Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 64
CHƯƠNG
64: CỬU TỬ HOÀN HỒN THẢO
Sự việc phát triển đến bước này, từ lâu đã vượt khỏi
phạm vi dự tính mà Tôn Cửu gia có thể tưởng tượng được, lão ta càng không ngờ
những hành vi của mình đều bị Phong Soái Cổ tính toán ra từ lúc còn sống, lòng
không khỏi nguội lạnh như nắm tro tàn, cứ tưởng thi tiên trong mộ ắt hẳn sẽ
thoát ra ngoài núi, gây nên một trận ôn dịch quy mô lớn. Bất kể trong tai kiếp
đó có bao nhiêu người chết, tội nghiệt cuối cùng đều tính do lão ta gây nên, đến
khi xuống suối vàng cũng hổ thẹn với liệt tổ liệt tông, tinh thần lão ta cơ hồ
rơi vào trạng thái suy sụp.
Chẳng ngờ vào lúc cùng đường tận lối lại có bước ngoặt,
đây có lẽ cũng chính là “ông trời có mắt.” Có câu “bọ ngựa bắt ve, sẻ vàng nấp
sau,” không chỉ đám người vào núi đổ đấu chúng tôi, mà ngay cả Địa Tiên Phong
Soái Cổ cũng bị ăn quả lừa của những người bảo vệ lăng mộ Ô Dương Vương năm
xưa, có thể nói, Quan Sơn thái bảo và Mô Kim hiệu úy đều không bì nổi với tâm kế
sâu xa độc địa của những người bảo vệ bí mật núi Quan Tài kia, nghĩ lại thật
khiến người ta dựng hết cả tóc gáy.
Điểm trời mà những người bị giam cầm ấy suy diễn ra
trước lúc chết là núi Quan Tài sau khi rời khỏi lòng đất, cuối bùng bị lôi hỏa
thiêu hủy, người chết trong thôn Địa Tiên đều bị thiêu rụi không còn cả tro
than, cơ hồ tất cả những chuyện ấy đều đã được định sẵn trong cõi xa xăm rồi, mọi
si tâm vọng tưởng của thế gian, chẳng qua chỉ là một màn mây khói lướt qua mắt
mà thôi.
Tôn Cửu gia lúc đó ngã xuống khỏi vách đá, rơi vào đống
người chết trong núi Quan Tài, trong bóng tối mờ mịt may mà không đụng phải tảng
đá tan thây nát thịt, sau đó sấm sét nổi lên trong hẻm núi, thôn Địa Tiên chìm
trong ngọn lửa. Tôn Cửu gia lúc này chẳng phải người cũng chẳng phải ma, tránh
khỏi đợt sấm sét, lại được con khỉ Ba Sơn nghe tiếng mò đến cứu viện, đã băng
qua vách núi dựng đứng đào tẩu giữa trời mưa như trút.
Sau đó, trong thư lại nhắc đến, gương cổ Quy Khư là
vật báu cổ đại, không thể vì hải khí tiêu tán mà hỏng mất. Trong một khu nhà
phía Tây thành Bắc Kinh có một cái giếng khô bỏ hoang, trong đó có giấu một số
thứ, có thể dựa theo bản đồ trong thư để tìm đến đào lên, sau đó đem vật ấy phụ
trợ với hình khắc ở mặt sau tấm gương đồng, nói không chừng có thể tìm được quẻ
cổ Chu Thiên thất truyền đã lâu.
Tôn Cửu gia xuất thân thế gia, tuy rằng các ngón nghề
của tổ tiên Đại Minh Quan Sơn thái bảo có mười phần, lão ta cũng chưa học hết một,
nhưng từ nhỏ lão đã biết các loại chữ triện Trùng Ngư cổ, kí hiệu cổ, sau khi
được phóng thích khỏi nông trường cải tạo lao động Quả Viên Câu, hồi phục công
tác lại quanh năm nghiên cứu Long cốt thiên thư thời kì Hạ Thương Chu, tiếp xúc
với rất nhiều bản khắc trên giáp cốt và đồ cổ đồng xanh. Có điều, tâm tư lão ta
không đặt vào công việc, đồng thời không thể xử lí tốt quan hệ với những người
xung quanh, nên thường xuyên bị một số nhân sĩ có quyền lực chèn ép, xưa nay
chưa hề có cơ hội ngóc đầu.
