ.


Ahmed, không hề biết hay nghi ngờ, thấy bản thân và cuộc sống của mình chịu ảnh
hưởng của vợ, cho đến khi, từng chút một, ông trở nên giống - và sống ở một nơi
giống - một gã đàn ông ông chưa từng biết trong một căn phòng dưới mặt đất ông
chưa từng thấy. Dưới tác động của thứ nhẫn thuật mơ hồ đến nỗi có lẽ Amina
không ý thức được mình đang thực hiện nó, Ahmed Sinai thấy tóc mình thưa
dần, và phần còn lại trở nên xuôi và nhờn; ông nhận ra mình sẵn lòng để nó mọc
chờm quá tai. Đồng thời, dạ dày ông bắt đầu căng ra, đến khi biến thành cái
bụng nhão, mềm mà tôi sẽ rất thường chết ngạt trong đó và không một ai trong
chúng tôi, ở mọi cấp độ của ý thức, so sánh với sự mập lùn của Nadir Khan.
Cô em họ xa Zohra bảo ông, lả lơi, “Anh phải ăn kiêng đi, anh giai,
kẻo chúng em chả chạm được đến anh mà hôn đâu!” Nhưng chẳng ăn
thua gì... và từng chút một Amina tạo dựng ở Delhi Cũ một thế giới
của nệm mềm và rèm trên cửa sổ, để ánh sáng càng ít lọt vào càng tốt... bà lèn
vải đen vào mành; và hết thảy những sửa đổi vụn vặt ấy góp phần vào
cái kỳ công Hercules của bà, cái nhiệm vụ chấp nhận, từng mảnh một,
rằng bà phải yêu một người đàn ông mới. (Nhưng bà vẫn dễ tổn thương
trước hình ảnh trong mơ cấm kỵ của... và luôn bị hấp dẫn bởi những người đàn
ông bụng mềm, tóc dài và xuôi.)

Từ
thành phố cũ không thể nhìn thấy thành phố mới. Ở thành phố mới, một chủng tộc
những kẻ chinh phục da hồng đã xây những cung điện đá hồng; nhưng nhà cửa trên
những con ngõ hẹp của thành phố cũ đều nhoi ra, chen chúc, nhốn nháo, chắn hết
tầm nhìn của nhau về những dinh thự của quyền lực nhuộm sắc hồng. Hơn nữa cũng
chẳng ai nhìn về hướng ấy. Ở những muhalla, hay khu dân cư của người đạo Hồi,
tập trung quanh Chandni Chowk, người ta thỏa mãn với việc nhìn vào
mảnh sân biệt lập của đời mình; với việc buông mành xuống cửa sổ và hiên nhà. Ở
những con ngõ hẹp, đám thanh niên rỗi việc nắm tay và ngoắc tay và hôn nhau khi
gặp gỡ và đứng thành vòng tròn mông chìa ra, mặt quay vào. Nơi này không có cây
xanh, còn lũ bò thì tránh xa, biết rằng ở đây chúng chả thiêng gì. Chuông xe
đạp réo liên hồi. Và vượt lên âm thanh chói tai ấy là tiếng rao của những hàng
hoa quả rong: Ai hoa quả đê-Ê, chà là ngon đê-Ê!

Cùng
những thanh âm này, vào buổi sáng tháng Một khi mẹ tôi và cha tôi đều đang
có một bí mật giấu người kia, còn có tiếng lẹp kẹp bồn chồn của bước chân Ngài
Muscapha Kemal và Ngài S.P. Butt; và tiếng lốc cốc liên hồi từ
cái trống dugdugee của Lifafa Das.

