Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 46
CHƯƠNG
46: BÀN CỔ THẦN MẠCH
Phong Soái Cổ phát hiện trên đầu lâu bằng vàng ròng
của Ô Dương Vương có khắc một bức bản đồ phong thủy cổ xưa, ngoài ra trên các
mai rùa, ngọc bích, đồ đồng... vơ vét được trong quan quách cũng đều có rất nhiều
chữ khắc thần bí không sao lí giải nổi. Những món minh khí này ẩn giấu một bí mật
không ai biết đến của hẻm núi Quan Tài.
Thì ra, dưới lòng đất của khu vực hẻm núi Quan Tài ở
Vu Sơn từ xưa đã có hai mảnh đất báu phong thủy thuộc dạng trong đất có núi. Một
mảnh rất giống đầu người, mảnh còn lại hình dạng như một chiếc quan tài đá
không có nắp, bên trong quan tài có núi đồi nhấp nhô tựa như cái xác không đầu,
trong núi có dòng suối đen, nước đen ngòm tanh thối, tựa như thi huyết, người sống
không dám đến gần.
Hình thế phong thủy bên ngoài hẻm núi Quan Tài có thể
tổng kết bằng mấy câu “núi cao nước Kẹp, quần long vô thủ.” Trong núi hang động
giao nhau chằng chịt, khiến long mạch hỗn loạn mờ mịt, vì vậy có rất nhiều di
tích cổ có bố cục kì dị dùng để trấn phong giữ thủy. Trung tâm của các long mạch
này chính là hai mảnh đất hình đầu người và quan tài đá. Thời xưa vùng này vốn
thịnh hành Vu thuật, ngọn núi hình cái xác không đầu được gọi là Bàn Cổ mạch,
là cấm địa để cúng tế Tử linh Vu thần, trong các khe nứt trên vách đá bốn phía
có quan tài treo dưới lòng đất chôn các loại cổ vật bằng đồng bằng ngọc, cùng
vô số quan tài đá nhỏ được gọi là thi khí.
Trong các quan tài đá nhỏ xinh ấy đều chứa các bộ phận
trên cơ thể vật tế, đa phần là người có địa vị thấp trong xã hội như tù binh,
nô lệ. Người ta đem những quan tài này chôn dưới lòng đất để hấp nạp khí cực âm
của núi sông, sau khi chôn giấu nghìn năm, những cơ quan nội tạng ấy sẽ dần dần
khô quắt rồi hóa thạch, trong số đó, thứ nào hút đủ âm khí sẽ hiện ra mặt mũi
như con người, thậm chí có cả chân tay, có thế trở thành “hoạt đơn” nhưng tỉ lệ
này rất nhỏ, không đến một phần vạn. Vì số lượng quan tài thi khí chôn trong
núi này nhiều đến mức không tính xuể, nên hậu thế còn gọi nơi đây là núi Quan
Tài.
Phong tục thần bí này chủ yếu chịu ảnh hưởng của văn
minh Vu Sở và văn hóa Ba Thục cổ đại. Khi chôn cất quý tộc, người ta sẽ vào núi
Quan Tài đào lấy thi khí chôn giấu nghìn năm đã thành hình, để đặt vào miệng
người chết, có thể bảo tồn dáng vẻ người chết y như lúc còn sống.
Vì lúc mai táng Ô Dương Vương, ông ta chỉ có thân mà
không có đầu, vì vậy thi khí bồi táng được bỏ vào trong bụng. Lúc Quan Sơn thái
bảo mở nắp quách đá, viên “hoạt đơn” ấy đã đồng hóa thành một thể với cái xác.
Phong Soái Cổ đọc vô số thư tịch cổ, biết được trên đời này có thuyết thi tiên,
ông ta cho rằng Ô Dương Vương trong quách đá ấy vừa không phải người chết vừa
không phải người sống, mà thi hài đã hóa thành chân tiên, ăn một miếng thịt còn
hơn ăn mấy gốc hà thủ ô vạn năm, nên bắt đầu có những ý nghĩ quá phận.