Vì vậy mặc dù có được một số thành quả, nhưng Tôn Cửu
gia đều lần lữa không báo lên cấp trên mà âm thầm giấu đi để nghiên cứu, ngày
tháng tích lũy, quy mô nghiên cứu đã tương đối khả quan. Quẻ cổ Chu Thiên,
chính là mấu chốt của âm dương, là quỹ tích của thiên địa, tuyệt đối không thể
dựa vào mấy quẻ đồ và chữ triện cổ vụn vặt mà dễ dàng phá giải toàn diện được.
Từ khi có được tấm gương cổ Quy Khư, Tôn Cửu gia
phát hiện quẻ đồ trên mặt sau tấm gương này ảo diệu vô cùng, nếu có thời gian
dông dài, kết hợp với thành quả nghiên cứu quẻ cổ Chu Thiên của lão, không chừng
có thể khiến toàn quẻ Chu Thiên tuyệt tích đã lâu tái hiện lại trên thế gian.
Nhưng so với quẻ cổ Chu Thiên đã thất truyền cả
nghìn năm, Tôn Cửu gia còn có việc quan trọng hơn cần làm. Thời cơ mười hai năm
một lần đã tới, việc trong mộ cổ Địa Tiên đã vô cùng cấp bách, không cho phép
lão ta hao phí thêm bảy tám năm thời gian nghiên cứu Thập lục tự thiên quẻ. Khi
ấy, lão ta lại có ý định mang theo gương cổ vào trong mộ trấn áp thi tiên, nên
đành đem hết tư liệu nghiên cứu và các quẻ đồ, quẻ tượng mình thu thập được
chôn trong đường hầm dưới đáy giếng khô.
Năm 1971, cả nước Trung Quốc đều sôi sục chuẩn bị
chiến tranh, đề phòng mất mùa, triển khai rộng rãi phong trào đào hầm sâu, trữ
lương nhiều. Bấy giờ, Bắc Kinh cũng tiến hành mở rộng hệ thống công trình phòng
thủ dưới đất, cái giếng khô giấu đồ ấy thông với một đoạn đường hầm đã bị bít
kín bỏ hoang. Trong thư, Tôn Cửu gia có vẽ một bản đồ sơ lược, đánh dấu vị trí
và các lối vào, lão ta hi vọng chúng tôi về Bắc Kinh có thể đào những thứ ấy
lên, sau này có cơ duyên, họa may có nắm được toàn bộ quẻ cổ Chu Thiên, coi như
là một sự bồi thường và báo đáp của lão ta.
Sau đó, lão ta lại viết, gửi kèm theo thư này còn có
mấy món đồ, một là miếng long phù bằng đồng xanh bị thất lạc trong hẻm núi Quan
Tài, mộ cổ thôn Địa Tiên bị lôi hỏa thiêu đốt, có lẽ vì hải khí trong miếng
Long phù này quá thịnh, cũng có thể do hình thế phong thủy trong địa mạch Bàn Cổ
ở núi Quan Tài biến động quá lớn, nhưng bất kể vì lí do gì, hai miếng bùa và một
tấm gương cổ mang từ Bắc Kinh tới đây, rốt cuộc vẫn giữ được không tổn hại chút
nào.
Ngoài ra, núi Quan Tài là chốn cấm địa tế tự của các
thầy mo thời cổ đại, âm khí bên trong hết sức nặng nề, mộ cổ Ô Dương Vương ở chỗ
địa mạch hình đầu xác chết cũng thuộc loại này, tuy chúng tôi đã có mặt nạ
phòng độc bảo hộ song vẫn khó thể chu toàn, những phần da lộ ra ngoài cũng có
thể nhiễm phải khí độc thối rữa hủ hóa, vì vậy, trên người cả bọn sẽ lần lượt
xuất hiện các đốm đen và vết tụ huyết, sau đó còn nôn máu, ho ra đờm đen, tuy
không mất mạng, nhưng về lâu về dài vẫn sẽ để lại mầm bệnh khó dứt trong cơ thể.
