Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 63

CHƯƠNG
63: NGƯỜI BẠN TRẦM LẶNG

Tôi thấy có thứ gì đó lướt qua trên vách núi, thân
hình thoăn thoắt, nhanh không thua gì loài khỉ vượn, chỉ thấy trước mắt hoa lên
một cái, thẩm nhủ chẳng lẽ là con khi Ba Sơn mà người nhà họ Phong thuần dưỡng,
nhưng thể hình con khỉ Ba Sơn trong hầm phòng không Thanh Khê dường như không lớn
đến vậy, chẳng lẽ trong núi Quan Tài vẫn còn sót lại “thi tiên” hay sao?

Đúng lúc này, cái bóng leo bám trên vách đá kia đột
nhiên dừng lại ở chênh chếch chỗ chúng tôi, tôi vội dụi dụi mắt, định thần nhìn
kĩ, lại càng thêm kinh ngạc bội phần. Bọn tôi đang ở giữa đoạn điểu đạo vừa chật
vừa dốc, cách chúng tôi chừng vài chục mét, có mấy cây cọc gỗ đóng trên vách
đá, dùng để đặt quan tài, con khỉ Ba Sơn đang cõng giáo sư Tôn trên lưng, dừng
lại trên đó bất động trong mưa. Một người một khỉ, cứ thế ngoái đầu lại nhìn chằm
chằm vào chúng tôi, nét mặt đơ ra như gỗ.

Tôi đoán, con khỉ Ba Sơn kia không theo bọn tôi vào
hẻm núi Quan Tài, nhưng nó có linh tính, cứ quanh quẩn ở gần đây, cảm giác được
dưới lòng đất có biến động lớn, liền một mạch vượt núi băng đèo chạy tới, đồng
thời tìm được Tôn Cửu gia trong núi Quan Tài sắp bị hủy diệt, bèn cõng lão ta
leo lên vách đá, đối mặt với chúng tôi lần nữa.

Tôi thấy Tôn Cửu gia buông thõng một cánh tay, khắp
người toàn bùn đen, gương mặt bị nước mưa xối vào trông nhợt nhạt hết sức, lão
ta không cất tiếng, nhưng tôi có cảm giác, ông chỉ muốn xem xem chúng tôi có
chuyện gì hay không, rồi sẽ lặn đi từ nay không gặp lại mọi người nữa.

Chúng tôi và Tôn Cửu gia cùng con khỉ Ba Sơn cứ nhìn
nhau từ xa trên vách đá, mấy phút liền không ai thốt lên một lời, vách đá trong
hẻm núi Quan Tài này dốc đứng, tôi muốn lại gần lão ta thêm một bước cũng không
thể.

Chuyến này, chúng tôi nhặt được mấy cái mạng ở thôn Địa
Tiên trở về, may mà mấy người đều không thương tổn gì, nghĩ lại những gì vừa trải
qua, cảm giác như vừa gặp một cơn ác mộng, đối với những chuyện đã qua, tự
nhiên cũng nhìn thoáng hơn rất nhiều, cảm thấy hành vi của Tôn Cửu gia về tình
thì chấp nhận được, nhưng về lí thì khó tha, tuy tôi và Tuyền béo ngoài miệng
nói dữ, nhưng thực tâm cũng chẳng muốn truy cứu lão ta gì nữa.

Lúc này, tận mắt trông thấy Tôn Cửu gia được con khỉ
Ba Sơn kia cứu ra khỏi núi Quan Tài, tảng đá đè trong lòng rốt cuộc cũng rơi xuống.
Chỉ thấy lão ta hình như muốn trốn đi thật xa, không biết bao giò mới gặp lại,
tôi chợt nhớ ra còn một câu thoại vẫn chưa nói với lão, bèn khum tay trước miệng,
hét về phía lão ta trong màn mưa: “Tôn Cửu gia, món nợ giữa chúng ta còn chưa
xong đâu, mong rằng ông trời phù hộ cho ông được bình an vô sự, ít nhất là cho
đến khi ông chạm mặt tôi lần nữa.” Tôn Cửu gia nghe tôi nói thế cũng không biểu
lộ gì, chỉ nhìn chằm chằm vào chúng tôi một lúc, gương mặt không còn chút sắc
máu thoáng lướt qua một nụ cười lạnh lẽo khó nhận ra, đoạn lão ta khẽ vỗ lên
vai con khỉ Ba Sơn một cái. Con khỉ hiểu ý, không buồn liếc nhìn chúng tôi thêm
lần nào nữa, vươn cánh tay tung mình bám lên vách đá, nó cõng một người trên
lưng mà vẫn có thể leo bám trên vách núi dựng đứng nghìn mét không hề khó khăn,
nhổm lên hụp xuống mấy cái đã lên càng lúc càng cao, rồi biến mất trong màn mưa
như trút.