Phong Soái Cổ đem xác Ô Dương Vương trong khạp đồng
đi luyện thành đơn dược, nhưng dường như không có tác dụng gì. Có điều, ông ta
như bị ma xui quỷ khiến, nhất quyết không chịu buông bỏ. Ông ta đoán trong những
quan tài nhỏ còn vẫn còn thi khí hóa thành thi tiên, bèn dẫn người đi tìm núi
Quan Tài, sau nhiều lần xem xét hình thế địa mạch, mới biết đây là địa mạch Bàn
Cổ đã có từ thuở hỗn độn sơ khai, trong thuật phong thủy, chính là một thi mạch
được quần long bao bọc. Nhưng mấy nghìn năm trước, những phù thủy thời xưa vì
muốn lấy “hoạt đơn,” đã hết đào rồi lại chôn, chôn rồi lại đào trong lòng núi,
khiến địa mạch đứt đoạn. Ngoài ra, khi Quan Sơn thái bảo trộm mộ, đã phá hoại
long khí trong sơn động hình đầu người mai táng Ô Dương Vương kia. Hai địa mạch
phong thủy kì tuyệt ấy, đều đã hỏng mất.
Phong Soái Cổ tự cho mình có năng lực quỷ thần khó
đoán, dự định biến núi Quan Tài thành âm trạch để mình thành tiên trong đấy, liền
giở thủ đoạn dụ hoặc dân chúng, tự xưng là Địa Tiên tổ sư, rêu rao mình đã nhìn
trộm được thiên cơ trong mộ cổ, nói với mọi người rằng thế gian sắp có nạn binh
đao, trong núi có một động phủ thần tiên còn hơn cả chốn thế ngoại đào viên, có
thể tránh họa, ai không tin tức là ác nghiệp của kẻ ấy còn chưa tiêu tán hết,
phải tiếp tục ở lại trên thế gian này chịu khổ chịu nạn trả nợ.
Nhà họ Phong có uy vọng rất cao, thêm nữa, dấu hiệu
thế đạo suy vi đã rõ như ban ngày, nên có rất nhiều người tin ông ta, dẫn cả
gia tộc theo Địa Tiên vào núi, dốc sức người sức của xây dựng thôn Địa Tiên gồm
hai tầng âm trạch và dương trạch. Bố cục này dựa trên thuật phong thủy cổ xưa,
ý chỉ âm dương hỗn nguyên, chuyên dùng để khôi phục địa mạch long khí.
Trong khi đó, Phong Soái Cổ cũng mang theo một thân
tín, bí mật đào bới thi khí trong núi, cơ hồ lật tung toàn bộ đống quan tài nhỏ
dưới lòng đất lên, trải qua nhiều năm rốt cuộc đã tìm được một thi tiên hình
dáng sinh động như thật, đồng thời biến luôn khe rãnh đào bới ấy thành âm trạch
để giấu của cải sau khi thành tiên. Nhằm giữ bí mật về thi tiên, Phong Soái Cổ
cho chôn Cửu Tử Kinh Lăng giáp bên ngoài núi Quan Tài, để những người theo ông
ta vào thôn Địa Tiên không ai thoát ra được.
Tiên pháp từ thời thượng cổ truyền lại này không thể
chỉ nghĩ đến bản thân, lúc Địa Tiên nhập quan, tất cả đều phải thắp nến đốt đèn
cùng ông ta vào trong mộ bồi táng. Trong trang viện nhà họ Phong ở thôn Địa
Tiên có một nấm mồ máu, khi nào nấm mồ rỉ ra thi huyết, thì chính là điềm báo
long khí địa mạch của núi Quan Tài sắp khôi phục, các thi thể tiềm dưỡng dưới đất
sẽ có thể được độ hóa thành tiên. Người có duyên đời sau, dựa vào “Quan Sơn chỉ
mê phú” tìm được nơi đây, có thể đến mộ Địa Tiên khấu lạy chân tiên.
“Quan Sơn chỉ mê phú” là do Phong Soái Cổ lưu lại
lúc sinh tiền, theo như đoạn ghi chép cuối cùng trong sách, ông ta miệng ngậm “hoạt
đơn,” được môn đồ bỏ vào quách đá chôn sống, còn sau này xảy ra chuyện gì thì
không thể biết được nữa.
