Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 38

CHƯƠNG
38:CỬU TỬ KINH LĂNG GIÁP

Gia tộc họ Phong ở Thanh Khê đều biết Phong Soái Cổ
gặp được một số sự vật vô cùng thần bí bên trong mộ cổ Ô Dương Vương, tương
truyền là thứ cực kì cổ xưa, nhưng tình huống thực sự thế nào, ngoài bản thân
Phong Soái Cổ ra, suốt mấy trăm năm nay không ai hay biết cả, ngay những người
cực kì thân thiết với ông ta cũng hoàn toàn mù tịt.

Theo như truyền thuyết lưu truyền ở nhà họ Phong nhiều
đời nay, từ sau khi đào bới mộ cổ trong hẻm núi Quan Tài, Phong Soái Cổ trở về
nhà đóng cửa không ra ngoài, ba tháng sau đột nhiên tự xưng mình đã đắc thành đại
đạo, đồng thời tuyên bố thiên hạ sắp rơi vào một kiếp nạn lớn, chỉ có một lối
thoát duy nhất trong hẻm núi Quan Tài, có thể nói là chốn động tiên, sánh ngang
Đào Hoa Nguyên mà người Tần tránh nạn năm xưa.

Phong Soái Cổ tự xưng là địa tiên, một lòng muốn độ
hóa người phàm, ông ta dồn hết tâm sức, tiến hành xây dựng Địa Tiên âm trạch
trong núi sâu, bao nhiêu cổ vật tổ tiên thu được khi trộm mộ đều cất giấu vào
trong đó. Trải qua mười mấy năm, rốt cuộc công trình cũng hoàn thành, sau đó,
ông ta lại thông cáo với chúng nhân, nếu muốn được thân gió cốt mây, có thể xuất
nhập tự do, hư không thanh tĩnh, nhất thiết phải bỏ đi tấm thân máu thịt phàm tục,
những người tự nguyện vào mộ chôn sống mới có khả năng thành tiên, mấy trăm năm
sau sẽ đắc thành đại đạo, cùng Địa Tiên trở về thế gian, độ hóa cho mọi người
trong thiên hạ, tạo thành công đức lớn lao vô kể.

Đương thời, Quan Sơn thái bảo được hoàng gia khâm điểm,
rất có danh vọng ở mạn Vu Sơn Thanh Khê, nhất là Phong Soái Cổ lại tinh thông
yêu thuật vu cổ, mười nhà thì có đến chín nhà tin theo ông ta, đám ngu dân ấy đều
nguyện ý cùng ông ta tu luyện thuật Quan Sơn chỉ mê. Những người tu tập thứ yêu
pháp ảo thuật này có rất nhiều điều kị húy, một là sợ máu chó đen, hai là sợ
móng lừa đen, ba là sợ chu sa, hễ thấy những vật này ắt sẽ “bại lộ hành tung,
nát gan vỡ mật.”

Thuật Quan Sơn chỉ mê nhìn bề ngoài có vẻ huyền diệu,
kì thực cũng không ngoài những thủ đoạn nuốt bùa phun nước, âm binh phù chú, đa
phần đều là tổ tiên nhà họ Phong học được từ Long cốt thiên thư trong quan tài
treo ở hẻm núi Quan Tài, nói dễ nghe thì là phương thuật thời xưa, còn nói trắng
ra chính là tà pháp yêu thuật giả thần giả quỷ.

Nhưng ở thời đại đó, càng là kẻ tà ma ngoại đạo thì
càng dễ mê hoặc nhân tâm, vì vậy Phong Soái Cổ vừa bảo muốn độ người đắc đạo,
nhất thời kẻ đi theo liền ùn ùn kéo đến như mây, nửa muốn cầu tiên, nửa muốn
tránh họa, già trẻ gái trai trong vùng đa phần đều theo ông ta vào thôn Địa
Tiên.

