Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 47

CHƯƠNG
47: KỊ LỬA

Mộ cổ là chốn u minh, mà nến đèn lại tượng trưng cho
sinh mệnh, thường có câu, không phải ma dữ chẳng thổi đèn, Mô Kim hiệu úy xưa
nay kị nhất là chuyện thổi đèn tắt nến, ngọn nến vừa tắt, căn phòng lập tức trở
nên tối om giơ tay không thấy ngón. Tuyền béo bừng bừng nổi giận, liền đập một
cái mũ bảo hiểm leo núi, ngọn đèn gắn trên mũ lập tức sáng bừng lên, kế đó, cậu
ta vươn tay tóm lấy cổ áo Tôn Cửu gia quát: “Tôn Lão Cửu chán sống rồi hả, dám
tắt đèn của đại gia ư? Trước khi ra khỏi nhà sao không hỏi thăm thử xem, lần
trước cái bánh tông thổi tắt đèn của Tuyền béo này có kết cục thế nào?” Vẻ mặt
Tôn Cửu gia cực kì sợ hãi, lão ta nói: “Thằng béo nhà cậu mới chán sống ấy,
trong thôn Địa Tiên không thế thắp nến đâu!”

Tôi ngăn Tuyền béo lại, hỏi Tôn Cửu gia: “Lúc nãy
không phải ông bảo đốt nến lên à? Sao đột nhiên lại giở quẻ thổi tắt đèn, rốt
cuộc ý ông là sao vậy?” Tôn Cửu gia lắc lắc đầu, sau đó lại lập tức gật gật đầu,
đáp: “Thắp nến là ý của tôi, nhưng hôm nay trong lòng tôi cuống quá, như bị mỡ
dồn lên lú cả đầu óc, quên khuấy một chuyện hết sức quan trọng. Từ lúc tiến vào
núi Quan Tài này, tôi đã cảm thấy xung quanh có gì đó không ổn lắm, thực quá bất
bình thường, nhưng lại không thế nói rõ rốt cuộc là bất bình thường ở đâu, mãi
tới khi thắp nến lên, tôi mới sực nhớ ra.”

Shirley Dương nói: “Giáo sư Tôn, chỗ bất bình thường
mà ông nói là... đèn đuốc?” Tôn Cửu gia gật đầu: “Không sai, xem ra tiểu thư
Dương cũng để ý thấy rồi, bố cục thôn Địa Tiên trong núi Quan Tài này giống hệt
trấn Thanh Khê trên mặt đất, nhà cửa phòng ổc đều chẳng khác gì chốn nhân gian,
nhưng vẫn có một điểm khác biệt rất khó nhận thấy, trong tất cả các căn nhà ở
đây, đều không có nến, giá đèn, dầu đèn, thậm chí trong bếp cũng không có củi lửa
gì cả.”

Tôi vẫn chưa lĩnh hội được ý của Tôn Cửu gia, ngạc
nhiên hỏi: “Thôn Địa Tiên có hai tầng âm dương, trong dương trạch không có đèn
đuốc, vậy thì chứng tỏ điều gì chứ? Chẳng lẽ đám Quan Sơn thái bảo kia đều là
chuột thành tinh hóa thành... dưới lòng đất càng tối tăm thì càng nhìn rõ?”

Tôn Cửu gia nói: “Tuy không có đèn nến, nhưng trong
Tàng Cốt lầu và các nhà cửa khác, đều có một loại đèn ống dương tủy. Dương tủy
là một loại khoáng thạch có thể phát quang, những người năm xưa hẳn đã sử dụng
nguồn sáng từ khoáng vật này. Nghe tổ tiên truyền lại, ở trấn Thanh Khê chưa
bao giờ có tập tục chiếu sáng bằng dương tủy cả, rất có thế trong thôn Địa Tiên
có cấm kị gì đấy, trong núi Quan Tài tuyệt đối không được thắp đèn đốt nến.”

Shirley Dương nói: “Trong mấy bức họa Phong Soái Cổ
để lại, có một bức tên là Bỉnh chúc dạ hành đồ, vẽ cảnh rất nhiều người đốt đèn
đi vào mộ cổ, nếu trong núi Quan Tài thật sự cấm lửa cấm đèn, tại sao những người
ấy lại thắp nến trong huyệt mộ?”