Tôn Cửu gia đọc xong phẫn hận vô cùng: “Thật không
ngờ nhà họ Phong chúng tôi lại nảy nòi ra tên Phong Soái Cổ này, ông ta đúng là
ác quỷ, để bao nhiêu người tuẫn táng theo mình như vậy, nếu không đem xương cốt
kẻ này hóa thành tro bụi, thử hỏi sao có thể an ủi hàng nghìn hàng vạn oan hồn
chết uổng đây?”
Tôi không hiểu được tâm tình của loại người xuất
thân trong những gia tộc phong kiến vốn coi tổ tiên gia tộc còn lớn hơn trời
như giáo sư Tôn, thầm nhủ: “Lão này vẫn tơ tưởng đến thời hoàng kim của giai cấp
địa chủ thuở trước, chắc là từ sau Giải phóng chưa được bữa no nào, khó tránh
khỏi cứ hoài niệm mãi những chuyên xưa cũ.” Nhưng điều khiến tôi khó hiểu hơn
là nội dung bên trong Quan Sơn quật tàng lục và mấy bức tranh kia đều quá đỗi
li kì, xem chừng không giống giả dối bịa đặt “hoạt đơn” hóa thành thi tiên, liệu
có phải chính là đơn đỉnh mà chúng tôi cần tìm hay không? Địa Tiên Phong Soái Cổ
bị chôn sống trong quan tài giờ ra sao rồi? Những người tuẫn táng theo ông ta đều
chết trong mộ ư?
Shirley Dương lấy làm khó hiểu hỏi: “Số người đi
theo Phong Soái Cổ vào núi phải lên đến hàng nghìn hàng vạn, nhiều người như vậy
cùng đâm đầu vào chỗ chết, chẳng lẽ trong đó không ai nghi ngờ hành vi của ông
ta hay sao?”
Tôn Cửu gia nói: “Xét về lâu về dài, cặp mắt của quần
chúng nhân dân đều rất tinh minh. Nhưng giữa thời loạn thế, lòng người đa phần
đều tối tăm ngu muội. Phàm những trò tụ tập quần chúng kiểu ấy, chỉ cần giơ ra
chiêu bài chân mệnh, thiên đạo là có thể nhất hô bá ứng, khiến đám ngu dân một
lòng một dạ tin theo. Chuyện này đã có rất nhiều tiền lệ...” Lão ta ngừng lại một
chút, rồi tiếp lời: “Không phải không có người thầm nghi ngờ, chẳng qua số lượng
quá ít, nói ra lúc bấy giờ cũng chẳng có sức nặng. Ông tổ Phong Soái Kỳ của tôi
chính vì hiểu được Địa Tiên giở trò mê hoặc mọi người, nên mới bỏ đi tránh họa,
giữ lại cho nhà họ Phong một tia huyết mạch, truyền đến đời tôi, cuối cùng cũng
có cơ hội vào được núi Quan Tài, thiết tưởng đây chính là báo ứng của Phong
Soái Cổ rồi. Kẻ đáng hận nhất trên đời, ngoài hạng vong ân phụ nghĩa ra, thì
chính là loại khinh sư diệt tổ này đây.”
Tôi nói với Tôn Cửu gia và Shirley Dương: “Quyển
Quan Sơn quật tàng lục này của Phong Soái Cổ không nói rõ thi tiên rốt cuộc là
gì, có thể vì sự tình cơ mật, chỉ có mình ông ta biết thôi. Chúng ta muốn vào mộ
Địa Tiên, trước tiên cần chuẩn bị tâm lí sẵn sàng, có lẽ sẽ xảy ra tình huống
giống như trong Quan Sơn ngộ tiên đồ đấy.”
Tình cảnh trong mộ Địa Tiên khó lòng suy đoán, tôi
nói vậy là có ý hi vọng chỉ có giáo sư Tôn, tôi và Tuyền béo vào mộ khai quan.
Trang viện nhà họ Phong này xem ra vẫn còn an toàn, chi bằng để Shirley Dương
và Út ở lại đây chờ là hơn, nhưng đang nói giữa chừng, bỗng nghe phía cầu thang
vang lên tiếng bước chân, Tuyền béo và Út đã xồng xộc chạy lên.