Trong nhà họ Phong có một nhóm nhỏ không muốn đi cầu
tiên, Địa Tiên Phong Soái Có cũng không miễn cưỡng, chỉ dặn dò bọn họ phải giấu
lối vào mộ cổ thật kĩ, đồng thời để lại cho hậu nhân một bài “Quan Sơn chỉ mê
phú,” yêu cầu giữ kín bí mật, đặc biệt không thể cho đám Mô Kim hiệu úy biết được
căn nguyên. Ông ta mạo hiểm lưu lại một con đường bí mật này, là để chuẩn bị
cho con cháu nhà họ Phong đời sau nếu có gặp nạn, có thể chiêu tập những người
phàm muốn được độ hóa chạy vào động tiên trong núi Quan Tài. Nếu như năm xưa hủy
được hết bùa Mô Kim thì cũng không cần tốn công tốn sức bày bố thế này.

Phong Soái Cổ tính toán hết sức chu toàn tỉ mỉ, tuy
rằng hẻm núi Quan Tài đầy mây mù phong tỏa long mạch, khó có thể dùng quyết chữ
“vọng” để thăm dò, nhưng vẫn để lại bài “Quan Sơn chỉ mê phú” cực kì bí hiểm
khó nhằn. Đã thế, ông ta còn chưa yên tâm, lại bố trí thêm Cửu Tử Kinh Lăng
giáp ở xung quanh. Đây là một dị thuật tổ tiên nhà họ Phong có được từ thời
Quan Sơn trộm mộ, kì dị khó lường, người đời sau hầu như không biết đến, bình thường
người nào muốn tiếp cận mộ cổ Địa Tiên, đều sẽ bỏ mạng trong vòng vây khốn của
Cửu Tử Kinh Lăng giáp. Giáp này được bố trí bí mật dựa theo tuần hoàn của địa
chi, cứ mỗi giáp, tức là mười hai năm, Sinh môn của trận pháp sẽ mở ra trong ba
ngày vào một tháng nào đấy của năm Tý, cứ mỗi mười hai năm lại có ngày tháng
tương ứng khác nhau, không ngừng tuần hoàn biến đổi, người ngoài khó mà suy
đoán được. Đây là thứ chuyên dùng để đối phó với các Mô Kim hiệu úy vào núi tầm
long đoạt bảo.

Trong nhóm người không vào mộ cổ Địa Tiên ấy, có một
người anh em con chú con bác với Phong Soái Cổ, theo gia phả, ông ta và Phong
Soái Cổ đều thuộc hàng chữ “Soái,” tên là Phong Soái Kỳ, lệnh bài Quan Sơn của
Minh Thái Tổ truyền đến đời chữ Soái, ông ta cũng có một cái.

Chi mạch của Phong Soái Kỳ đều lưu lại bên ngoài
núi, bởi ông ta cho rằng di huấn của tổ tiên không thể làm trái, tự tiện tiến
vào âm trạch trong núi Quan Tài, sớm muộn gì cũng chuốc lấy đại họa khủng khiếp,
nên đã đưa cả nhà rời khỏi Tứ Xuyên.

Phong Soái Kỳ cũng là cao nhân có kiến thức, trước
lúc lâm chung, ông ta đã dặn dò con cháu, trong hẻm núi Quan Tài đích thực có “thi
tiên,” trong lòng núi ấy có hai mảnh đất báu phong thủy, mảnh nhỏ hơn hình dạng
như đầu người, thời cổ từng được Di Sơn Vu Lăng Vương xây làm địa cung để chôn
xác.

Theo lí thuyết phong thủy từ thời thượng cổ, mảnh đất
long mạch hình dạng như đầu người này thực ra là đất hung sát, chuyên để mai
táng bạo quân, muốn thanh trừ khí hung sát tích tụ trong địa mạch, phải chôn
theo rất nhiều người sống, vì vậy thi cốt của những kẻ bị tuẫn táng trong mộ cổ
ấy chất chồng từng lớp, xung quanh lăng mộ lại đầy những quan tài treo, số lượng
đến nay đã không thể tính toán, có thể nói, từng viên gạch, từng tấc đất trong
mộ, đều bị thi khí thẩm thấu.

