Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 62
CHƯƠNG
62: THIÊN NỘ
Mỗi khi tôi nhớ đến miếng quẻ phù bằng đồng xanh ấy,
thảm trạng bị lôi hỏa thiêu đốt của Lão Dương Bì sau khi thi biến mười mấy năm
trước lại hiện lên rõ mồn một như vừa mới hôm qua. Thứ rêu xác kia là do xác thối
trong huyệt nhãn phong thủy chuyển hóa mà thành, nếu đã mở ra long thị, đương
nhiên cũng thuộc một dạng thi biến, những thứ rêu thịt rêu xác này cực kì âm trầm
thối nát, lửa thường không thể hủy diệt nó được, có lẽ mảnh long phù bằng đồng
xanh trong túi tôi đây, mới là cơ hội duy nhất.
Ý niệm vừa lóe lên, tôi lập tức xé toác cái túi kín
mang theo bên mình, lấy ra mảnh long phù đồng xanh, Tuyền béo ở bên cạnh hình
như cũng sực hiểu ra ý đồ của tôi, vội kêu lên: “Không được đâu, vốn đã chẳng đổ
đấu được món gì ra hồn, lại còn phải bù cả miếng quẻ phù vào nữa, tham ô lãng
phí là tội lớn lắm, buôn bán lỗ vốn tuyệt đối không nên làm...”
Tôi biết miếng bùa bằng đồng này đối với chúng tôi
có ý nghĩa không phải tầm thường, nhưng trong ba món đồ đồng xanh ở Quy Khư mà
chúng tôi có được, hai món còn lại đã bị mất hết tính đồng, chỉ còn lại miếng
long phù đứng đầu trong bốn miếng quẻ phù này, vả lại, nó còn được chôn trong động
Bách Nhãn nhiều năm, hải khí ngấm vào trong đồng không tiêu tán, sau khi cân nhắc
thiệt hơn, tôi thấy chỉ còn cách dằn lòng bỏ đi vật này mới có khả năng phá hủy
hoàn toàn thôn Địa Tiên. Đồng thời, sinh tử của bốn người chúng tôi cũng đều do
nó quyết định.
Nghĩ tới đây, tôi bèn nghiến răng, nhìn cái xác
không đầu bên dưới đã đến gần trong gang tấc, vung tay ném long phù xuống. Hải
khí bên trong chất đồng của long phù trải qua mấy nghìn năm vẫn chưa tan, chỉ
thấy rêu xác bên trong hình hài người chết khi phun nuốt khí đen, đã cuốn lấy cả
miếng long phù vào bên trong.
Gần như đồng thời, trong hẻm núi, mây đen đã che đầy
trời, tối đến mức mặt đối mặt cũng không nhìn thấy đường nét hình dáng của người
kia, một đợt sấm ì ùng vang lên trong màn mây mù mịt. Tôi biết, đây là điềm sấm
sét sắp giáng xuống, vội vàng bảo mấy người kia nằm rạp xuống đất. Tôi chưa kịp
cúi người né tránh, đã thấy một tia sét tựa như rồng uốn xẹt qua trước mắt, làm
khoảng không gian giữa hai vách núi dựng đứng bừng lên một quầng sáng chói mắt,
sấm vang sét giật ngay bên cạnh, tiếng nổ ầm ầm đinh tai nhức óc, khiến nghìn vạn
cỗ quan tài trong hẻm núi đều nhất tề rung lên bần bật.
Những người canh giữ mộ cổ Ô Dương Vương bị Quan Sơn
thái bảo Phong Soái Cổ giam cầm, từng giúp ông ta suy đoán thiên cơ, cuối cùng ứng
nghiệm như thần, núi Quan Tài đã bị cơn lũ cuốn từ lòng đất ra đến hẻm núi lớn
bên ngoài, nằm lơ lửng vắt ngang trên dòng sông cuốn cuộn gào thét, vô số thi
tiên trong núi thừa cơ thoát ra ngoài, hoàn toàn ứng hợp với tượng “phá sơn xuất
sát” miêu tả trong điềm trời.
Chúng tôi bị vây khốn trên vách đá trong hẻm núi,
không còn đường thoát, trong lúc tuyệt vọng đã chụp được một cọng rơm cứu mạng.