Tôi và Tuyền béo vươn người thò ra khỏi điêu đạo,
ngước nhìn lên vách đá phía trên, chỉ thấy mưa và sương mù mờ mịt, nào còn tăm
tích của một người một khỉ ấy, trong lòng chợt thấy trống trải hoang mang, đành
rụt người vào, tiếp tục ở lại trong hốc đá tránh mưa.

Lúc này, hẻm núi Quan Tài mưa gió tơi bời, chúng tôi
không dám mạo hiểm leo bám lên vách đá ẩm ướt trơn tuột, đành kiên nhẫn đợi mưa
lớn tạnh hẳn. Núi Quan Tài nằm vắt vẻo giữa hẻm núi đã hoàn toàn sụp đổ, vỡ
thành vô số khối đá lớn, bị dòng thác cuốn xuống con sông bên dưới, giờ đang là
mùa lũ, thế nước trong núi rất mạnh, các di tích như mộ Địa Tiên, Linh Tinh điện
rơi xuống nước, lập tức bị nhấn chìm không thấy tăm hơi.

Cả bọn an một ít lương khô rồi ngồi bó gối, mỗi người
đều có tâm sự riêng, trầm mặc không nói năng gì, sau phen lao lực, cơn buồn ngủ
ập đến, bất giác, cả mấy người đều lần lượt thiếp đi.

Vùng đất Vu Sơn xưa nay vẫn nổi danh là chốn thâm u
sớm mây chiều mưa, lúc tôi tỉnh giấc, cơn mưa trong núi vẫn chưa dừng, mãi đến
sáng hôm sau, mây mới tan, mưa mới tạnh, có thể vượt núi băng đèo rời khỏi hẻm
núi Quan Tài. Dọc đường, chúng tôi chỉ hái vài quả dại trong khu rừng gần đó
lót dạ, uống chút nước suối giải khát. Chốn hoang sơn dã lãnh này chẳng có đường
đi, lúc ở trên núi trông lộ trình có vẻ không xa lắm, nhưng khi băng rừng vượt
suối, vẫn phải đi mất gần một ngày trời. Suốt cả chặng dường, bọn tôi không gặp
bóng người nào, càng không thấy tung tích Tôn Cửu gia, cũng không biết lão ta vẫn
còn nán lại trong hẻm núi hay đã chạy đến nơi nào nữa.

Tối hôm sau, chúng tôi mới đến được cổ trấn Thanh
Khê không một bóng người, vùng núi hiếm khi được ngày quang mây, không sương
không khói, chỉ thấy những vì tinh tú lấp lánh trên bầu trời đêm, sông Ngân hiện
lên rõ mồn một trước mắt. Vì cả bọn đều có vết thương trên mình, khó lòng ở lại
lâu, trời vừa sáng, chúng tôi lại lập tức ra khỏi núi theo đường sạn đạo, trước
tiên tới trạm y tế huyện Vu Sơn trị liệu, đồng thời thương lượng xem nên xử lí
Tôn Cửu gia thế nào. Tuyền béo nói, lão họ Tôn này thật đáng căm hận, phải băm
vằm lão ra mới được, nhưng cũng chớ vội làm gì, hòa thượng chạy được thì chùa vẫn
còn đó, khi nào về Bắc Kinh sẽ tới hốt ổ nhà lão, lên trời thì đuổi tới điện
Lăng Tiêu, xuống biển thì truy tới cung Thủy Tinh, dù lão có là Kim Sí Đại Bàng
bên cạnh Như Lai thì cũng phải đến Tây Thiên vặt trụi lông lão, không ăn được bữa
Mãn Hán toàn tiệc ở quán Chính Dương Cư thì không xong.

Tôi lo nhất là Tôn Cửu gia còn có mưu đồ gì khác,
trên người lão ta xảy ra rất nhiều hiện tượng kì quái khó lòng lí giải nổi,
càng suy đoán lại càng cảm thấy lão ta không phải người bình thường, thảng như
chúng tôi vô ý giúp kẻ xấu làm điều ác, thì tội này thật quá lớn, bất luận thế
nào cũng phải nghĩ cách tìm bằng được lão ta.