Nghe tới đây, tim tôi bỗng trầm xuống, ngầm cảm thấy
đèn nến mà những người ở thôn Địa Tiên năm xưa thắp lên thảy đều là đèn u minh.
Đó là một tục lệ cũ, người tuẫn táng cầm đèn đi vào cõi chết, mà bọn họ cũng
đúng là vào trong mộ tuẫn táng thật, nhưng sau khi vào mộ, họ chết như thế nào?

Tôn Cửu gia bảo chúng tôi gỡ bức Bỉnh chúc dạ hành đồ
xuống, lão ta xem xét kĩ lại lần nữa, càng khẳng định như đinh đóng cột: “Các
cô các cậu nhìn đi, trong tranh vẽ rất rõ ràng, những kẻ tuẫn táng đang đi vào
huyệt mộ này, chỉ những người đi trên bậc thang đá dưới lòng đất thì trên tay mới
có ngọn nến hoặc cây đuốc cháy sáng; còn đèn đuốc trên tay những người ở mạn
trước cửa mộ phía trên cao đều tắt cả.”

Tôi hỏi Tôn Cửu gia: “Dù trong núi Quan Tài này đích
thực có phong tục không đốt đèn thắp nến chăng nữa, thì cũng không biết thắp
nên lên sẽ xảy ra chuyện gì. Tôi thấy xung quanh chẳng có gì bất thường cả,
chúng ta đừng thần hồn nát thần tính.”

Tôn Cửu gia nói: “Tôi cả đời này lăn lộn giữa đám cổ
vật, đã gặp không ít chuyện li kì cổ quái, lại kinh qua khảo nghiệm hồi đấu
tranh giai cấp, sợ đảm lượng kiến thức tôi đều không kém gì các cậu, tuyệt đối
không phải thần hồn nát thần tính đâu. Vừa nãy chúng ta đã đốt một ngọn nến, chỉ
sợ sẽ rước lấy phiền phức lớn đó.”

Tôi và Tuyền béo chẳng coi chuyện này vào đâu, cười
cười bảo lão ta: “Có phiền phức gì cũng đều do ông rước về cả, với lại, phiền
phức của chúng ta bây giờ còn nhỏ chắc? Rận nhiều không đốt, nợ nhiều khỏi lo,
ngoài chết ra thì chẳng có chuyện gì lớn sất, đám chúng ta đây chuyên làm nghề
đổ đấu mò vàng, thắp một ngọn nến thì có gì lớn lao đâu chứ?”

Shirley Dương nói: “Anh Nhất, chớ nên chủ quan thế,
để giáo sự Tôn nói hết đã. Nếu đốt nến lên, trong núi Quan Tài rốt cuộc sẽ xảy
ra chuyện gì?”

Tôn Cửu gia nói: “Bố cục thôn Địa Tiên giống như một
đế đèn không có lửa, tôi có biết chút ít về thuật phong thủy thượng cổ, đây có
lẽ là một bố cục kị lửa.”

Sở học bình sinh của tôi đều phát xuất từ cuốn Thập
lục tự âm dương Phong thủy bí thuật của Mô Kim hiệu úy, đây là môn phong thủy
thanh ô lấy thuật phong thủy cổ làm căn bản, dung hợp với bí thuật của Hình thế
tông Giang Tây làm máu thịt; còn căn nguyên thuật Quan sơn của Quan Sơn thái bảo,
lại là từ đám giáp cốt trong quan tài treo ở hẻm núi Quan tài, là một nhánh của
thuật phong thủy cổ, tuy cùng một nguồn gốc với thuật phong thủy thanh ô, song
lại tồn tại khá nhiều điểm khác biệt, vì vậy tôi không hiểu cách nói kị lửa này
cho lắm. Có điều, nhìn hình dáng thôn Địa Tiên trong Quan Sơn tướng trạch đồ,
quả thực rất giống một đế đèn bằng đồng không có lửa vậy.

