Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 53
CHƯƠNG
53: THỪNG TRÓI TIÊN
Giáo sư Tôn nói, muốn đào quan quách của Địa Tiên lên
cần phải tính toán vẹn toàn, một khi gương cổ Quy Khư không có tác dụng, thì phải
trông vào dầu hỏa thiêu đốt, nhưng ngộ nhỡ thi thể Phong Soái Cổ bị thi tiên ám
vào thật, mấy người chúng ta e khó mà đối phó nổi, vì vậy cần chuẩn bị cho tình
huống xấu nhất, nếu mang theo thừng trói tiên thì sẽ nắm chắc thêm mấy phần.
Tôi biết Mô Kim hiệu úy khi đổ đấu thường dùng thừng
trói xác, ấy là một sợi dây thừng, hai đầu thắt nút có thể nới ra nới vào được,
một đầu buộc trước ngực kẻ trộm mộ, đầu kia ngoắc vào cổ xác chết, sau đó dựng
xác chết ngồi dậy, dùng hai tay mò minh khí bới áo liệm, đổ đấu nhanh nhẹn gọn
gàng.
Nhưng thừng trói tiên là loại dùng để trói xác sống,
cương thi, cũng chỉ là một sợi dây thừng, nhưng lại có đến mười sáu nút thắt, nới
thắt dễ dàng, khi tung ra thì như thiên la địa võng, dẫu Đại La kim tiên cũng
không tránh nổi. Có điều, không có bí quyết thì không thể nào thắt nổi chừng ấy
nút thắt, Mô Kim hiệu úy truyền đến đời chúng tôi đã có rất nhiều môn tuyệt học
bị thất truyền, vì vậy, tôi cũng chỉ mới nghe danh mà thôi.
Tôn Cửu gia nói: “Vốn tôi cũng chẳng trông mong gì ở
cậu, lúc trước tôi thấy cái túi da dê bách bảo đeo ở thắt lưng cô bé Út này có
chín nút thắt bảy nút móc, người bình thường tuyệt đối không thể kết ra được, mới
đem chuyện thừng trói thây ra hỏi thử, hóa ra ở Phong Oa sơn quả nhiên có ngón
nghề này, nhưng không gọi là thừng trói tiên, mà là thừng buộc ám khí.”
Từ xưa đã có cách nói, “bảy mươi hai nghề một trăm
linh tám núi,” trong những ngành nghề truyền thống này, dường như nghệ nhân của
mỗi ngành mỗi nghề đều có tuyệt học, giữa nghề nọ với nghề kia cũng có sự dung
hợp suốt thông, chẳng hạn như thủ đoạn dùng cơ quan di hình hoán vật trong phép
ảo thuật của Nguyệt Lượng môn, đa phần là bắt nguồn từ Phong Oa sơn. Vì vậy, việc
dây thừng trói tiên trong ngành đổ đấu được diễn hóa từ thừng buộc ám khí cũng
chẳng có gì lạ.
Từ lúc vào núi đến giờ, trải qua vô số gian nan nguy
hiểm, tôi đã dần dần tin phục tay nghề của Út, lập tức tập hợp tất cả dây thừng
leo núi còn lại của mọi người, giao cho Út thắt nút. Tôn Cửu gia đem thứ cao đặc
đen ngòm tanh tưởi trong bình nước ra phết lên trên, bất luận Phong Soái Cổ
trong mộ kia có thi biến hay đã hóa thành tiên, chỉ cần nhắm đúng cơ hội trói
chặt lão ta lại, dẫu lão có mọc cánh cũng khó mà thoát được.
Tôi tuy không mê tín đến mức nghiêm trọng như Tôn Cửu
gia, nhưng trong lòng cũng hiểu rất rõ, chọi nhau với Địa Tiên Phong Soái Cổ
trong núi Quan Tài là hành vi vô cùng hung hiểm, có thêm một thủ đoạn phòng
thân, cũng bằng như thêm cho mình một con đường sống, đương nhiên không thể thờ
ơ. Thấy mọi người chuẩn bị xong xuôi đâu đấy, tôi bèn lách người đi xem xét mấy
mộ thất trong mảng nham thạch phía trước.