Nói không chừng, đồ đồng xanh ở Quy Khư lại có thể xoay chuyển càn khôn, mấy
món quẻ phù, gương đồng ấy đều là bí khí phong thủy từ thời thượng cổ, ngoài
tác dụng chiêm nghiệm phong thủy, quẻ tượng ra, hải khí ẩn giấu bên trong chát
đồng cũng là thứ phi phàm.
Năm xưa, Lão Dương Bì mất mạng trên thảo nguyên Mông
Cổ, trước lúc lâm chung đã lén lút nuốt quẻ phù vào bụng, khiến lũ hoàng bì tử
đào huyệt trộm xác, lại thần xui quỷ khiến thế nào bị chúng tôi đào lên, cuối
cùng thì bị sét đánh, thi thể Lão Dương Bì và con chồn lông vàng đến trộm quẻ
phù đều bị lôi hỏa giáng trúng, cháy thành một đống than.
Đáng tiếc, người xưa đã khuất, tôi vĩnh viễn không
thể biết được dụng ý thật sự của Lão Dương Bì nữa, nhiều năm sau đó, tôi lại từ
chỗ lão Trần mù và Tôn Cửu gia ít nhiều nghe được chút thông tin, dựa vào đó
suy đoán, có thể thấy năm xưa Lão Dương Bì quả thật có ý đồ quá phận. Từ xưa,
lão đã nghe nói long phù không mắt là bí khí phong thủy, toan chiếm lấy làm của
riêng sau khi chết hòng giúp con cháu đời sau được phát vượng, nên mới sắp xếp
ra chuyện quái đản như khỏa thân chôn chổng đầu xuống đất như thế. Chỉ là, lão
không biết hành vi ấy rất dễ bị trời trừng phạt, cuối cùng phải nhận lấy kết cục
“mưu mô vô dụng, quỷ kế thành không.”
Trước khi tìm thấy di thể của trung đoàn trưởng
Phong trong hẻm núi Quan Tài, tôi từng trông thấy trong quan tài treo trên vách
đá có xác của một ẩn sĩ không bị thối rữa, cái xác ấy vẫn còn nguyên cả râu
tóc, thần thái y như lúc sống, thoạt nhìn toát lên vẻ tiên phong đạo cốt, hoàn
toàn không giống xác cổ nghìn năm, có lẽ là cương thi từ thời cổ đại còn lưu tồn
đến ngày nay. Bấy giờ, tôi đang chuẩn bị sử dụng quẻ phù và gương cổ suy đoán
phương vị của mộ cổ Địa Tiên ngay cạnh cỗ quan tài treo ấy, kết quả khiến gần
đó giáng xuống một trận sấm sét ì ùng, làm cả bọn kinh hãi một phen.
Trải qua hai trường hợp như vậy, khiến tôi lờ mờ có
cảm giác miếng long phù bằng đồng xanh này còn ẩn giấu rất nhiều bí mật, đây có
thể là một miếng “lôi phù.”Kì thực, khi xác khô thi biến, trong xác có rất nhiều
khí ác cực âm, gặp phải dương khí ở thế giới bên ngoài sẽ nảy sinh hiện tượng
âm dương va chạm, lại được luồng khí hỗn độn mờ mịt bất minh trong đồ đồng xanh
ở Quy Khư kia hấp dẫn, liền gây ra phóng điện ở tầng mây thấp, sản sinh sấm sét
trong thời gian cực ngắn.
Người cổ đại tin vào câu chuyện thần thoại “ở trong
Lôi trạch có Lôi thần, đầu rồng mình người, vỗ bụng thành sấm,” ngỡ rằng sấm
sét lôi điện đánh người phá nhà là do trời cao nổi giận, trừng phạt con người.
Đến thời Hán, người ta bắt đầu dùng lí luận hai khí âm dương tác động lẫn nhau
để giải thích hiện tượng sấm sét, đưa ra quan điểm “âm dương kề nhau, cảm thành
sấm, kích thành sét,” có nghĩa là, âm khí và dương khí tiếp xúc, phát sinh chấn
động sẽ hình thành sấm, khi chấn động kịch liệt sẽ hình chành sét giáng xuống.
Mặc dù tôi cũng từng có ý nghĩ này, nhưng không thể
xác định sự tình thực hư, lúc này đã rơi vào đường cùng, không còn phương cách
nào khác nữa, khó khăn lắm tôi mới nghĩ ra được một cách, trong đầu chỉ còn ý
nghĩ trời không tuyệt đường người, tâm trạng đâu mà xem xét nó có khả thi hay
không, lập tức cầm miếng long phù nhắm vào đống rêu xác kia ném tới, vừa khéo
rơi đúng vào cổ cái xác không đầu của Phong Soái Cổ.