Chỉ nghe Tôn Cửu gia nói: “Phong thủy chỉ là một lí
do. Lí do thứ hai là, bố cục thôn Địa Tiên rất giống với cổ trấn Thanh Khê cuối
thời Minh. Nhà họ Phong nhận hoàng ân và phát tích vào đầu thời Minh, trải qua
hơn hai trăm năm dưới triều Minh đã không ngừng mở rộng cơ nghiệp tổ tiên, vì vậy
có thể nói, căn cơ kình thế của trấn Thanh Khê đều được định ra trong giai đoạn
ấy, về sau trải qua thời Thanh, thời Dân Quốc, rồi sau Giải phóng đến nay, đều
không có thay đổi gì lớn. Lúc trước, tôi chưa bao giờ nghĩ kĩ xem tại sao trấn
Thanh Khê lại xây dựng theo bố cục kị lửa như thế, hoặc có thể nói là tôi căn bản
chưa nghĩ đến tầng ý nghĩa này. Nếu đào sâu suy nghĩ, chuyện này ắt hẳn có liên
quan đến việc nhà họ Phong bày kế hủy ấn Phát Khưu, bùa Mô Kim vào những năm
Vĩnh Lạc.”

Tương truyền vào thời Hậu Hán, để giải quyết vấn đề
quân lương, Tào Tháo đã cho người đào mộ Lương Hiếu Vương. Bấy giờ còn chưa
phát minh ra thuốc nổ, mà lăng tẩm của Lương Hiếu Vương lại nằm sâu trong lòng
núi, dựa vào khí giới và phương tiện đương thời, dù có mấy vạn binh mã cũng khó
mà khai quật được. Bởi vậy Tào Tháo bèn chiêu mộ một đám người rành nghề đổ đấu
trong dân gian, thu nạp vào quân đội, lập ra chức Mô Kim hiệu úy, Phát Khưu
trung lang để phong cho họ.

Danh xưng trong biên chế quân sự cổ đại cũng tương đồng
với hiện đại, quân hàm của quân đội hiện đại có tướng, tá, úy, sĩ, trong đó mỗi
cấp bậc lại phân thành thiếu, trung, thượng, đại, chẳng hạn như thiếu tướng,
trung tướng, thượng tướng. Vào thời cổ đại, tướng là quan chức cao cấp trong
quân đội, tá và úy là quan chức cấp trung, trong đội quân trộm mộ dưới tay Tào
Tháo, người đứng đầu là Phát Khưu trung lang tướng, hay còn được gọi là Thiên
quan, bên dưới có Mô Kim hiệu úy, mỗi cấp đều có ấn phù làm tín vật, nên mới
truyền xuống ấn Phát Khưu, bùa Mô Kim. Sau giai đoạn loạn lạc cuối triều Hán,
Phát Khưu Mô Kim lưu lạc trong dân gian, không trộm mộ cho triều đình nữa, chỉ
chuyên đổ đấu kiếm tiền hòng giúp đỡ những người cùng khổ.

Người Trung Quốc từ xưa đã chú trọng danh phận, có
câu “danh bất chính, ngôn bất thuận,” vì vậy những danh hiệu nhà quan như Phát
Khưu, Mô Kim vẫn được dùng suốt mấy nghìn năm, chiếc ấn Phát Khưu có khắc tám
chữ “Thiên Quan tứ phúc, bách vô cấm kị” và mảnh bùa cổ Mô Kim đều là tín vật
truyền từ đời này sang đời khác, tổng cộng có chín bùa, một ấn.

Vì ngón nghề đổ đấu của Mô Kim hiệu úy phát xuất từ
Chu Dịch, Chu Dịch lại được coi là tổ của các loại kinh thư, Mô Kim Kiệu úy cũng
là nhánh chú trọng truyền thống nhất trong ngành đổ dấu, bởi thổ dân gian xưa
nay đều có thuyết cho rằng trong bảy mươi hai nghề truyền thống, Mô Kim đứng
hàng đầu, thủ lĩnh của Mô Kim hiệu úy là Phát Khưu thiên quan, nhưng đến những
năm Vĩnh Lạc triều Minh, hoàng gia muốn lăng mộ được vững bền, đã sai Quan Sơn
thái bảo bày ngụy kế, hủy hoại ấn Phát Khưu và sáu miếng bùa Mô Kim.

Có lẽ đạo trời khoan dung, không để ngón nghề đổ đấu
của Mô Kim hiệu úy thất truyền trên thế gian, cuối cùng vẫn có ba miếng bùa Mô
Kim không rõ tung tích ở nơi nào. Có câu rằng, tha giặc một ngày, lưu họa nghìn
đời, nhà họ Phong lo rằng chuyện này bại lộ, sớm muộn gì cũng có ngày Mô Kim hiệu
úy ngóc đầu trở dậy báo thù bọn họ, đặc biệt là mộ tổ nhà họ Phong đều chôn ở hẻm
núi Quan Tài, vì vậy lúc nào cũng canh cánh trong lòng, ăn ngủ không yên, nhưng
chuyện này rốt cuộc không lộ ra ngoài, về sau, họ cũng dần dần yên tâm phần
nào.