Khi
những bước chân lẹp kẹp đầu tiên vang lên trên những con hẻm ở
muhalla, Lifafa Dascùng chiếc hộp vạn hoa và cái trống vẫn còn ở đâu đó
khá xa. Bốn bàn chân lẹp kẹp xuống taxivà rảo bước trên mấy con ngõ hẹp;
trong khi đó, ở ngôi nhà góc phố, mẹ tôi đứng trong bếp rang khichri cho bữa
sáng và nghe lỏm cha tôi nói chuyện với cô em họ xa Zohra. Những bàn
chân lẹp kẹp đi qua những người bán hoa quả và những kẻ rỗi việc nắm tay nhau;
mẹ tôi nghe lỏm: “... Đôi vợ chồng son nhà anh, em chả nhịn được cứ
phải đến ngắm, thật là sịu sàng khôn xiết!” Trong khi
những bàn chân lại gần, cha tôi đổi màu thật sự. Hồi ấy ông đang ở vào độ chín
của sự quyến rũ; môi dưới ông chưa trề lắm, nếp nhăn giữa hai hàng lông mày mới
chỉ lờ mờ... và Amina, đang đảo khichri nghe thấy Zohra ré lên, “Ui,
đỏ mặt kìa! Cơ mà anh trắng thật, anh giai ạ!...” Và ông cho cô ả nghe Đài phát
thanh Toàn Ấn Độ tại bàn, điều Amina không được phép; Lata Mangeshkar đang ca
một bản tình ca ai oán khi “Y như em, anh thấy hông,” Zohra tiếp
tục, “Chúng ta sẽ có những bé con hồng hào đáng yêu, một cặp trời sinh,
nhỉ, anh giai, một đôi vợ chồng da trắng đẹp đẽ?” Những bàn chân
vẫn lẹp kẹp và bàn tay vẫn đảo chảo khi “Da đen khổ thật đấy,
anh giai nhỉ, sáng ra thức dậy đã thấy nó nhìn mình chằm chằm, và soi gương là
thấy bằng chứng sự thấp kém của mình! Tất nhiên là họ biết; ngay dân da đen
cũng biết da trắng đẹp hơn, anh nghĩ vậy hông?” Những bàn chân đã rất gần
và Amina khệ nệ bước vào phòng ăn với cái nồi trên tay, hết sức tập
trung kiềm chế bản thân, tự nhủ Sao ả phải đến đúng ngày mình có tin muốn nói
kia chứ rồi lát mình còn phải xin tiền trước mặt ả. Ahmed Sinai thích
bà nói ngọt khi xin tiền ông, thích bà phỉnh nó ra khỏi túi ông bằng sự mơn
trớn và những lời âu yếm, đến khi cái khăn ăn trồi lên trên lòng ông khi trong
quần ông có gì ngọ nguậy; còn bà không màng, bằng sự cần mẫn bà đã học cách yêu
cả điều này, và mỗi khi bà cần tiền sẽ có những vuốt ve và “Janum, cuộc
sống của em, nhé...” và “... Tí chút thôi, để em làm mấy món ngon và
trả hóa đơn...” và “Mình rộng rãi mà, đưa bao nhiêu tùy mình, em biết là sẽ
đủ”... những thủ đoạn của lũ ăn mày và bà sẽ phải làm vậy trước mặt cô ả mắt
thô lố hay cười rúc rích và nói chuyện dân da đen oang oang ấy. Những bàn chân
đã ở sát cửa và Amina trong phòng khách với món khichri nóng hổi đã sẵn
sàng, hết sức gần cái đầu ngu ngốc của Zhora, vừa lúc ả thốt lên, “À,
ai có mặt thì không tính nhé, tất nhiên rồi!” để phòng xa,
không rõ mình có bị nghe lỏm không, và “Kìa, Ahmed, anh giai, anh thật quá tệ
khi nghĩ ý em muốn nói cả chị Amina dễ thương của chúng ta, người thật sự không
quá đen mà chỉ như một phụ nữ da trắng đứng dưới bóng râm thôi!” Trong khi
Amina với cái nồi trên tay nhìn mái đầu xinh đẹp kia và nghĩ Có nên không? Và,
mình có Dám không? Rồi tự vỗ về bản thân rằng: “Hôm nay là một ngày quan trọng
đối với mình; và ít nhất ả cũng nhắc đến chuyện con cái; bây giờ mình sẽ dễ nói...” Nhưng
đã quá trễ, tiếng nức nở của Lata trên đài đã nhấn chìm tiếng chuông nên
không ai nghe thấy lão Musa giúp việc ra mở
cửa; Lata đã che lấp tiếng chân thấp thỏm lẹp kẹp lên cầu thang;
nhưng thình lình chúng đã ở đây, bước chân của Ngài Musupha Kemal và Ngài
S.P.Butt, đang lệt bệt dừng lại.

lũ bất lương vừa thực hiện một hành vi
phá hoại!” Ngài Kemal, người gầy nhất mà Amina
Sinai từng thấy, đã châm ngòi, bằng thứ cổ ngữ kỳ lạ (bắt
nguồn từ tính thích tranh tụng của ông ta, hệ quả là ông ta đã nhiễm cái giọng
điệu chốn pháp đình), một phản ứng dây chuyền của nỗi sợ hãi khôi hài, được
ngài S.P. Butt nhỏ thó, the thé, dặt dẹo, có gì hoảng loạn nhảy nhót
như một con khỉ trong mắt, làm gia tăng đáng kể khi thốt lên bốn chữ này:
“Phải, bọn hỏa tặc!” Lúc này Zohra trong một phản xạ kỳ quặc siết
chặt cái đài vào ngực, bóp nghẹt Lata giữa hai bầu vú, rú lên, “Ôi Chúa ơi, Ôi
Chúa ơi, hỏa tặc nào, ở đâu? Ở đây à? Ôi Chúa ơi tôi thấy rực lên rồi!” Amina
đứng sững với khichri trên tay đăm đăm nhìn hai người đàn ông mặc âu phục trong
khi chồng bà, bí mật giờ đã ném đi theo gió, râu đã cạo nhưng đồ chưa mặc, bật
dậy hỏi, “Cái godown?”