Ai ngờ thi khí trong núi Quan Tài kia quá nặng nề,
trong đạo phong thủy gọi là “phá sơn thấu huyệt, quần long kinh chập,” là điềm
cực hung, lập tức khiến trong hẻm núi sâu này xuất hiện sấm sét. Sấm sét này
không phát ra từ tầng mây trên cao, mà lại nảy sinh trong màn sương đen dưới
đáy hẻm núi, chỗ tiếp giáp với mặt nước.
Thường có câu, “sấm đánh không kịp bưng tai,” sấm
sét trong hẻm núi bảo đến là đến, trong tiếng sấm ì ùng lúc đấu, bốn bề vẫn còn
tối như hũ nút, nhưng khi một tia chớp hình cành cây chĩa nhánh vạch ngang hẻm
núi tựa như rồng thần thoạt hiện, ánh điện quang chói mắt lập tức chiếu sáng bừng
cả vách đá lên.
Điểu đạo nơi chúng tôi náu mình cực kì dốc và chật hẹp,
đa phần không rộng quá một thước, khi tia sét lướt qua bên cạnh, tôi còn chưa kịp
rạp người né tránh, tranh thủ ánh sáng lóe lên trong chớp mắt ấy, có thể nhìn
thấy bốn phía xung quanh đều phủ đầy rêu xác. Thi thể của vô số người chết
trong thôn Địa Tiên hầu hết đều đã bị xé toạc hình hài, bên trong lộ ra từng mảng
rêu xác đen kịt nhu động, hình thái thiên kì bách quái, nhầy nhụa máu tươi bám
lên vách đá, chen chúc lúc nhúc bò lên cao.
Tia sét tựa như con rồng lướt qua bầu không kia lóc
lên rồi vụt tắt, hẻm núi Quan Tài lại chìm vào màn sương đen mù mịt mênh mang,
không gian trong hẻm núi từ tối tăm chuyển sáng rồi lại chìm vào bóng đêm chỉ
trong một cái chớp mắt, hai mắt tôi bị ánh chớp làm lóa, chưa kịp chớp chớp đã
nghe tiếng sấm nổ ùng ùng, tiếng vang còn chưa dứt, dưới đáy khe núi tăm tối bỗng
bùng lên vô số quả cầu lửa, tất cả đám rêu xác đều bị lôi hỏa giáng trúng, dường
như mảng thi khí mù mịt như sương ở xung quanh cũng bùng cháy, thiêu đốt cả
không khí.
Lôi hỏa lan ra cả hai vách núi ké bên núi Quan Tài,
tựa một cơn lốc xoáy vừa nóng bỏng dị thường lại vừa lạnh buốt thấu xương cuốn
lấy, tôi nằm mơ cũng không thể ngờ mình lại gây nên biến động lớn chừng này, chỉ
thấy những mảng rêu xác lớn nhỏ xung quanh đều bị cầu lửa bao bọc, không ngừng
vùng vẫy rơi khỏi vách đá dựng đứng, bèn vội vàng nằm rạp xuống né tránh. Lúc
này, không biết có phải tai bị ong ong vì tiếng sấm hay không, mà tôi lại nghe
thấy trong hẻm núi dường như toàn những tiếng gào rít thê thiết dị thường.
Trong lí luận thông thường của thuật phong thủy
thanh ô, vẫn cho rằng lửa trên thế gian ngoài quỷ hỏa thần bí ra, còn ba loại lửa
khác nữa, lần lượt là nhân hỏa, long hỏa và thiên hỏa. Long hỏa có thể cháy
trong nước, nhân hỏa là thứ lửa bình thường khi đốt củi đốt than; còn thiên hỏa
tức là lôi hỏa, hay còn gọi là hận thế hỏa, nếu đức hạnh của người đời suy đồi
bại hoại, hoặc có hiện tượng vật già hóa tinh hóa quái, sẽ rất dễ bị lôi hỏa
giáng xuống. Dân gian cho rằng, đó là Lôi thần mở mắt, chuyên tru diệt yêu tà
gian ác, kì thực, đó chính là dị biến của “khí” trong bốn yếu tố phong thủy “hình,
thế, lí, khí.” Dị biến dẫn đến thiên địa mất cân bằng, mới khiến trong tầng mây
có lôi điện giao kích.