Bởi thế, trong bao lão ta có gửi kèm mấy bó Cửu tử
hoàn hồn thảo, tên khoa học gọi là Herba Selaginellac, vật này chuyên mọc ở nơi
thâm sơn cùng cốc, khi không đủ dinh dưỡng và nước, nó sẽ khô quắt lại ở trạng
thái chết giả, toàn bộ sự trao đổi chất trong tế bào đều ngừng lại, nhưng không
lâu sau lại có thể hoàn hồn tái sinh, vì vậy mới gọi là Cửu tử hoàn hồn thảo,
trong dân gian cũng hay gọi là “trường sinh bất tử thảo” hoặc “Thiên nhiên thảo,”
dùng bên ngoài có thể thay thuốc cầm máu trị thương, uống vào có thể tiêu ứ trừ
độc, hóa giải khí âm đã bám vào tận xương tủy. Tôn Cửu gia dặn chúng tôi đến tiệm
thuốc trong huyện lị mua mấy vị thuổc Nam dùng để tiêu đờm giải độc như thịt cá
sấu khô, đem mấy bó Trường sinh bất tử thảo đốt thành tro, rồi trộn lẫn liên tục
uống trong ba ngày, có thể triệt để trừ hết mầm bệnh trong người. Trước đây,
trên vách đá ở hẻm núi Quan Tài mọc rất nhiều loại cỏ này, đều là thứ chín rễ
chín lá, không phải tầm thường, nhưng giờ thì không dễ gì gặp được nữa, mấy bó
này tuy ít, nhưng cũng đủ cho năm sáu người dùng.
Cuối cùng, Tôn Cửu gia viết trong thư rằng: “Giờ nợ
nần của chúng ta coi như đã dứt, tôi không còn lưu luyến gì với thế giới bên
ngoài nữa, vả lại sau khi kim xương đâm vào não, thần hồn sẽ tan biến, chết rồi
sợ rằng muốn làm ma cũng không được. Thời gian còn lại của tôi không nhiều, sau
khi an táng di thể của cha và anh trai, tôi sẽ ở lại hẻm núi Quan Tài này chờ
chết, không muốn gặp người ngoài nữa, khi các cô các cậu đọc được phong thư
này, có thế xác tôi đã lạnh, được con khỉ Ba Sơn mai táng ở một nơi bí mật nào
đó rồi. Khu vực hẻm núi Quan Tài này toàn núi cao chót vót, vách đá ngất ngưởng,
dẫu có chôn vùi đại quân mấy chục vạn người cũng không có manh mối đâu mà tìm,
vì vậy các cô các cậu khỏi uổng phí tâm sức vào núi tìm tôi nữa, cũng xin các
cô các cậu chớ nên tiết lộ chuyện của tôi với bất cứ người nào khác.”
Chúng tôi đọc xong bức thư con khỉ Ba Sơn đưa tới,
trong lòng bán tín bán nghi, từ lúc trải qua sự kiện thôn Địa Tiên, cách nhìn của
mọi người đối với Tôn Cửu gia đã thay đổi hoàn toàn. Trước đây, chúng tôi cảm
thấy con người này chẳng qua chỉ là một chuyên gia về văn tự cổ lắm tư tâm,
tính tình gàn bướng ngang ngược, lại quá khích cực đoan bất cận nhân tình,
nhưng sau khi sự việc xảy ra, nghĩ lại mới thấy Tôn Lão Cửu này chẳng những
thân thế đặc thù, hơn nữa còn rất giỏi ẩn mình, là một nhân vật thông minh tuyệt
đỉnh, đúng như câu “đại tượng vô hình, đại trí giả ngu.” Không biết có phải do
di truyền từ tổ tiên Quan Sơn thái bảo nhà lão ta hay không mà tác phong hành sự
của người này hoàn toàn không để lộ ra dấu vết gì, đến thần tiên cũng khó lòng
đoán thấu được.
Chúng tôi tự phụ là người kiến thức quảng bác, lịch
duyệt phi phàm, vậy mà đều bị Tôn Cửu gia này qua mặt, trước khi tiến vào núi
Quan Tài, chẳng ai phá được lớp vỏ ngụy trang của lão ta. Thật đúng như trong
cuốn Mặt dày tâm đen có viết “tâm đen mà vô sắc, mặt dày mà vô hình” thử hỏi
người phàm mắt thịt làm sao nhìn thấu được chứ? Đây chính là chỗ cao minh của
Tôn Cửu gia.
Nếu cứ như lão nông Hương Cảng Minh Thúc kia còn đỡ,
bề ngoài có vẻ tinh minh giảo hoạt, nhưng cảnh giới quá thấp, còn chưa mở miệng,
người ta biết lão là kẻ không đáng tin cậy, cứ thế thì ai còn tin lão? Phàm gặp
chuyện gì, cũng đều không thể bị loại người như Minh Thúc che mắt. Tôi thấy, so
với Tôn Cửu gia thâm tàng bất lộ kia, Tiểu Gia Cát Minh Thúc thật tình có thế
coi như một người thực thà trung hậu.