Chỉ thấy trên mảng nham thạch này có khắc kí hiệu của
các sao tà Hối, Huyết, Huyền, Vong. Kì thực, trên trời vốn không có những tinh
tú yêu dị này, chúng chỉ tồn tại trong truyền thuyết của thuật phong thủy thiên
tinh cổ xưa mà thôi. Tương truyền, tà tinh phủ xuống, vệt mờ che lu ánh trăng,
là điềm xác chất thành núi máu chảy thành sông. Những hình khắc tinh tú bất tường
cổ xưa này, khiến khu huyệt mộ vốn đã lạnh lẽo âm u càng thêm rợn người, ai nấy
đều lờ mờ cảm giác sự việc trước mắt hẳn sẽ cực kì khó đối phó.
Nhờ giải đọc bia cáo tế và lật xem ghi chép của
Phong Soái Cổ để lại, chúng tôi có thể đoán định, thời xưa, khu vực hẻm núi
Quan Tài này rất thịnh hành những thuật phù thủy chiêm tinh, Bàn Cổ thần mạch
trong núi Quan Tài vốn là đất tế tử của các thầy mo, đồng thời cũng là nơi cất
giấu đồ tế. Phong Soái Cổ đã xây âm trạch trong núi, lợi dụng bí thuật phong thủy
hòng khôi phục linh khí địa mạch, khiến thi tiên đã biến mất mấy nghìn năm xuất
hiện trở lại, độ hóa toàn bộ người chết ở thôn Địa Tiên thành tiên. Trong Linh
Tinh điện, ít nhất cũng phải có hơn vạn huyệt mộ, nếu suy tính của ông ta thành
sự thật, lũ cương thi bên trong cùng ùa ra thì thử hỏi ai ngăn cản nổi? Tôi suy
trước tính sau, giờ chỉ đành gác chuyện sinh tử sang một bên, tìm được xác
Phong Soái Cổ đem hủy đi, rồi triệt phá hoàn toàn sinh khí của địa mạch Bàn Cổ,
may ra mới có cơ vãn hồi đại cục.
Năm người chúng tôi đảo qua mấy mộ thất xung quanh
tìm kiếm một vòng, phát hiện hầu hết đều là một mộ một người, cũng không có
quan quách minh khí gì cả, người chết tay nâng đế đèn đã cạn, mặt đeo một chiếc
mặt nạ, bên trên vẽ phác mũi, mắt, miệng đều mở to. Trong bóng tối, ánh đèn pin
chiếu vào khiến những tấm mặt nạ ấy thoạt trông đều hết sức cổ quái. Có điều,
những mộ thất này đều thấp nhỏ chật hẹp, không giống như nơi chôn thân của Địa
Tiên Phong Soái Cổ.
Shirley Dương phát hiện phía sau xác chết trong mộ
thất không lấy gì làm nổi bật lắm có một khe hở hình tam giác,soi đèn vào thấy
sâu bên trong dường như còn có không gian khác. Tôi bèn khom người chui vào
trong ấy, đi qua một đoạn đường hẹp khoảng vài mét, liền gặp một thạch thất, rộng
chừng hơn hai chục mét vuông, tường vách chỉnh tề, trên vách có bích họa, chính
giữa là một cái quách bằng vàng ròng khảm lam ngọc, ánh vàng rực rỡ, hình dạng kì
dị, có phần giống với vật ở vùng Tây Vực.
Tôi thầm nhủ, đây quá nửa là mộ thất chính rồi, bèn
quay đầu lại gọi mấy người kia chui vào bên trong. Tuyền béo vừa vào liền quét
đèn chiếu quanh một lượt, ánh mắt dừng lại trên cỗ quách vàng, thốt lên một tiếng
kinh ngạc, không kìm được định bước tới động thủ. Tôn Cửu gia vội ngăn cậu ta lại,
bảo đừng nóng vội, phải biết tiếp thu bài học kinh nghiệm chứ, cứ xem xét cho kĩ
càng đã, tránh để lại rơi vào cạm bẫy của Địa Tiên bố trí.
Cả bọn ngồi xổm trong góc mộ thất, cẩn thận quan sát
tình hình xung quanh. Tôi đi một vòng quanh căn phòng đi xem xét kĩ hơn, nhưng
càng xem càng thấy kì lạ, chỉ thấy bức bích họa trên tường kia vẽ một khu rừng
đào, cành lá sum suê, quả sai trĩu trịt, sương mù bảng lảng giăng giữa đào đỏ
lá xanh. Bức bích họa này màu sắc đậm đà tươi tắn, nhìn gần tưởng như mình đang
ở bên trong, xung quanh trước sau đều là rừng bát ngát.