Sau khi Địa Tiên Phong Soái Cổ trộm ngôi mộ này, khí
hung sát trong mộ đã bị phá, nhưng Phong Soái Cổ lại phát hiện trong số tế phấm
bồi táng có rất nhiều đồ tế bằng đồng xanh, biết được trong hẻm núi Quan Tài
còn một mảnh đất báu phong thủy lớn hơn, mảnh đất này ẩn sâu trong núi, hình dạng
tựa như một chiếc quan tài đá khổng lồ không có nắp, kì diệu nhất là không gian
bên trong rộng đến mấy dặm, vách đá xung quanh có hình rồng hình phượng tựa như
ván quan tài thật, nhưng tuyệt đối không phải do bàn tay con người đục đẽo, mà
được hình thành một cách tự nhiên; trong quan tài đá khổng lồ này, có gò đồi nhấp
nhô, mọc vô số loại kì hoa dị thảo, kì lạ hơn là, bên trong khoảnh đất có địa
thế như quan tài đá ấy, có một “cái xác không đầu,” vừa khéo ứng hợp với “đầu
người” ở phía xa kia.

Ngọn núi Quan Tài này có từ thuở trời đất mới phân
khai, đã tồn tại trên đời hàng ức vạn năm rồi. Thuở bấy giờ, hỗn độn mới phân,
dưới gầm trời này còn chưa có con người nói gì quan tài, vì vậy ngọn núi Quan
Tài và “cái xác không đầu”ở trong lòng đất kia, chắc chắn không phải do bàn tay
con người mà là do thiên địa tạo hóa, tự sinh tự thành.

Ở vùng Vu Hiệp, Ba Sơn này, từ thời cổ đã thịnh hành
các thuật phù thủy, núi Quan Tài trong lòng núi đã bị người ta phát hiện từ rất
sớm, và duy trì mãi tập tục chôn quan tài ở xung quanh để khu trừ hung khí, khiến
thi khí trong núi càng ngày càng nặng nề, đến thời Tùy Đường, trong vùng còn rộ
lên tin đồn bên trong núi Quan Tài có “thi tiên.” Nhưng “thi tiên” rốt cuộc là
thứ gì, thì chưa có ai trông thấy.

Phong Soái Kỳ đến chết vẫn cho rằng, tiên đạo chỉ là
thứ hư ảo xa xăm, trên đời này kể cả có tiên gia thật chăng nữa, cũng tuyệt đối
không thể có xác cổ nào hóa thành tiên được, cương thi là vật chết mà không hóa
trên thế gian, thứ trong núi Quan Tài kia không phải yêu tinh thì cũng là ma
quái, chắc chắn chẳng phải chân tiên gì, nhưng thủ lĩnh Phong Soái Cổ của Quan
Sơn thái bảo đã quyết ý xây dựng âm trạch trong núi Quan Tài để tìm kiếm thi
tiên, đâu chịu để lời khuyên của ông ta vào tai.

Phong Soái Kỳ không biết rốt cuộc vì cớ gì mà Phong
Soái Cổ lại tin tưởng chắc chắn như thế, còn cho rằng ông ta đã bị ma quỷ trong
mộ cổ Ô Dương Vương mê hoặc tâm trí, hẳn đã rơi vào ma đạo. Chẳng những vậy, thần
thái cử chỉ của Phong Soái Cổ sau khi từ trong mộ cổ trở ra cũng khác hẳn người
sống, khí sắc trên mặt hệt như một cỗ cương thi vậy. Sau nhiều lần khuyên can
vô ích, Phong Soái Kỳ đành tự giữ lấy thân, dẫn theo những người còn lại rời bỏ
quê hương, trước lúc lâm chung còn để lại di chúc, bảo con cháu đời sau tìm cơ
hội, dựa vào “Quan Sơn chỉ mê phú” lén thâm nhập mộ cổ Địa Tiên xem xét tình
hình, nếu Phong Soái Cổ đã trở thành yêu vật, thì phải nghĩ cách trừ diệt ngay,
bằng không, dù địa thế núi Quan Tài rất bí ẩn hẻo lánh, nhưng sớm muộn gì cũng
có ngày nó bị đào ra, đến lúc ấy ngộ nhỡ trong mộ có “thi tiên” gì đó thật, ắt
hẳn sẽ nhập thế hại người, hậu họa vô cùng vô tận.

Phong Soái Kỳ vốn cũng là bậc kì nhân nhiều thủ đoạn,
việc xây dựng mộ cổ Địa Tiên cũng có phần tham dự của ông ta, nhưng khi dời nhà
khỏi Thanh Khê, vừa hay gặp đúng lúc thiên hạ có loạn lưu khấu, loạn lạc khắp
nơi, không lâu sau ông ta lâm bệnh nặng, đến chết cũng không trở về hẻm núi
Quan Tài nữa. Ông ta chỉ để lại di ngôn: hành vi của Phong Soái Cổ thực sự đã
khiến danh hiệu Đại Minh Quan Sơn thái bảo rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục, con
cháu đời sau nhà họ Phong, nếu không diệt trừ được “thi tiên” thì linh hồn tổ
tiên trên trời vĩnh viễn không thể yên nghỉ được.