Út vốn là người bản địa, nhận biết được tính chất của
thảo dược, cô nói, loại Cửu tử hoàn hồn thảo mọc ở hẻm núi Quan Tài nay đã gần
như tuyệt tích, có được mấy bó này là quý lắm rồi, đích thực có thể hóa giải chất
độc trong cơ thể. Tôi vẫn chưa yên tâm, lại tìm một thầy lang Trung y già trong
huyện lỵ, hỏi rõ vị chính vị phụ trong đơn thuốc cho chắc chắn, bấy giờ mới y
theo cách của Tôn Cửu gia uống vào.
Chỉ vài ngày sau, sức khỏe cả bọn đều có chuyển biến
tốt, khi bàn bạc đường đi nước bước sau này, mấy người đều cảm thấy vẫn nên
nghĩ cách tìm Tôn Cửu gia. Nhưng hẻm núi Quan Tài địa thế hét sức phức tạp, địa
hình hiểm trở thâm u, bên trong hẻm núi quanh năm mây mù bảng lảng, lại có vô số
các loại quan tài treo, bên cạnh Tôn Cửu gia còn có con khỉ Ba Sơn kia giúp đỡ,
chúng tôi ngoài sáng, lão ta trong tối, muốn tìm được người này thật không phải
chuyện dễ dàng.
Chúng tôi vào núi tìm kiếm thêm lần nữa, quả nhiên
không có kết quả, xét thấy căn bản không thể tìm được Tôn Cửu gia đang lẩn
tránh trong hẻm núi một mình chờ chết, cả bọn lấy làm chán nản, đành chuẩn bị
trở về Bắc Kinh.
Trước khi rời đi, ăn xong bữa tối trong huyện lị,
tôi và Tuyền béo bắt tay sắp xếp lại hành lí. Phen này vào núi tuy không tìm được
nội đơn của cổ thi, nhưng cũng không phải không có thu hoạch, đầu tiên là mang
ra được mấy bức họa trong thôn Địa Tiên, đều là bút tích thật của Quan Sơn thái
bảo Phong Soái Cổ. Người này tuy không nổi danh bằng ngón nghề bút mực, nhưng mấy
bức Quan Sơn tướng trạch đồ ấy đều thuộc loại thủ bút và đề tài hiếm gặp, có thể
đem nhờ Kiều Nhị gia ở Lưu Li Xưởng định giá hộ.
Ngoài ra, còn có một cái hộp mạ vàng Tuyền béo vớ được
trong âm trạch ở thôn Địa Tiên. Lúc đó, cả bọn trông thấy trong mộ cái xác nữ
được trâu vàng cõng trên lưng, trong lòng ôm cái hộp này. Mộ thất ấy là do Quan
Sơn thái bảo di chuyển từ bên ngoài vào trong thôn Địa Tiên, cơ quan trâu vàng
cõng xác thiết kế cực kì xảo diệu, một khi trộm mộ xông vào gian chính sẽ kích
hoạt chốt lẫy ẩn giấu bên trong trâu vàng, lập tức khiến con trâu húc lật tường
mộ, đưa xác mộ chủ vào gian sau.
Chúng tôi chỉ có thể đoán mộ thất có trâu vàng này
được xây vào thời Minh, nhưng không có cách xác định danh tính mộ chủ, lai lịch
xuất thân thế nào, tại sao lại có ngôi mộ kết cấu tinh xảo nhường ấy.
Tuyền béo đã quen thói trộm chẳng về không, vớ được
một món minh khí vào tay, nhưng sau đó gặp phải bao mối hiểm nguy, sớm đã quên
béng chuyện này, lúc sắp dọn đồ đạc mới nhớ tới, vội vàng lấy ra định mở xem
bên trong có gì.
Cái hộp mạ vàng này hết sức tinh xảo đẹp đẽ, mộ chủ
lại là phụ nữ, vì vậy chúng tôi đoán bên trong chắc hẳn là các loại trang sức
vàng bạc bồi táng, hoặc trân châu bảo thạch kiểu như xuyến ngọc chẳng hạn. Nom
cơ quan trong mộ xảo diệu như thế, thân phận mộ chủ ắt hẳn cũng thuộc loại bất
phàm, minh khí tùy thân đương nhiên phải cực kì quý trọng, lắc lắc thấy nằng nặng,
nhưng cũng không có âm thanh gì. Tôi và Tuyền béo đều nôn nóng muốn xem cho thỏa,
thấy cái hộp có khóa, không dám dùng biện pháp mạnh để khỏi hủy hoại đồ vật
đáng tiền bên trong, bèn nhờ Út giúp một tay.