Có điều, tôi cảm thấy biện pháp về Bắc Kinh hốt ổ
nhà Tôn Cửu gia của Tuyền béo cũng chẳng ý nghĩa gì, xét về thủ đoạn hành sự bí
hiểm, Tôn Cửu gia này so với đám tổ tiên Đại Minh Quan Sơn thái bảo của mình
tuyệt đối chỉ hơn chứ không kém. Nếu tôi đoán không sai, trước khi cùng chúng
tôi xuất phát rời Bắc Kinh, lão ta đã hạ quyết tâm bỏ hết gia nghiệp, không trở
lại đó nửa rồi.

Ngay trong ngày, tôi và Shirley Dương ở huyện lị gọi
điện thoại đường dài về nhà giáo sư Trần ở Bắc Kinh, thử thăm dò chuyện của Tôn
Cửu gia. Quả nhiên không sai, Tôn Cửu gia đã bàn giao công việc, viện cớ bệnh tật
xin nghỉ hưu sớm về quê, cả gian nhà tập thể kia lão ta cũng trả lại nốt. Hiện
giờ, người ở Bắc Kinh cũng chỉ biết có chừng đó thông tin.

Tôi thấy việc này không có kết quả, nghĩ nhiều cũng
vô dụng, đành tạm gác lại một bên, tĩnh tâm bồi dưỡng sức khỏe. Âm khí trong mộ
cổ Ô Dương Vương và núi Quan Tài quá nặng nề, thân thể bốn người chúng tôi đều
tích tụ không ít thi độc, đầu tiên là ho sù sụ không ngừng, hô hấp khó khăn,
sau đấy còn thường nôn ra máu bầm, nán lại trong bệnh viện gần một tuần mà vẫn
chưa khỏi hẳn.

Hôm ấy, trời vừa tối, tôi nằm trên giường bệnh truyền
dịch, mơ mơ màng màng gặp phải một cơn ác mộng, tình cảnh trong mộng mờ mịt xa
xăm, dường như tôi trở lại thôn Địa Tiên trong núi Quan Tài, đi vào gian chính
của nhà cũ họ Phong, thấy trong nhà hương khói nghi ngút, trên tường treo một bức
ảnh thờ, phía trước bày một bàn thờ, trên bàn có bảy đĩa tám bát đựng các món
điểm tâm, hoa quả, cùng với ba cái đầu máu chảy ròng ròng của tam sinh trâu,
dê, lợn, phướn trắng đong đưa phơ phất, rõ ràng là minh đường của người làm nghề
sông nước.

Tôi bước tới trước ban thờ, định nhìn cho rõ xem người
trong ảnh là ai. Dưới ánh nến vàng vọt trong nhà, tôi loáng thoáng nhận ra bóng
dáng của một thiếu nữ con lai. Tôi thầm nhủ: “Đây không phải Đa Linh ư? Sao cô ấy
lại chết... ai đưa linh vị của cô ấy về thờ trong thôn Địa Tiên thế này?” Đang
kinh ngạc không hiểu chuyện gì, tôi chợt nghe trên bàn thờ vang lên tiếng ùng ục,
như thể có con lợn đang vục mõm ăn nước gạo vậy.

Tôi vội cúi đầu nhìn thử, thấy cái đầu lợn bày trên
bàn thờ không hiểu sao lại sống dậy, đang tham lam vơ vét các món điểm tâm hoa
quả cúng trên bàn, máu và nước miếng văng tứ tung, trông hết sức hung tợn đáng
sợ.

Tôi thấy thế liền nổi giận, trong lòng dấy lên một cảm
giác chán ghét khó tả, lập tức vớ lấy cán cây phướn trước bàn thờ, chọc vào cái
đầu lợn kia, chẳng ngờ cán phướn bằng giấy bồi mềm quá, hoàn toàn không dồn được
sức vào. Bất giác, tôi cuống lên, trán đầy mồ hôi, đang nóng lòng, chợt cảm thấy
vai mình bị ai đẩy đẩy mấy cái, lập tức giật mình tỉnh mộng.

Tôi trông thấy Shirley Dương và hai người kia đang ở
bên cạnh đánh thức mình dậy mới biết vừa rồi chỉ là mơ, nhưng giấc mơ này thật
hết sức kì quặc, vả lại còn vô cùng chân thực, khắp người tôi đã ướt sũng mồ
hôi lạnh. Tôi thầm cảm thấy đây là giấc mộng chẳng lành, lòng vẫn hoảng hốt
không yên.