Trong không khí nồng nặc mùi ô zôn tanh tanh, cùng với
mùi hôi thối khi đốt xác chết, làm chúng tôi cơ hồ tắc thở, hai mắt tối sầm lại.
Bốn người chúng tôi vội đeo mặt nạ phòng độc, nằm rạp người xuống không dám
nhúc nhích, cũng may quần áo mặc trên người đều bằng chất vải chịu nước chịu lửa,
lại thêm mặt nạ phòng độc ngăn cách hơi thở của người sống với bên ngoài nên mới
may mắn thoát nạn, bằng không chỉ trong giây lát, cả bọn đã bị lôi hỏa thiêu chết
trong hẻm núi Quan Tài này rồi.
Bốn người đều kinh hồn táng đởm, không biết đã bao
lâu trôi qua, tôi nhìn qua lỗ quan sát của mặt nạ phòng độc, chỉ thấy màn sương
thi khí bị lôi hỏa thiêu đốt đã tan hết, ánh mặt trời lại chiếu rọi xuống hẻm
núi sâu, vô số muội than đen kịt bay khắp trời, vẫn còn một vài đốm lửa chưa tắt
hẳn. Xem chừng kiếp nạn đã qua, bấy giờ tôi mới cởi bỏ mặt nạ phòng độc, một luồng
gió núi lành lạnh ùa tới, tuy rằng mùi cháy khét nồng nặc trong không khí vẫn
chưa tan hết, nhưng cảm giác bức bối khó chịu nơi lồng ngực đã lập tức bớt đi
phần nhiều.
Mọi người trên vách đá đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy
trong tầm mắt toàn những cảnh tượng ghê hồn khiếp vía, sau phen chết hụt, càng
khiến người ta thổn thức không thôi. Thôn Địa Tiên trong núi Quan Tài bị lôi hỏa
giáng xuống, mưu đồ phá sơn xuất sát của Địa Tiên Phong Soái Cổ tựa như băng chảy
mây tan, trong khoảnh khắc đã thành tro bụi. Vệt nắng trên đỉnh hẻm núi lại hiển
lộ, ngoài những vết tích cháy đầy vách đá, không còn xác chết nào nữa, chỉ có
vô số mảng muội than đen kịt sót lại sau khi lôi hỏa thiêu đốt thi hài dập dờn
phiêu đãng trong làn gió núi, như một trận tuyết đen giăng giăng khắp bầu trời
trong hẻm núi.
Trong núi Quan Tài gác nghiêng lên hai vách núi đá, “ván
quan tài” ở bốn phía xung quanh đã bắt đầu rạn nứt đổ vỡ, địa mạch Bàn Cổ và
thôn Địa Tiên trong núi đều bị nước lửa hủy hoại sạch trơn, trong đống bùn nước
nhầy nhão chỉ còn lại một đống gạch ngói tan hoang, ngọc thạch bên trong và
nham thạch vỡ vụn, những khối đá, mảng ngói vỡ không ngừng rơi xuống dòng nước
bên dưới.
Điều khiến người ta bất ngờ nhất là, thôn Địa Tiên quả
nhiên đã ứng với điềm “phá sơn xuất sát,” sự việc đã định sẵn trong mệnh trời rốt
cuộc vẫn xảy ra, đây là kết quả chân thực mà những người bảo vệ lăng mộ Ô Dương
Vương dùng quẻ cổ suy diễn cho Phong Soái Cổ, nhưng trong quẻ tượng này lại ẩn
giấu lời nguyền ác độc của bọn họ.
Ngay cả bậc kì nhân có dị thuật thông thiên như
Phong Soái Cổ cũng không phát giác được bên trong quẻ tượng này lại chôn giấu
huyền cơ, những người bảo vệ lăng mộ bị Quan Sơn thái bảo dùng cực hình hành hạ
ấy chỉ tính ra “phá sơn xuất sát” là điểm triệu cuối cùng của thiên tượng,
nhưng lại giấu đi kết quả sẽ xuất hiện ngay sau đó, khiến thôn Địa Tiên mà
Phong Soái Cổ dốc hết tâm cơ xây dựng cuối cùng bị hủy bởi lôi hỏa.
Trải qua những sự việc này, khiến chúng tôi không thể
không tin, trong một cõi nào đó, đích thực có thiên ý sắp đặt. Kì thực, các bậc
tiên hiền cổ đại sớm đã nói rõ đạo lí này: “U thâm vi diệu, ấy là cơ trời; tạo
hóa biến dịch, ấy là lẽ trời; đem thiên lí ứng với người, ấy là phải; tiết lộ
thiên cơ để mê hoặc người, trời ắt trừng phạt.”