Thường có câu, gặp nhau chớ hỏi chuyện thăng trầm,
nhìn sắc mặt ấy liền biết ngay. Tôi vừa thấy vẻ mặt hai người hớt hải, liền biết
chắc bên ngoài có chuyện xảy ra. Quả nhiên Tuyền béo vừa mở miệng đã nói: “Nhất
ơi, sao tôi có cảm giác nơi này sắp xảy ra chuyện gì lớn lắm, cậu mau xem bên
ngoài kia kia?”
Tôi nghe vậy vội đẩy cửa sổ ra, cả bọn xúm quanh
nhìn ra bên ngoài, người nào người nấy đều hết sức kinh ngạc. Thì ra, núi Quan
Tài này bị một ngọn núi cao cả nghìn mét áp lên, khối núi bên trên tựa như một
nấm đất đắp, trong lòng núi là một khoảng không trống rỗng, trùm kín lên toàn bộ
núi Quan Tài. Ở trong thôn Địa Tiên ngẩng đầu nhìn lên, không thấy bầu trời, chỉ
toàn thấy đất đá nham thạch. Lúc này, trong tầng nham thạch trên đỉnh đầu chợt ẩn
hiện huyết quang, từ các khe đá tuôn ra rất nhiều khói mù đỏ sậm, một mùi tanh
thối lạnh lẽo lan tỏa trong không khí, bốn phía vẫn chìm trong bóng đêm tĩnh lặng.
Tuyền béo nói: “Nhìn thấy chưa, xem chừng trong núi
này không phải bầu trời khu giải phóng rồi, mưa máu gió tanh của khủng bố trắng
sắp sửa ập đến, muốn đổ đấu mò vàng phải nhanh nhanh ra tay đi, chậm trễ là
không ra ngoài được nữa đâu.”
Tôi cũng biết có thể chuyện lớn khó thành, nhưng để ổn
định lòng quân, đành nói cứng: “Tư lệnh Tuyền đừng dọa dẫm linh tinh, trong đội
ngũ Mô Kim hiệu úy chúng ta có quân nhân, có lão Cửu, lại có cô em xóm núi,
đúng là một ê kíp điển hình, đi đâu cũng chẳng sợ, có cục diện gì mà chúng ta
không ứng phó được chứ?”
Trong lúc nói chuyện, chợt nghe trên bầu không vang
lên tiếng sấm ì ùng, máu tanh rải xuống như mưa. Tôi lấy làm kinh hoảng: “Dưới
lòng đất lại đổ mưa máu à?” Tôn Cửu gia cuống cuồng đóng sập cửa sổ lại: “Đây
là thi huyết trên Cửu Tử Kinh Lăng giáp, những người đang bị thương ngàn vạn lần
chớ để dính vào. Phong Soái Cổ đã ghi chép lại rất tỉ mỉ những chuyện ở núi
Quan Tài, để tôi xem có còn lối thoát nào khác không.” Nói đoạn, liền rúc vào một
góc tường tiếp tục lật giở cuốn sách, không nói năng gì nữa.
Nghe nói, Cửu Tử Kinh Lăng giáp là một loại gỉ đồng
ngâm tẩm trong máu của xác chết, hình dạng vừa tựa rặng san hô, vừa giống bộ rễ
của thực vật, sau khi chôn xuống đất sẽ ngày càng lan rộng. Dịch thể của thứ
này tiết ra gần giống như thi huyết, độc vô cùng.
Trận mưa máu này đến nhanh đi cũng nhanh, thoáng cái
đã tạnh, chỉ có sương máu vẫn ngưng tụ không tan trên tầng nham thạch. Shirley
Dương nghe tiếng mưa đá ngớt, liền ngó qua khe cửa sổ, đoạn nói với tôi: “Xem
ra Kinh Lăng giáp đã đâm xuyên tầng nham thạch, đang vươn dần vào bên trong núi
Quan Tài, áng chừng chỉ vài năm nữa, cả thôn Địa Tiên đều sẽ bị thứ này nuốt chửng.”
Tôi nói, thuật bảo vệ lăng mộ này vốn là mối họa khó
bề khống chế, Phong Soái Cổ tự cho rằng bản thân thần cơ diệu toán, nhưng rốt
cuộc lại mua dây buộc mình, dù chúng ca không đến đổ đấu thì thôn Địa Tiên này
sớm muộn cũng bị Kính Lăng giáp phá hủy thôi.