Còn quan quách đúc bằng vàng ròng kia, nằm giữa vòng
bao bọc của rừng đào kéo dài liên miên trên bốn vách, ngoài phần đáy không nhìn
thấy ra, mấy mặt còn lại đều đúc rất nhiều nhân vật và chim cá hình dạng kì lạ,
hai mắt khảm lam ngọc, trong bầu không khí lạnh lẽo tĩnh mịch thấp thoáng vẻ
yêu dị lạ thường.
Phía sau thạch thất còn hai gian mộ thất nhỏ hơn, một
trong hai gian này nối liền với lối vào nhập táng, bên trong có thuyền ngọc, chạm
trổ hình long li quy phượng, hàng chữ bên trên chính là “Linh Tinh điện Địa
Tiên mộ”; gian còn lại thì bị cửa đá chắn mất, phỏng chừng bên trong là một
hang chứa đồ bồi táng, có điều từ bên ngoài cũng không thể phán đoán trong ấy rốt
cuộc cất giấu những món minh khí gì.
Tôi thấy bố cục bên trong mộ thất này quá đỗi kì dị,
trước đây chưa thấy bao giờ, cũng hoàn toàn khác hẳn với mộ Địa Tiên trong tưởng
tượng, không khỏi sinh lòng ngờ vực liệu bên trong cỗ quách bằng vàng kia có giấu
xác Phong Soái Cổ thật hay không? Tuyền béo cũng lấy làm thắc mắc: “Sao tôi cứ
có cảm giác như đến nông trường trồng đào vậy? Chẳng lẽ tổ tiên lão địa chủ này
khởi nghiệp bằng nghề bán đào chắc? Cũng chỉ có cỗ quan quách này là đồ thật,
còn dùng được chút.”
Shirley Dương nói, rừng đào trong bức bích họa này
có mây lành bảng lảng bên trên, đằng xa còn có đình đài lầu các, giống như cảnh
tượng trên Thiên giới, cũng có khả năng là một chốn thế ngoại đào viên.
Giáo sư Tôn nói với cô: “Cô nói trúng rồi đấy, bức
bích họa này đích thực không phải vẽ cảnh ở nhân gian. Nghe nói, thuở sinh tiền
Phong Soái Cổ nằm mơ cũng muốn làm thần tiên, trong mộ thất vẽ nguyên một rừng
đào, là có ý ngầm ám chỉ mình năm xưa cũng từng là người đi dự hội. Nom cách bố
trí ở đây, có thể khẳng định Địa Tiên nằm bên trong cỗ quách bằng vàng này rồi.”
Út thắc mắc với Tôn Cửu gia: “Năm xưa cũng từng là
người đi dự hội là sao? Địa Tiên mở hội gì à?” Giáo sư Tôn chưa kịp trả lời,
Tuyền béo đã ra vẻ ta đây hiểu biết đáp: “Chắc chắn không phải đại hội đại biểu
nhân dân rồi, tôi đoán chắc là đại hội của các đại biểu địa chủ, chương trình hội
nghị toàn là cách thức bóc lột quần chúng nhân dân lao khổ thôi.”
Tôi vừa nghe Tôn Cửu gia nói, liền hiểu ngay ý lão
ta. Thời xưa, những người mê tín cầu tiên đạo đều tự cho rằng kiếp trước mình từng
tham dự hội Bàn Đào của Tây Vương Mẫu, người có thể tham dự hội này đều là thần
tiên, vì vậy rất nhiều thuật sĩ giang hồ và người luyện đan đều tự xưng mình từng
là tiên nhân năm đó dự hội Bàn Đào. Phong Soái Cổ bố trí mộ thất như vậy là ngầm
có ý tự xưng mình là bậc chân tiên.
Tôn Cửu gia chẳng buồn nhìn Tuyền béo, hỏi tôi: “Đã
tìm được quan quách của Phong Soái Cổ, nên bắt tay thế nào thì cậu sắp xếp đi
thôi.”