Út tò mò hỏi tôi mơ thấy gì mà sợ đến nông nỗi này,
gặp ác mộng thì phải lập tức nói ra, chỉ cần nói ra là không linh nữa.

Tuyền béo cũng lấy làm lạ: “Nhất này, lá gan cậu xưa
nay đâu có nhỏ, cũng tại trên đời không có cây gậy đủ dài, chứ không cho cậu một
cây gậy như thế, dám cậu cũng chọc một lỗ trên trời lắm, sao mới nằm mơ một giấc
đã sợ thế này rồi?”

Tôi nói, mấy người đừng nói linh tinh, thường có câu
nghĩ gì mơ nấy, giấc mơ không phải điềm báo cát hung phúc họa gì cả. Có lẽ tại
gần đây tôi nghĩ ngợi quá nhiều về việc của Đa Linh, nên mới gặp cơn ác mộng
không đầu không đuôi như thế thôi. Nói đoạn, tôi liền kể lại những gì trông thấy
trong mơ cho họ nghe.

Cả bọn nghe xong đều có một dự cảm chẳng lành, chỉ sợ
tính mạng Đa Linh phen này khó giữ. Tuy có lỗi với lời ủy thác trước lúc lâm
chung của Nguyễn Hắc, nhưng chúng tôi đã tận lực, chung quy vẫn không tìm được
nội đơn của xác cổ nghìn năm, Đa Linh rốt cuộc sống hay chết đành trông cả vào
phúc phận của cô thôi.

Sau đấy, chúng tôi lại nói sang chuyện Đa Linh trúng
phải tà thuật Giáng Đầu của chính cha ruột mình, thật đúng là tạo hóa trêu
ngươi, ý trời khó đoán. Có điều, sự kiện ở Nam Hải nếu suy xét đến cùng, vẫn là
trách nhiệm của Tôn Cửu gia. Suốt nhiều ngày gần đây, chúng tôi không hề có
chút tin tức nào của con người này, cũng không biết lão ta đã lẩn đi đâu mất.

Tôi đoán, Tôn Cửu gia sẽ không rời khỏi khu vực
Thanh Khê, dẫu sao đây cũng là nguyên quán của lão ta, thi thể cha và anh trai
lão ta cũng ở cả nơi này, nên định khi nào thương thế hồi phục đôi phần, sẽ tiến
vào hẻm núi Quan Tài tìm kiếm lão lần nữa.

Chúng tôi đang bàn tính làm cách nào để tìm Tôn Cửu
gia, đột nhiên ngoài cửa sổ có ai ném vào một cái bọc, vật bên trong dường như
cũng không nặng lắm, phát ra một tiếng “cạch” khe khẽ, rơi xuống đất. Tuyền béo
lập tức đứng dậy ra ngoài xem, huyện lị này có hai khu vực cũ mới, bệnh viện nằm
ở rìa khu thành cổ, nhân khẩu không tập trung đông đúc, lại đang giữa mùa hạ,
không khí ẩm thấp oi bức, ban đêm tuy có đốt hương muỗi nhưng cửa sổ phòng bệnh
vẫn mở ra cho mát, bên ngoài chỉ có mấy ngọn đèn đường lẻ loi chiếu sáng, không
bóng người nào. Rốt cuộc, Tuyền béo đành đóng cửa sổ lại, đề phòng có chuyện gì
ngoài ý muốn phát sinh.

Shirley Dương nhặt cái bọc lên, mở ra xem, thấy bên
trong có mấy bó cỏ dại hình thù quái dị, ngoài ra còn một xấp giấy viết thư, miếng
long phù không mắt bằng đồng xanh kia không ngờ cũng ở bên trong. Cô cầm lấy
đưa cho tôi nói: “Chắc là Tôn Cửu gia bảo con khỉ Ba Sơn lẻn vào huyện lị đưa
thư cho chúng ta. Anh xem trong thư viết gì vậy?”

Tôi nôn nóng xem cho rõ ràng, vội vàng mở thư ra, vừa
xem vừa đọc lại cho ba người kia. Bức thư do Tôn Cửu gia tự tay viết, kí tên thật
của lão ta là “Phong Học Vũ,” văn chương lưu loát dài dòng, đại để nói lão ta tự
cảm thẩy hổ thẹn với mọi người, không còn mặt mũi nào đến gặp. Có điều, chuyện
đổ đấu ở thôn Địa Tiên núi Quan Tài lần này, toàn nhờ vào Mô Kim hiệu úy tương
trợ, tuy sau này có thể không còn gặp lại nhau nữa, nhưng có nhiều chuyện, lão
ta không thể không nói cho rõ ràng.