Tuyền béo thảng thốt kêu lên: “Thế chẳng phải uổng
phí đám minh khí trong mộ sao? Tôi đã bảo mà, Tuyền béo này không thể mắt lấp
tai ngơ trước chuyện này được, mở mắt trân trân khoanh tay đứng nhìn không phải
tác phong làm việc của chúng ta. Tôi phải vác hết chúng nó về chi viện cho sự
nghiệp vĩ đại của chúng ta, cho cái thằng cha Antonioni(30)kia tức chết đi!”
Nói rồi, cậu ta liền dang tay dang chân, bắt đầu vơ vét những bình sứ, lọ thuốc
vào ba lô.
(30)
Michelangelo Antonioni, đạo diễn người Ý. Năm 1972, ông quay một bộ phim về
Trung Quốc, trong đó có một vài cảnh bất nhã, và bị phản đối ở Trung Quốc.
Vừa nãy tôi đã xem qua những bình sứ ấy, bên trong
không có thi đơn mà chúng tôi muốn tìm, đang định bảo Tuyền béo đừng nhặt mấy
thứ không liên quan ấy làm gì, chợt thấy Tôn Cửu gia mệt mỏi ngồi gục xuống đất,
hai mắt đờ đẫn bất động, sắc mặt còn khó coi hơn cả xác chết.
Tôi đang định cất tiếng hỏi, chợt thấy Tôn Cửu gia gấp
cuốn Quan Sơn quật tàng lục lại, thần sắc ảm đạm vô cùng, lão ta thở dài một tiếng,
nói: “Ý trời, chúng ta chắc chắn không làm gì được Phong Soái Cổ rồi.” Tôi hỏi
lão ta nói vậy là có ý gì, Tôn Cửu gia liền đáp: “Quan Sơn thái bảo giỏi xem
tinh tướng, thật sự cũng có vài phần thần cơ diệu toán. Ông ta để lại Quan Sơn
chỉ mê phú tổng cộng bảy mươi hai câu, nhưng các cậu hãy xem trong cuốn Quan
Sơn quật tàng lục này, vẫn còn một đoạn “sương máu nhập địa, quần tiên rời núi”
nữa, truyền thuyết năm xưa quả nhiên là thật, giờ đây dưới lòng đất xuất hiện
sương máu, há chẳng phải đã ứng nghiệm hay sao? Xem ra không phải ông ta tính
toán không chuẩn, mà là liệu sự như thần, tính toán quá chuẩn xác. E rằng thi
tiên có thể phá quan tài nhập thế bất cứ lúc nào. Đây là việc đã được định sẵn,
chúng ta đến không đúng lúc, không ai có thể ngăn cản được rồi...”
Tôn Cửu gia là truyền nhân cuối cùng của nhà họ
Phong, ông ta muốn lợi dụng Mô Kim hiệu úy tìm kiếm mộ cổ, lại sợ bị bỏ rơi giữa
đường, nên từ đầu đã không chịu nói cho cả bọn biết toàn văn bài “Quan Sơn chỉ
mê phú” thực sự, giờ cả bọn chúng tôi đã vào đến núi Quan Tài, cũng không để
tâm đến những câu vè khó hiểu ẩn giấu ám thị này làm gì nữa, chẳng ngờ cuối
cùng lại lòi ra thêm một câu, cái gì mà “sương máu nhập địa, quần tiên rời núi.”
Chẳng lẽ lão địa chủ Phong Soái Cổ này còn muổn mượn xác hoàn hổn, trở ra thế
giới bên ngoài tranh đoạt quyền binh chắc? Tôi thực không thể nào lí giải được
suy nghĩ của Tôn Cửu gia nữa, chuyện này ngay cả tôi còn chẳng tin, ông ta cũng
là bậc lão thành cách mạng nhiều năm qua lại với cổ vật rồi, tại sao còn tin
theo như thế?