Tôi nhìn thần sắc bốn người họ, biết cả bọn một là
đang mệt mỏi ức chế, hai là căng thẳng quá độ, chỉ có tôi và Tuyền béo ít nhiều
còn chút cảm giác hưng phấn của kẻ chỉ sợ thiên hạ không đủ loạn, nhưng đã đến
thời khắc mấu chốt cuối cùng, nhất thiết phải phấn chấn tinh thần mà cầm cự.
Nghĩ đoạn, tôi bèn nói: “Các đồng chí, tình trạng núi Quan Tài lúc này thế nào
mọi người đều rất rõ cả rồi, tôi cũng không nói nhiều nữa, còn về việc mở cái
quách bằng vàng này ra xong có bình an vô sự hay không, đây là một ý niệm thảm
thương, tôi thấy nên sớm quăng nó vào Thái Bình Dương cho rồi. Đừng quên, phải
đặt mình vào chỗ chết mới mong có đường sống, chỉ cần chúng ta giữ bình tĩnh, dốc
hết ngón nghề của Mô Kim hiệu úy mà thăng quan phát tài, trên đời này chẳng có
cái đấu nào ta không đổ được cả.”
Chấn động dưới lòng đất núi Quan Tài lúc có lúc
không, nhưng trận sau mạnh hơn trận trước, để tránh đêm dài lắm mộng, chúng tôi
lập tức bắt tay chuẩn bị mở nắp quan. Tôi lấy ra một ngọn nến, đưa Tôn Cửu gia
thắp ở góc Đông Nam của mộ thất.
Sở dĩ tôi bảo Tôn Cửu gia làm chuyện này, là vì tôi
vẫn luôn có cảm giác trên người lão ta có hiện tượng thi biến, nhưng kì lạ là,
ngọn nến Mô Kim hiệu úy dùng để suy đoán hung cát hoàn toàn không có phản ứng
gì với Tôn Cửu gia, điều này chứng tỏ lão ta là người chứ không phải ma. Nhưng
cơ thể người sống tuyệt không thể nào xuất hiện hiện tượng bị thi trùng cắn xé
như thế được. Từ lúc vào địa cung của Ô Dương Vương, tôi dường như cũng không cảm
nhận được hơi người sống trên mình lão ta nữa. Chân tướng và hậu quả của việc
này tuy rằng vẫn chưa hiển lộ ra, nhưng khả nảng uy hiếp tiềm tàng thì còn vượt
xa Địa Tiên nằm trong cỗ quan quách bằng vàng ròng kia, không thể không phòng bị
trước được.
Tôn Cửu gia theo lời thắp nến lên, ánh nến hắt lên mặt
lão ta, sắc mặt xám xịt như xác chết, tròng mắt đục ngầu, khiến tôi nhìn mà lạnh
hết cả người. Nhưng lúc trước lão ta đã thề độc, một mực khẳng định chính mình
cũng không biết trên người rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. May mà từ lúc vào miếu
Pháo thần đến giờ, mọi hành vi của lão ta đều ở mức chấp nhận được, phỏng chừng
những chuyện có thể khai cũng đã khai cả rồi. Nói theo cách của lão ta, mạng của
năm người chúng tôi đều buộc chung một chỗ, không có lão ta, những người còn lại
cũng chưa chắc có cơ hội thoát khỏi thôn Địa Tiên này. Mọi người tuy rằng phát
giác con người này càng lúc càng trở nên đáng sợ, nhưng vẫn ráng nhẫn nhịn.
Mộ Địa Tiên là đất phát nguyên sinh khí của mạch Bàn
Cổ, ngọn nến cháy lên không thấy có hiện tượng gì khác thường, tôi đưa mắt ra
hiệu cho Shirley Dương, bảo cô dắt Út lùi về sau chốt giữ lối ra mộ thất, quan
trọng nhất là ở phía sau chúng tôi cẩn thận quan sát nhất cử nhất động của Tôn
Cửu gia, đừng để tôi và Tuyền béo đang mở quan tài thì dính phải độc thủ của
lão ta.