Trong thư, Tôn Cửu gia nói đời này mình chưa bao giờ
được thanh thản, trong lòng lúc nào cũng đè nặng một trái núi lớn, hoàn cảnh xuất
thân cùng vô số nguyên nhân nội tại và ngoại tại khác đã khiến lão ta không có
nổi một người bạn để giãi bày tâm sự, có thể tín nhiệm được, cũng chỉ có con khỉ
Ba Sơn ẩn náu trong hẻm núi Quan Tài kia. Có điều, ông bạn già này của lão ta
tuy tuyệt đối trung thành đáng tin cậy, lại rất có linh tính, nhưng dẫu sao
cũng không thể nói được tiếng người, giống như một bộ phim của Rumani có nhân vật
chính là chó săn vậy, nó vĩnh viễn chỉ là một “người bạn trầm lặng.”

Lâu dần lâu dần, Tôn Cửu gia liền hình thành nên
tính cách âm trầm lạnh lùng, trong thế giới quan của lão ta, ngoài việc của nhà
họ Phong, trong thiên hạ không còn đại sự nào đáng nói nữa. Vì ở bên ngoài mộ cổ
Địa Tiên có Cửu Tử Kinh Lăng giáp mỗi mười hai năm chỉ có mấy ngày trong năm Tý
là lúc Kinh Lăng giáp ngủ đông, người bên ngoài mới có cơ hội tiến vào núi Quan
Tài. Vì vậy, con cháu của Phong Soái Kỳ đã nhiều lần bỏ lỡ thời cơ, trung đoàn
trưởng Phong vì dọc đường nhiễm bệnh nên quá mất thời hạn, nhất thời lửa giận
công tâm, khiến hai chân bị liệt, nên mới chết trước khóa Cửu Cung Ly Hổ.

Tôn Cửu gia thấy nhân khẩu trong nhà rơi rụng dần, nếu
mùa hạ năm nav vẫn không thể tìm được lối vào thì e rằng cả đời này cũng không
còn hi vọng nào nữa. Trải qua nhiều năm bày mưu tính kế, sắp xếp chuẩn bị, cuối
cùng lão ta cũng có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa, kế hoạch tuy rất chu
đáo cẩn mật, nhưng dẫu sao cũng không thể lường hết mọi chuyện, từ lúc bắt đầu
tiến vào hẻm núi Quan Tài đã xảy ra rất nhiều chuyện lão ta không ngờ đến.

Vốn dĩ, Tôn Cửu gia đã thuộc làu “Quan Sơn chỉ mê
phú” thật sự, chỉ là lo lắng đám Mô Kim hiệu úy chúng tôi sẽ bỏ rơi lão ta, vì
vậy mới giấu giấu giếm giếm mãi, trước đó còn sắp xếp mấy tình huống, để mọi
người tiếp tục với các thông tin rời rạc nửa thật nửa giả ở những địa điểm khác
nhau, rồi thêm vào chút khổ nhục kế hòng đánh lừa dư luận, đến lúc mấu chốt mới
tự mình lần lượt chỉ ra điểm quan trọng. Kì thực, trong bài “Quan Sơn chỉ mê
phú” thật sự kia, đã bao hàm cách phá giải khóa Cửu Cung Ly Hổ rồi, trở ngại
duy nhất chính là ghép lại những mảnh vỡ của tấm bản đồ phong thủy, nhưng lão
ta không liệu trước được việc truyền nhân của Phong Oa sơn nửa đường gia nhập đội
thám hiểm, rất nhiều kế hoạch đã sắp xếp từ đầu không thể không thay đổi, dẫn đến
cục diện dần dần trở nên hỗn loạn không thể khống chế.

Điều khiến Tôn Cửu gia bất ngờ nhất là một loạt các
sự vệc xảy ra ở cầu Hách Hồn do lũ chim yến tạo thành, lão ta vốn định lợi dụng
lũ châu chấu giáp vàng mai phục trong hẻm núi để phân tán sự chú ý của mọi người,
sau đó chỉ ra đường sống, từ chỗ thác hóa thạch tụt xuống cây xà gỗ để thoát
thân.