Có thể dùng nguyên lí biến hóa của trời đất để chỉ dẫn
cho mọi người, như vậy mới có thể sinh sôi không ngừng, khoan hậu bao dung;
nhưng thiên cơ vi diệu sâu xa, phàm phu tục tử ở cõi thế tục không nên trộm ngó
bí mật trong đó, bằng không ắt sẽ dẫn đến tai họa, hại mình hại người. Có lẽ
thuật luyện đơn tu tiên, chưa chắc chỉ là kì thuật trong truyền thuyết, nhưng cần
phải có tấm lòng phẳng lặng, không muốn không cầu, luyện tập lâu dài sẽ có thể
cường gân kiện cốt, diên niên ích thọ. Tiếc rằng Địa Tiên Phong Soái Cổ kia vốn
là kẻ tuyệt thế kì tài, nhưng lại mê muội với pháp môn cứu thế độ người, còn ấp
ủ những ý nghĩ ngông cuồng trái phận, bức ép những người dân còn sót lại từ thời
kìÔ Dương Vương suy tính thiên cơ, ý đồ luyện ra thi tiên kết quả bị bọn họ lừa
gạt đến nỗi tự châm lửa thiêu mình, nhân lấy kết cục tan thành tro bụi.
Hẻm núi Quan Tài này mây mưa vô thường, trời vừa mới
quang, đột nhiên lại có mây mù tụ hợp, thoáng cái đã thấy mưa to như trút sầm sập
đổ xuống, rửa hết những bụi tro bay lơ lửng trên không trung. Chúng tôi bị mưa
xối cho toàn thân ướt sũng, lập tức cảm thấy xương cốt rã rời, ba vạn sáu nghìn
lỗ chân lông từ trên xuống dưới thảy đều đau nhức, đành nán lại trong hốc đá đặt
quan tài treo trên lưng chừng vách đá nghỉ ngơi cho lại sức.
Mọi người tuy mệt mỏi rã rời, nhưng cả bọn sống sót
qua kiếp nạn, lại được nhìn thấy ánh mặt trời, mà thứ đặc sản “thi tiên” của
núi Quan Tài cũng bị hủy diệt, ai nầy đều lấy làm vui mừng.
Tôi và Tuyền béo nhắc lại chuyện bị Tôn Cửu gia dụ đến
núi Quan Tài đổ đấu, coi như một cú va vấp, cả chuyến đi này hoàn toàn bị người
ta lợi dụng làm tay đấm. Trong địa mạch Bàn Cổ tuy có thi đơn, nhưng lại không
phải thứ nội đơn có thể cứu mạng Đa Linh, hai thứ này hoàn toàn khác nhau; vả lại,
cuối cùng Tôn Cửu gia vẫn không rõ tăm tích, muốn tìm lão ta hỏi tội cũng khó.
Nhưng phen này có thể an toàn trở ra, không bị mất chân cụt tay, cũng coi như
là tổ sư gia hiển linh, khí số của Mô Kim hiệu úy chúng tôi chưa tuyệt rồi.
Hai chúng tôi càng nói càng phẫn hận, nước bọt bắn
tung tóe, những lời ác độc có thể nghĩ được đều tuôn ra hét một lượt, bây giờ
thôn Địa Tiên đã không còn tồn tại nữa, nếu Tôn Cửu gia có mặt ở đây lúc này,
không khéo chúng tôi ăn tươi nuốt sống lão ta tại chỗ cũng nên.
Út không hề biết chuyện đi Nam Hải mò ngọc, cũng
không hiểu tại sao chúng tôi lại cáu tiết lên như thế, chỉ cảm thấy đi một vòng
trong huyệt mộ của Phong Soái Cổ mà vẫn còn sống sót trở ra đã coi như niềm vui
bất ngờ rồi, bèn lên tiếng hỏi rõ đều đuôi câu chuyện.