Đợi Út mở xong cái khóa bạc, chúng tôi cùng ngó vào
trong hộp, sau khi nhìn rõ vật bên trong, không khỏi nửa bất ngờ, nửa thất vọng.
Bên trong cái hộp mạ vàng chẳng có nửa món vàng bạc châu báu gì, mà là mấy quyển
sách cũ dày cộp, giấy màu vàng sậm. Tôi lật ra xem thử, thấy không giống như điển
tịch kinh quyển, trong sách toàn những hình vẽ li kì cổ quái, lời chú giải quái
gở khó hiểu, hệt như thiên thư (sách trời) vậy.
Thường có cầu “Thiên thư không chữ,” vì bên trong
thiên thư thật sự toàn quẻ tượng quẻ đồ, thoạt nhìn đều là các kí hiệu thần bí
như nòng nọc chim cá, không hề có lấy một chữ, nếu có chứ thì đều là sách giải
quẻ của hậu thế sau này. Nhưng tôi dám khẳng định, mấy quyển sách dày bịch này,
tuyệt đối không phải loại chu Dịch mà tôi thường hay tiếp xúc, xem kĩ lại, mới
phát hiện chúng rất giống đồ phổ cấu tạo các loại cơ quan, ám khí thời cổ đại.
Có câu, khác nghề như khác núi, lần đầu tiên tôi
trông thấy loại sách cổ này, cũng không dám tùy tiện xác định bừa bãi, may mà
có Út đã học hết bản lĩnh của Phong Oa sơn ở đây, tôi bèn đưa cô xem kĩ xem có
hiểu được mấy quyển sách này rốt cuộc ghi lại nội dung gì hay không.
Út lật mấy trang sách, cũng kinh ngạc ra mặt, bộ
sách cổ này hình như chính là Vũ Hầu Tàng Binh đồ. Vũ Hầu Tàng Binh đồ tuy là hậu
nhân mượn danh Gia Cát Vũ Hầu mà viết ra, xuất hiên sớm nhất vào khoảng thời Đường
Tống, nhưng các loại cơ quan ám khí ghi chép bên trong đều ảo diệu tinh kì, so
với trâu gỗ ngựa máy thời Tam Quốc trong truyền thuyết thì chỉ có hơn chứ chẳng
kém gì.
Vũ Hầu Tàng Binh đồ là báu vật trấn sơn của Phong Oa
sơn, có thể nói nó tương đương với Thập lục tự Ẩm dương Phong thủy bí thuật của
Mô Kim hiệu úy, bao đời thợ thủ ông Phong Oa sơn đều coi tập bản vẽ này là tuyệt
học đáy hòm, đáng tiếc là nó thất truyền đã lâu. Ông Lý, ông nuôi của Út, tuy rằng
tay nghề tinh thâm, sản phẩm tinh xảo có thể dối gạt cả quỷ thần, nhưng thực ra
cũng chưa học được ba bốn phần bản lĩnh trong Vũ Hầu Tàng Binh đồ.
Những ngón nghề tuyệt học này xưa nay đều là căn bản
an thân lập nghiệp của các nhà, đại đa số sư phụ truyền cho đệ tử đều theo kiểu
“mèo dạy hổ,” giữ lại bản lĩnh cứu mạng là trèo cây không truyền. Thêm nữa, lại
còn những quy củ kiểu như “truyền nam không truyền nữ, truyền trưởng không truyền
thứ,” khiến cho các môn tuyệt nghệ càng truyền càng ít dần, thường xuyên rơi
vào tình trạng mấp mé thất truyền, thậm chí là đoạn tuyệt hương hỏa.
Gần một thế kỉ nay, các ngành khoa học kĩ thuật trên
thế giới phát triển từng ngày, ngành nghề truyền thống của Trung Quốc khó tránh
khỏi có chút “thổ tả,” những thứ xưa cũ bị mai một nghiêm trọng, đến giờ lại
không thế kế thừa hoàn thiện những gì còn sót lại, mà vẫn tiếp tục đánh mất.
Tay nghề ám khí của thợ thủ công Phong Oa sơn chính là một ví dụ, vì vậy Vũ Hầu
Tàng Binh đồ đối với Út mà nói quả có hơi thâm thúy khó hiểu, cô căn bản không
hiểu được bao nhiêu nội dung trong đó
Tuyền béo vừa thấy minh khí trong hộp mạ vàng hóa ra
là mấy quyển sách rách, lập tức mất hứng, chỉ giữ lại cái hộp, định mang ra
Phan Gia Viên đẩy đi, rồi hỏi tôi mấy quyển bản vẽ này xử lí thế nào.