Tôn Cửu gia nói, giờ nghĩ lại, Quan Sơn thái bảo e
ngại nhất vẫn là Mô Kim hiệu úy, kiến trúc trong thôn Địa Tiền ngầm hợp với lẽ
Cửu cung Bát quái, hình dáng tổng thể lại có tướng kị lửa, theo lí lẽ của thuật
phong thủy Quan sơn, đất kị lửa không thể đốt đèn, hễ đốt đèn lên thì Sinh môn
cũng biến thành Tử môn, đây chẳng phải là bố cục chuyên dùng để đối phó với Mô
Kim hiệu úy hay sao?

Tôi bảo Tôn Cửu gia: “Tôi thấy ông hơi mẫn cảm quá,
thần hồn nát thần tính rồi đấy, Mô Kim hiệu úy và Quan thái bảo có ân oán gì
trong quá khứ thì cũng đã chìm trong cát bụi lịch sử, không cần giở sổ nợ ra
làm gì, chỉ riêng món nợ giữa bọn tôi đây với ông đã khó mà tính toán cho rõ
ràng rồi. Giờ chúng ta đừng nghĩ ngợi nhiều nữa, tốt hơn hãy nghĩ cách moi thằng
cha Địa Tiên Phong Soái Cổ kia ra mới là việc chính.”

Tôn Cửu gia thấy tôi không tin, đành nói: “Mong là
tôi cả nghĩ. Các cô các cậu xem bản đồ tìm phương hướng hành động trước đi để
tôi đọc lại quyển Quan Sơn quật tàng lục lần nữa. Trong chương về núi Quan Tài
có ghi chép tường tận mọi chuyện lớn nhỏ ở thôn Địa Tiên này, nói không chừng lại
tìm ra được gì đó.”

Tôi cũng đang có ý này, bèn tiếp tục xem xét điển tịch
tranh vẽ của Phong Soái Cổ để lại. Núi Quan Tài ở sâu trong lòng đất là một thi
mạch. Loại địa mạch này chỉ có trong những truyền thuyết phong thủy cổ xưa nhất,
còn thuật phong thủy Thanh Ô chỉ nhắc sơ qua chứ không hề giải thích, nên rất
khó nói chuyện Địa Tiên Phong Soái Cổ dựa vào xác chết mà độ hóa thành tiên là
thật hay giả. Nhưng khi tôi và Shirley Dương trao đổi về mọi sự trong mộ cổ Địa
Tiên, đều cảm thấy Phong Soái Cổ tính toán sâu xa, hành vi của ông ta quỷ thần
cũng khó mà đoán biết, đối với chuyện quần tiên rời núi này, tốt nhất vẫn nên
tin là có, tuyệt đối không thể để đám xác cổ trong mộ thấy lại ánh mặt trời, bằng
không chắc chắn sẽ gây ra đại loạn trên thế gian.

Đang dở câu chuyện, chợt nghe tiếng Út ở bên ngoài
thốt lên: “Trong sân hình như có thứ gì đang động đậy kìa...” Lúc này, trên
không trung đã mù mịt sương máu, nhưng trong núi vẫn tối đen như hũ nút, phía
xa có động tĩnh gì chỉ có thể dựa vào thính giác để phát hiện. Tôi bước đến cạnh
song cửa sổ nghiêng tai lắng nghe, quả nhiên có tiếng động lạ, âm thanh dồn dập
hỗn loạn, có điều không phải phát ra trong sân, mà là ở vách đá như ván quan
tài bao bọc bên ngoài thôn Địa Tiên, nghe như thế nước triều cuồn cuộn đang
tràn về phía lầu Tàng Cốt này vậy.

Mấy người còn lại cũng lấy làm lạ, thôn Địa Tiên này
không có lấy một người sống, sao đột nhiên lại xuất hiện tiếng động kiểu này?
Nghe chừng số lượng không nhỏ, vả lại cũng không phải tiếng ma sát nhu động của
Cửu Tử Kinh Lăng giáp. Tuy rằng nguồn gốc không rõ, nhưng có thể khẳng định là
chẳng tốt lành gì, có thứ gì đó rất đáng sợ sắp sửa tràn vào thôn Địa Tiên này
rồi.