Tuyền béo lập tức gập ngón tay đếm ra mười tội lớn của
Tôn Cửu gia, đến cả vấn đề tác phong năm xưa cũng tính vào, đương nhiên chuyện
này chỉ là cậu ta nghe hơi nồi chõ thôi. Nghe nói, năm xưa khi Tôn Cửu gia vừa
từ nông trường cải tạo lao động về, đã lợi dụng cơ hội tham gia công tác khảo cổ
tại hiện trường lén lút quan hệ với nữ chủ nhà, kết quả bị nông dân trong thôn
bắt được quả tang. Thời bấy giờ, đó là chuyện lớn tày đình, lão ta bị tẩn cho một
trận tại chỗ, nếu không phải có các đồng nghiệp nói đỡ thì đã bị dân làng bắt
trói giải đến công an rồi.
Về sau, tổ chức yêu cầu Tôn Cửu gia viết kiểm điểm,
lão ta lại giảo biện nói rằng mình và người đàn bà nông thôn kia không hề có vấn
đề về mặt tác phong. Sự việc lúc ấy hết sức đặc thù, vì bấy giờ ở nông thôn
toàn nhà bằng gạch mộc, nhiều rận vô cùng, chúng nhảy lên khắp người, lão ta và
bà chủ nhà ban đêm rảnh rỗi không có việc gì làm, bèn ngồi trên giường lột hết
quần áo ra bắt rận cho nhau, ngoài ra không làm bất cứ điều gì khác. Thái độ của
Tôn Cửu gia trước sự việc này cực kì ngoan cố, nhất quyết không chịu thừa nhận
chân tướng, khai ra sự thật.
Tuyền béo còn nói, Tôn Cửu gia chính là loại người
như vậy, len lỏi vào kẽ hở của công cuộc cải cách mở cửa, chấn hưng kinh tế,
còn kiếm được cái học hàm giáo sư rởm, kì thực đằng sau lớp vỏ bọc ấy vẫn còn
không biết bao nhiêu tội ác phản động chưa lộ ra, hạng người này lẽ ra phải xử
bắn bảy tám chín mười lần mới thỏa lòng thỏa dạ được. Cậu ta vốn đã chướng mắt
giáo sư Tôn từ trước, lúc này mồm mép trơn tuột, bịa tạc lung tung bao nhiêu tội
ác xấu xa có thể tưởng tượng được đều áp cả lên người lão ta.
Tuyền béo càng nói càng chẳng ra sao, Shirley Dương
và Út đều lắc đầu không tin. Shirley Dương nói: “Giáo sư Tôn không thể nào là
gián điệp của Cục Tình báo Trung ương Mỹ được, nhưng ông ta là hậu duệ của Quan
Sơn thái bảo, cũng không phải người làm công tác khảo cổ thông thường. Thân phận
chuyên gia giải đọc long cốt, có lẽ đúng là một lớp ngụy trang của ông ta. Việc
mà cả đời này ông ta muốn làm, e rằng chỉ có mỗi chuyện vào thôn Địa Tiên tìm
Phong Soái Cổ thôi, tính cách kiên nhẫn tàn khốc cơ hồ đã đến mức biến thái,
người bình thường căn bản không thể làm nổi, chuyện này hẳn bắt nguồn từ những
gì ông ta phải trải qua trong quá khứ. Việc đã đến nước này rồi, các anh có hận
ông ta mấy cũng vô dụng, nghe tôi khuyên một câu, tha được cho người ta thì hãy
tha đi.”
Tôi nhắc lại lời Shirley Dương: “Tha được cho người
ta thì tha, nhưng Tôn Cửu gia... lão ta có phải là người không? Trên người lão
ta có dấu vết bị thi trùng cắn xé, vai bị Cửu Tử Kinh Lăng giáp xuyên qua mà vẫn
như không, thi tiên căn bản không cảm giác được sự tồn tại của lão ta, thứ hư
vô như cái bóng ấy, rốt cuộc là gì đây?”
Bọn tôi vừa băng bó vết thương, vừa thấp giọng bàn
luận những dấu hiệu khó thể tin nói xuất hiện trên người Tôn Cửu gia, nhưng trước
sau vẫn không nắm được điểm mấu chốt, không ai nhìn thấu nổi bí mật của hậu duệ
cuối cùng nhà họ Phong. Đang lúc chuyện trò, chợt thấy một cái bóng to tướng lướt
qua vách đá sát bên, cả bọn thảy đều kinh ngạc, trong chớp mắt chỉ thấy vật thể
ấy to đến lạ thường, trên người khoác áo bào đen, leo bám trên vách đá dựng đứng
mà như đi trên đất bằng, bóng lưng lao vút qua màn sương mù nhanh nhẹn tuyệt
luân, đến mức khiến người ta khó mà tưởng tượng nổi.