Tôi bảo, thực ra Vũ Hầu Tàng Binh đồ không phải vật
tầm thường, có điều người ngoài ngành xem không hiểu gì mà thôi. Có câu, mỗi vật
đều có chủ nhân thích hợp, thứ này rơi vào tay người thường thì thật uổng phí của
trời. Phen này chúng ta vào hẻm núi Quan Tài tìm thôn Địa Tiên, em Út đây đã
giúp đỡ rất nhiều, chi bằng hãy tặng Vũ Hầu Tàng Binh đồ này cho ông chủ Lý,
coi như trả món nợ ân tình, nói không chừng ông Lý còn biết được lai lịch xuất
xứ của bộ sách này, chúng ta tiện thể mở mang kiến thức luôn.
Tuyền béo hân hoan đồng ý, cậu ta nói thứ này ở
trong tay chúng ta cũng chẳng ích lợi gì, cầm đến tiệm tạp hóa của ông chủ Lý,
có thể đổi lấy dăm ba cái ô Kim Cang, dẫu sau này không đi đổ đấu nữa thì sang
California cắm trên bãi cát bên bờ biển cũng có thể làm dù che nắng, nói không
chừng còn có thể mở ra một trào lưu mới ở Mỹ, thậm chí trên toàn thế giới ấy chứ.
Trong lúc nói chuyên, Shirley Dương lại đến bàn bạc
với tôi, trước mắt tính mạng Đa Linh đang nguy ngập trong sớm tối, nhưng bọn
tôi lại toi công ở thôn Địa Tiên, chi bằng đi đường vòng về Hồ Nam một chuyến,
tìm lão Trần mù xem bói xem thế nào. Năm xưa, lão là thủ lĩnh của phái Xả Lĩnh,
kiến thức lịch duyệt bất phàm, cũng chỉ có cách nhờ lão giúp nghĩ xem còn biện
pháp nào khác hay không.
Tôi thầm nghĩ, như vậy cũng tốt, lão Trần mù ấy từng
thống lĩnh bọn đạo tặc ở mười ba tỉnh Nam Bắc, thực sự là một nhân vật “gọi gió
được gió, hô mưa được mưa,” tới khi bắt đầu trộm mộ ở Bình Sơn vùng Tương Tây,
không biết gặp phải thứ xúi quẩy gì hay đụng phải hung thần ở đâu, chẳng những
không thể vùng lên lần nữa, ngược lại còn ngã dúi ngã dụi, cực kì không thuận,
chưa qua được núi Già Long đã tổn hao rất nhiều nhân thủ, những người còn lại
cũng ngỏm hết trong núi, chỉ còn mình lão may mắn thoát thân, nhưng mù mất đôi
mắt, đành ẩn tích mai danh sống đến ngày hôm nay.
Nhưng lão Trần mù năm xưa thông thuộc “Lăng phổ,” thủ
hạ tai mắt đông đảo, biết được rất nhiều thông tin về cổ mộ khắp nơi, đến cả mộ
hoàng bì tử ở miền Đông Bắc hiếm người nào trong quan nội biết đến, lão cũng hiểu
biết đôi phần. Hiện giờ, chúng tôi chỉ còn cách nhờ lão vắt óc nghĩ lại cho kĩ...
xem trong mộ cổ mồ hoang nào còn có khả năng chôn thi đơn dị khí nữa không.
Lão hiện đang ở Tương Âm, từng là sào huyệt cũ của bọn
đạo tặc Thường Thắng sơn, nghe lão Trần mù nói, theo lệ cũ, những đầu mối về mộ
táng các triều đại ở các vùng miền, cùng sự việc tụ tập trộm mộ kiếm lợi, đều
phải ghi lại tường tận vào sổ sách, nếu may mắn, nói không chừng có thể tìm thấy
thông tin liên quan sót lại từ thời trước giải phóng, như vậy còn hơn chúng tôi
cứ đâm bừa tìm bãi không có mục tiêu thế này nhiều.
Tuy rằng chuyện này chưa chắc đã khả thi, nhưng hiện
tại không ai có phương pháp nào hay hơn, cả bọn bèn quyết định thẳng tiến Hồ
Nam, không ngờ đúng lúc này, chúng tôi lại nhận được một tin tức chẳng lành, Đa
Linh ở Mỹ đã qua đời.