Tôn Cửu gia nghe rõ mồn một, đột nhiên cuống cuồng lật
lại mấy trang sách phía trước, rồi thình lình đứng bật dậy, thất thanh kêu lên:
“Chúng ta mau tìm chỗ nào trốn đi, âm thanh này chắc chắn là của lũ sâu quan
tài được nhắc đến trong Quan Sơn quật tàng lục rồi.”

Núi Quan Tài này là một tác phẩm kì dị của tạo hóa,
địa mạch Bàn Cổ trong núi hình dáng như xác chết, giống những rặng núi trông tựa
Phật nằm, nhưng không có đầu và nằm thẳng đơ trong quan tài, nhìn kiểu gì cũng
là một mảnh hung địa. Có điều, trên thực tế, đây lại là một địa mạch kì lạ,
trong hung có cát.

Kì lạ nhất chính là trong tầng đất nơi đây có suối
ngầm cuộn chảy, nước suối tanh thối như thi huyết. Trong nghề đổ đấu, hiện tượng
trong quan tài chảy ra nước sạch gọi là quan tài sung, trong mộ có suối lại
càng là đất báu phong thủy, phong tụ khí, vì vậy mới nói núi Quan Tài này đúng
là một nơi kì tuyệt của đất trời. Hình dạng nơi đây không khác gì một cỗ quan
tài thật, nếu đã có quan tài sung đục ngầu như máu, vậy thì trong vách quan có
sâu quan tài cũng là chuyện dĩ nhiên thôi.

Sâu quan tài hay còn gọi là chỉ trùng, do lũ dòi
sinh trưởng trong ván quan ván quách biến thành, màu sắc như vỏ cây tùng, trên
thân mọc cánh thịt, có bảy cặp răng đối xứng, chuyên gặm những thứ mục nát, con
nhỏ thì như hạt gạo, con lớn nhất có thể to bằng bàn tay đứa trẻ bảy tám tuổi,
người làm nghề đổ đấu đa phần đều đã gặp phải vật này. Nhưng trong những ngôi mộ
cổ tầm thường, dù là một mộ nhiều xác thì sổ lượng quan quách cũng có hạn, vì vậy
dù xuất hiện sâu quan tài, cũng không bao giờ có quá nhiều.

Nhưng theo ghi chép trong Quan Sơn quật tàng lục,
vách đá núi Quan Tài có đường vân thiên nhiên hình dạng cổ phác như rồng cuốn
phượng chầu, bên trong các khe đá có vô số quan tài treo bằng gỗ, đầy khe đầy rãnh
là dây leo, rêu bùn, thi thể, kí sinh rất nhiều sâu quan tài chuyên gặm gỗ mục
rong rêu. Vì số lượng bọn này cực nhiều, Quan Sơn thái bảo năm xưa cũng khó
lòng diệt hết, may mà chúng không rời khỏi vách đá, không ảnh hưởng gì đến quá
trình xây dựng thôn Địa Tiên.

Nhưng hôm nay chắc không phải ngày hoàng đạo, nên
trong núi Quan Tài xuất hiện vô số hiện tượng dị thường, Cửu Tử Kinh Lăng giáp ở
xung quanh xuyên qua tầng nham thạch, đâm thẳng vào vách đá quan tài, ép bọn
sâu quan tài trong khe đá chui ra hết. Lúc này, nghe bên ngoài lầu toàn tiếng
lũ sâu bò rào rào là biết có đến hàng nghìn hàng vạn con từ khắp bốn phương tám
hướng đang tràn về thôn Địa Tiên.

Tôn Cửu gia riết róng thúc giục: “Sâu quan tài không
giống lũ thi trùng trong địa cung mộ Ô Dương Vương đâu, bị bọn này cắn xé thì cả
mảnh xương cũng chẳng còn, chúng ta phải mau tìm chỗ nào trốn đi. Tôi biết các
cô các cậu đều là người gan vàng dạ sắt không coi chuyện sinh tử ra gì, nhưng
con bé Út này không liên can, chớ liên lụy nó phải mất mạng theo.”