Sở dĩ sắp xếp như vậy là vì sau khi xuống dưới hẻm
núi, sẽ tiến vào địa cung Ô Dương Vương, trước đó, lão ta cần làm một “thủ thuật”
với thân thể mình. “Thủ thuật” này, thực ra là một “yêu thuật” từ xưa truyền lại,
Quan Sơn thái bảo nhờ trộm mộ của ẩn sĩ thời cổ mà phát tích, phát hiện ra rất
nhiều thuật phù thủy, tà pháp sớm đã thất truyền cả nghìn năm nay. Trong đó có
một môn, là dùng kim châm bằng xương đâm vào não, tương truyền có thể khiến tam
muội chân hỏa trong cơ thể tắt ngấm. Vì trên cơ thể người sống luôn có ba ngọn
đèn, tượng trưng cho dương khí của người sống, độ sáng tối ba ngọn đèn này thể
hiện sự hưng vong của vận khí, phẩm đức chủ nhân, mắt thường không thể nhìn thấy
được, chỉ có ma quỷ và cương thi mới trông thấy. Đâm một cây kim bằng xương vào
huyệt vị sau gáy, có thể làm tắt ba ngọn mệnh đăng này, lúc trộm mộ có thể
tránh được chuyện gặp ma, hoặc có thi biến, nhưng một khi dùng thuật này, tuyệt
đối không thể nói với người bên cạnh, chỉ có thể tự biết, một khi nói ra, sẽ lập
tức hồn phi phách tán, lúc chết muốn làm ma cũng không xong.

Tà thuật này bắt nguồn từ đất Ba Thục cổ xưa, trên
thực tế, đây chính là tiền thân của thuật châm cứu huyệt vị, trong các bức bích
họa, nham họa lưu lại từ thời văn minh Vu Sở từng miêu tả rất kĩ lưỡng những
trường hợp tương tự. Thầy phù thủy thi triển yêu thuật, người bị kim bằng xương
đâm vào, sẽ như có quỷ thần nhập thể, lên núi đao xuống biển lửa hoàn toàn
không cảm thấy đau đớn, vì huyệt vị mũi kim đâm vào chính là trung khu thần
kinh kiểm soát cảm giác đau đớn, người cổ đại không hiểu sự kì ảo bên trong,
bèn cho rằng đấy là tà thuật.

Nhưng ở trước Long môn nơi thác đá, sự việc đã phát
triển đến mức Tôn Cửu gia không khống chế nổi nữa, lúc rơi xuống xà gỗ vắt
ngang vách núi lão ta bị đập đầu, mũi kim vừa đâm vào gáy không biết biến đâu mất,
có thể đã ngập lút vào trong đầu, cũng có thể trong lúc hỗn loạn đã bị rơi ra.
Sau khi vào địa cung Ô Dương Vương, lão ta phát hiện thần kinh của mình dần trở
nên tê liệt, cơ thể bị thi trùng cắn xé mà hoàn toàn không có cảm giác gì,
nhưng sự thể đã không còn cách nào vãn hồi, sợ rằng trong những năm còn lại,
lão ta sẽ phải làm một cái xác sống không còn tri giác. Chẳng những vậy, hễ
căng thẳng kích động quá độ, lão ta lại cảm thấy mạch máu toàn thân căng phồng
lên, phỏng chừng có thể vỡ mạch máu mà chết bất cứ lúc nào.

Tôn Cửu gia lòng dạ sắt đá, sự việc đã xảy ra rồi,
đành chấp nhận số mệnh, cũng không lấy đó làm oán hận. Lão ta trời sinh tính
tình lạnh nhạt, coi nhẹ cả mạng mình lẫn mạng người khác, có điều, bấy giờ lão
ta cũng chỉ định đơn độc một mình tiến vào thôn Địa Tiên, dựa vào bí thuật làm
tắt ba ngọn đèn sinh mệnh, lại có gương cổ Quy Khư trừ tà, chỉ cần tìm được mộ
Địa Tiên, hẳn vẫn ứng phó được.

Chẳng ngờ ma xui quỷ khiến thế nào, những dấu hiệu
thi biến trên người lão ta làm chúng tôi sinh nghi, khiến lão ta bại lộ thân phận
sớm hơn dự định. Để kịp vào thôn Địa Tiên trước khi Cửu Tử Kinh Lăng giáp phong
tỏa núi Quan Tài, dẫu biết rõ phen này có đi mà không có về, lão ta cũng đành
giở ra kế hiểm, dụ cả bọn cùng tiến vào một lượt.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3