Shirley Dương kéo tôi sang một bên nói: “Giáo sư Tôn
đã phải chịu đựng áp lực nặng nề về tinh thần trong nhiều năm, tuy rằng chưa
điên, nhưng thường có một số phản ứng như người bệnh thần kinh, các anh đừng
kích động ông ta nữa.” Tôi đáp: “Oan quá, anh làm gì có bản lĩnh kích động ông
ta chứ? Ông ta kích động anh mới đúng. Em xem có phải ông ta bị chập mạch rồi
không? Cứ nói toàn những lời không đâu vào đâu, hình thế khu vực hẻm núi Quan
Tài này thế nào chúng ta đều tận mắt chứng kiến rồi, dẫu cho trời long đất lở
thôn Địa Tiên này cũng quyết không thể nhìn thấy mặt trời, đá vụn rơi xuống sẽ
chôn vùi nó ngay lập tức, vả lại cổ thi trong mộ làm sao tự bò ra được chứ?”
Shirley Dương nói: “Nếu bảo rằng Địa Tiên có phép
tiên tri thì em cũng không tin. Nhưng em thấy Phong Soái Cổ này quả thực tinh
thông thuật bói toán, lại nắm rõ địa thế địa hình của núi Quan Tài như lòng bàn
tay, có lẽ trong núi thật sự sẽ xảy ra một số sự việc không thể tưởng tượng nổi.”
Tôi hiểu ý của Shirley Dương, trong sự phát triển biến
hóa của sự vật hiển nhiên tồn tại một quy luật khách quan nhất định, đa số những
quy luật ấy có thể suy đoán ra được, nhưng nhân tố mấu chốt quyết định thành bại
trong đó đều không phải do con người tính toán, vì vậy mới có câu “người tính
không bằng trời tính.” Thứ thần toán của Phong Soái Cổ, có lẽ nằm giữa trời và
người, rốt cuộc ông ta có thể suy tính đến mức độ nào thì trước mắt chúng tôi
không ai phán đoán được, nhưng ít nhất ông ta đã tính ra Cửu Tử Kinh Lăng giáp
sẽ xuyên xuống lòng đất, từ đó làm xuất hiện sương máu trong thôn Địa Tiên, sự
thực đúng như những gì ông ta lường trước, vì vậy rất khó khẳng định thi thể
Phong Soái Cổ cuối cùng có rời khỏi huyệt mộ trở ra thế giới bên ngoài hay
không.
Tôi bảo Shirley Dương: “Núi Quan Tài này là hung huyệt,
chắc hẳn thi thể bên trong mộ Địa Tiên đều có thi độc, nếu nó rời núi thật, ắt
sẽ gây họa rất lớn. Chúng ta đành phải ra tay trước, mặc kệ có tìm được thi đơn
hay không cũng phải nghĩ cách khai quan hủy xác, trừ tiệt hậu hoạn đi.”
Lúc này, đèn của chúng tôi đã sắp hết pin, ánh sáng
yếu hẳn đi, tuy vẫn còn pin dự phòng, có điều, không biết còn phải là trong khu
mộ cổ dưới lòng đất này bao lâu nữa, mọi thứ đều phải có gắng tiết kiệm hết mức.
Tôn Cửu gia đề nghị: “Thắp nến lên đi, đèn pin, đèn rọi tốt nhất giữ lại đến
lúc cần thiết hãy dùng.”
Quan Sơn thái bảo tinh thông những thuật huyễn hóa
hư ảo, đa phần đều là tà thuật từ thời Đường, thời Ngũ Đại, có thể thông qua
thiêu đốt xác chết của những loài rắn, mèo, cáo để tạo ra ảo ảnh. Tôi thấy xung
quanh không có mê hương hay thứ gì tương tự, bèn bảo Tuyền béo lấy ra nửa cây nến,
là loại mua trong tiệm tạp hóa nhà Út trước khi vào núi, thắp lên chiếu sáng.
Dưới ánh nến, tôi xem xét kĩ lại phần ghi chép về
thôn Địa Tiên và núi Quan Tài trong Quan Sơn quật tàng lục, nghĩ cách tìm một
con đường ngắn nhất tiến vào huyệt mộ nơi Địa Tiên giấu xác, những người còn lại
cũng chia nhau lật tìm các thứ trong lầu. Tôi đang ngây người ra xem, đột nhiên
nghe Tôn Cửu gia kêu một tiếng “hỏng bét,” đoạn thổi tắt ngọn nến đánh phụt,
Tàng Cốt lầu lập tức chìm trong bóng tối