Sau đó, tôi và Tuyền béo, Tôn Cửu gia cùng chụm đầu
trước cỗ quan quách bằng vàng, cẩn thận tìm kiếm chỗ để động thủ. Trong quá
trình trộm mộ, khai quan mò vàng vẫn luôn là mắt xích hung hiểm nhất, vì vậy cả
Tuyền béo cũng hết sức dè dặt. Ban đầu, chúng tôi định tìm khe hở trên quách
vàng, rồi dùng xẻng công binh bậy nắp quách lên, không ngờ ba người tìm khắp một
vòng, phát hiện bốn phía cỗ quách hoàng kim chẳng có khe hở nào, mà mặt trên
quách có hai cánh cửa chạm rồng, không khóa không đinh, chỉ vươn tay ra là mở
được, không tốn chút công sức nào cả.
Tuy rằng đã lường trước khả năng huyệt mộ của Địa
Tiên Phong Soái Cổ sẽ hoàn toàn khác biệt với các loại lăng mộ trứ danh khác,
nhưng thấy quan quách mộ chủ theo kiểu có cũng như không này, chúng tôi vẫn
không khỏi bất ngờ. Tôi không dám manh động trực tiếp mở nắp quách ra, bèn bò
lên mặt quách, rọi đèn vào trong xem xét, phát hiện bên trong có ánh phản quang
yếu ớt màu xanh nhạt, nhưng cách một lớp nắp bằng vàng dày nặng, căn bản không
thể nhìn ra trong đó là một tầng quách nữa hay còn có gì, chỉ ngửi thấy mùi xác
thối rữa lâu ngày bốc ra.
Tuyền béo thấy cả một cỗ quách bằng vàng ròng to tướng
như thế, trong lòng hết sức cảm khái, chỉ hận không thể bê ngay lên máy bay
mang về, đứng bên cạnh cứ không ngừng sờ mó cỗ quách. Cậu ta nôn nóng hỏi tôi: “Nhất
à, bên trong quan tài có gì vậy?” Tôn Cửu gia cũng hỏi: “Địa Tiên có trong quan
tài không?”
Tôi khinh khỉnh đáp: “Địa Tiên cái mẹ gì, mùi như
phô mai thối ấy, chắc đã rữa gần hết rồi. Xem ra chúng ta lo quá thôi, cái bánh
tông Phong Soái Cổ đã rữa nát tới chừng này, chắc cũng chẳng thi biến được đâu.”
Tôn Cửu gia nói: “Nếu xác ông ta đã thối rữa ra rồi
thì chắc chắn không thể luyện thành thi tiên được nữa, nhưng cũng chớ nên lơ
là, mau lấy dầu ra đi.”
Tôi vẫn trông mong trong bụng cương thi bên trong có
kim đơn, tuy rằng các dấu hiệu đều cho thấy, hi vọng này đã trở nên hết sức
mong manh, nhưng tôi vẫn không muốn trực tiếp phóng hỏa, chỉ lấy hộp dầu đưa
cho Tuyền béo, bảo cậu ta đợi tôi phát tín hiệu rõ ràng rồi hãy động thủ thiêu
cháy thi thể địa tiên.
Tuyền béo ra vẻ ôm đồm nói: “Chuyện phóng hỏa này cậu
cứ yên con nhà bà tâm đi, mau mau mở nắp quách ra, xem bên trong có thứ gì hiếm
lạ hay không đã...”
Cậu ta mới nói được nửa câu, chợt nghe trong quan
quách vẳng ra một tràng tiếng động cổ quái, tựa như có một thân thể nặng nề
đang ở bên trong vùng vẫy cựa quậy, tôi vội trở mình lăn xuống khỏi nắp quách,
Tôn Cửu gia và Tuyền béo cũng lùi về sau hai bước. Tôi đưa mắt nhìn về phía
sau, Shirley Dương và Út cũng đều nghe thấy động tĩnh, Shirley Dương sợ tôi có
chuyện gì, liền vung tay ném ô Kim Cang về phía này.
Tôi bắt lấy ô, thầm nhủ chẳng lẽ cái xác mục bên
trong đang động đậy? Lại thấy cây nến ở góc mộ thất vẫn cháy, dường như mùi hôi
thối nồng nặc trong không khí không hề ảnh hưởng gì đến nó. Có ngọn lửa chứng tỏ
có dưỡng khí, vả lại trong mộ tạm thời không có nguy hiểm gì, thấy vậy, tôi liền
ra hiệu cho Tuyền béo và Tôn Cửu gia, ba người đeo găng tay vào, lại một lần nữa
tiến tới phía trước cỗ quách, dùng xẻng công binh khe khẽ khều cửa quách hé ra
một khe hở.