Tuyền béo hừ lạnh một tiếng nói: “Cậu Nhất nghe ông
ta nói mà xem, thật cảm động quá đi mất, xem ra lúc trước chúng ta hiểu lầm rồi,
Tôn Cửu gia cũng có một trái tim hồng đấy chứ “

Lúc này dù tôi cũng biết tình thế đã vô cùng khẩn cấp,
nếu bị hàng nghìn hàng vạn con sâu quan tài đổ dồn vào nhà thì cả bọn chỉ còn một
con đường chết, nhưng sai một li là đi một dặm, mạo hiểm hành động sẽ chỉ khiến
hoàn cảnh càng thêm tệ hại, nên ngoài miệng tôi vẫn bông đùa với Tuyền béo: “Nghe
mấy lời Cửu gia vừa nói, tôi cũng suýt coi ông ta là đồng chí của mình rồi đấy!”
nhưng trong lòng lại thầm nhủ: “Nhà cửa phòng ốc trong thôn Địa Tiên này đều giống
như nhà của người sống, không phải tường đồng vách sắt gì, lấy đâu ra chỗ lẩn
trốn tránh họa đây.”

Tôn Cửu gia mặc kệ tôi và Tuyền béo buông lời bới
móc, cuống cuồng bỏ mấy quyển sách của Phong Soái Cổ vào ba lô, chỉ xuống dưới
lầu nói: “Bên dưới thôn Địa Tiên có âm trạch, dưới lầu Tàng Cốt này chắc chắn
cũng là một mộ thất, chúng ta trốn xuống dưới đó, không chỉ tránh được sâu quan
tài, còn có thể men theo mộ đạo tìm đến mộ Địa Tiên, nếu để bị vây khốn trong lầu
này thì không xong đâu.”

Shirley Dương ngăn Tôn Cửu gia lại nói: “Trong mộ đạo
lại càng nguy hiểm hơn, lúc nãy tôi thấy trong mộ đạo bên dưới thôn Địa Tiên này
có rất nhiều khe nứt, lũ sâu quan tài này chỗ nào cũng chui được, chưa chắc xuống
đó đã tránh được chúng đâu.”

Tôi thấy những lời này của Shirley Dương rất có lí,
âm trạch trong núi Quạn Tài được nối với nhau bằng hệ thống mộ đạo chằng chịt,
những ngôi mộ cổ thuộc nhiều triều đại khác nhau cùng nằm dưới mặt đất, mỗi mộ
thất lại có kết cấu và vật liệu xây dựng khác nhau, khiến cho mộ đạo có rất nhiều
vết nứt và lỗ hổng, nếu có một đám sâu quan tài ùn ùn kéo đến thật ở trong mộ
thất chật hẹp bít bùng thực sự khó lòng ứng phó nổi.

Tiếng côn trùng bò trườn mỗi lúc một tiến lại gần
càng khiến lòng người thêm hoảng loạn. Tôi gắng định thần lại, ngẫm nghĩ, bức
Quan Sơn tướng trạch đồ kia miêu tả rất tỉ mỉ địa hình trong núi Quan Tài, ở lối
vào mộ Địa Tiên có mấy khoanh tròn màu vàng. Tuy trong tranh vẽ nhìn không rõ rốt
cuộc là thứ gì, nhưng đại khái nằm ở lối vào huyệt mộ. Thời xưa có quan niệm trời
tròn đất vuông, tròn là sinh, vuông là tử, trong quẻ đồ, vòng cung ngụ ý “sinh,”
theo lí mà suy thì mấy vòng tròn này có lẽ là vật để ngăn côn trùng, chống trộm
trước mộ, lui vào trong đó họa may có thể tránh được đợt tấn công này của lũ
sâu quan tài. Làm vậy cũng là lấy lui làm tiến, ít nhất còn đỡ hơn cố thủ trong
tòa nhà lẻ loi trơ trọi này.

Lúc này, cũng chẳng nghĩ được xem thôn Địa Tiên có lệ
cấm lửa thật hay không, tôi lập tức gọi Tuyền béo cùng bắt tay hành động, vung
xẻng công binh chặt mấy cái bàn cái ghế, rồi xé ít mảnh vải quấn bên trên, toan
đốt lên làm đuốc xua đuổi lũ sâu bọ.

Tôn Cửu gia thấy thế cuống đến khản cả giọng, níu chặt
cánh tay tôi hét lên như xé họng: “Không được châm lửa, phòng ốc trong thôn Địa
Tiên này đều được dựng bằng gỗ cây thương cổ thụ, lửa mà bén lên, ắt sẽ dụ Cửu
Tử Kinh Lăng giáp trong tầng đất chui ra.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3