Godown, gudam,
kho hàng, quý vị gọi sao cũng được; nhưng Ahmed vừa hỏi xong thì một sự câm
lặng đã vây phủ căn phòng, dĩ nhiên trừ giọng hát của Lata Mangeshkar vẫn vọng
ra từ khe ngực Zohra; vì ba người đàn ông này cũng chung nhau một sản
nghiệp lớn như vậy, tọa lạc tại khu công nghiệp ở ngoại ô thành phố. “Xin đừng
là cái godown, Chúa phù hộ,” Amina âm thầm cầu khẩn, bởi việc kinh
doanh reccine và vải giả da đang thuận lợi - qua Thiếu tá Zulfikar, giờ
là sĩ quan phụ tá của Sở chỉ huy Quân sự tại Delhi, Ahmed
Sinai đã ký được hợp đồng cung cấp áo giả da và khăn trải bàn không
thấm nước cho chính Quân đội - và một số lượng lớn thứ nguyên liệu mà cuộc sống
của họ trông vào được chứa ở kho hàng ấy. “Nhưng ai lại làm chuyện
đó?” Zohra rền rĩ song ca với cặp vú biết hát của mình. “Bọn điên
rồ nào lại sổng ra xã hội giữa thời buổi này?”... và đây là lần đầu tiên
Amina nghe thấy cái tên mà chồng mình giấu giếm, cái tên mà, vào thời ấy, gieo
rắc nỗi khiếp sợ cho rất nhiều người. “Đó là Ravana,”
S.P. Butt đáp... nhưng Ravana là tên con quỷ nhiều đầu; vậy thì, lẽ
nào, mặt đất này đang đầy quỷ dữ? “Chuyện vớ vẩn gì thế?” Amina, thốt lên với lòng
căm ghét mê tín dị đoan của cha mình, yêu cầu câu trả lời; và Ngài Kemal đáp
ứng. “Đó là tên một bọn cùng đồ, thưa bà; một phường những quân nghịch tặc đốt
nhà. Giờ đang là thời loạn lạc; thời loạn lạc.”

Trong godown: từng
súc từng súc vải giả da; và hàng hóa được Ngài Kemal nhập vào, gạo trà đậu lăng
- ông ta thu mua số lượng lớn trên khắp cả nước, như một hình thức phòng vệ
trước con quái vật đói khát lắm đầu nhiều mồm là quần chúng, bởi, bằng không,
với ngần ấy cái đầu, nó sẽ ép giá cả giữa thời buổi sung
túc xuống thấp (đến nỗi những thương gia một lòng kính Chúa sẽ chết đói trong
khi con quái vật béo ra... Kinh tế học tức là khan hiếm”
Ngài Kemal lập luận, “cho nên sự tích trữ của tôi không chỉ duy trì
giá cả ở mức phải chăng, mà còn củng cố chính cơ cấu kinh tế.” Và trong
kho còn có hàng dự trữ của Ngài Butt, đóng trong từng hộp các tông in
dòng chữ AAG BRAND. Tôi không cần mách các vị rằng aag nghĩa là lửa.
S.P. Butt là một nhà sản xuất diêm.

“Nguồn
tin của chúng tôi, chỉ cho biết có một đám cháy tại khu công nghiệp,” Ngài
Kemal nói. “Kho hàng chính xác chưa được xác định.”

“Nhưng
sao lại là của ta.” Ahmed Sinai hỏi. “Tại sao, ta vẫn còn thời gian
nộp tiền mà?”

“Nộp
tiền?” Amina ngắt lời. “Nộp cho ai? Nộp cái gì? Mình, Janum, cuộc
sống của em, chuyện gì xảy ra thế?”... Nhưng “Ta phải đi thôi,”
S.P. Butt nói, và Ahmed Sinai đi luôn, vẫn mặc bộ đồ ngủ
nhàu nhĩ, lẹp kẹp bổ ra khỏi nhà với ông bạn gầy và ông bạn dặt dẹo, bỏ lại món
khichri chưa đụng đũa, mấy người đàn bà mắt trợn tròn, Lata nghẹt giọng, và lơ
lửng trong không khí cái tên của Ravana… “một băng đảng những kẻ bất hảo, thưa
bà; một lũ sát nhân vô đạo và táng tận lương tâm!”


những lời run rẩy cuối cùng của S.P. Butt: “Đám hỏa
tặc Hindu khốn kiếp, Begum Sahiba. Nhưng người đạo Hồi chúng
ta làm gì được?”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3