Sau khi Phong Soái Kỳ lìa trần, con cháu đời sau rơi
vào cảnh gia đạo suy vi, mỗi lần đến thời điểm có thể tiến vào mộ cổĐịa Tiên trong
năm Tý, nếu không phải vì thời cuộc hỗn loạn thì cũng vì trong nhà có nạn, bao
nhiêu năm vẫn không có được cơ duyên. Lại thêm lịch sử Trung Quốc cận đại đã có
nhiều biến hóa nghiêng trời lệch đất, trải qua thế sự biến thiên, chi mạch của Phong
Soái Kỳ trở nên điêu linh suy bại, dần dần, ngón nghề tổ truyền đã mất hết bảy
tám phần, tuy vẫn còn nhớ được toàn văn bảy mươi hai câu trong bài “Quan Sơn chỉ
mê phú,” và lưu giữ bản đồ dẫn đến mộ cổ Địa Tiên mà Phong Soái Kỳ để lại,
nhưng muốn phá giải “Quan Sơn chỉ mê phú,” cần phải hiểu được kì môn ngũ hành
và bí thuật phong thủy, trong khi đó con cháu nhà họ Phong lại chỉ biết được
chút da lông bề ngoài của những bí thuật này mà thôi.

Vào thời Dân Quốc, hậu duệ của Phong Soái Kỳ có một
người tên là Phong Tư Bắc, từng đọc rất nhiều kinh sách Đạo gia, qua tuổi trung
niên thì xuất gia làm đạo sĩ ở núi Thanh Thành, Tứ Xuyên, song vẫn canh cánh
không quên lời di huấn của tổ tông, nhiều lần tiến vào hẻm núi Quan Tài mà
không thành, cuối cùng tọa hóa trong đường hầm, đồng thời dặn dò hai đứa con
trai, nếu con cháu nhà họ Phong không trừ được “thi tiên” thì đừng thu nhặt
xương cốt ông ta về an táng, ông ta muốn phơi thây ở đây để tận mắt chứng kiến
có người tìm được lối vào mộ cổ Địa Tiên. Cái xác ở chỗ bia đá đầu đường hầm tận
cùng điểu đạo, chính là người này.

Phong Tư Bắc có hai đứa con, theo sắp xếp trong gia
phả: Tư, Học, Ngôn, Đạo, hai người này thuộc hàng chữ “Học,” một người là Phong
Học Văn, người nhỏ hơn là Phong Học Vũ, hai anh em cách nhau sáu tuổi, sau khi
cha chết, cả hai không còn người thân nào khác, chỉ biết nương tựa vào nhau lưu
lạc khắp chốn.

Sinh vào thời chiến loạn, sống sót cũng khó khăn,
hai anh em họ đành tạm thời gác lại di nguyện của tổ tông, người anh Phong Học
Văn định vào núi làm cướp, tìm đường sống giữa chốn lục lâm. Trước lúc ra đi,
Phong Học Văn đãcho em trai vào một nhà giàu họ Tôn làm con thừa tự, đổi tên
thành Tôn Học Vũ, cũng chính là giáo sư Tôn này.

Từ đó trở đi, hai anh em bặt tin nhau. Vì chiến
tranh, nhà họ Tôn cũng phải chạy khỏi quê hương, những gì Tôn Học Vũ trải qua
sau này đại khái đều giống như ông ta kể khi trước. Vì tổ tiên có sự tích Quan
Sơn đạo cốt, nên từ nhỏ ông ta đã biết đọc một số chữ cổ, sau này lại học thêm,
rồi đảm nhiệm công việc phá giải giáp cốt văn và một số loại văn tự Cổ thần bí
khác trong ngành khảo có, tới khi bị đẩy về Quả Viên Câu lao động cải tạo, mới
gặp lại người anh Phong Học Văn cũng bị đưa về đó.

Hai anh em trùng phùng, không khỏi cảm thán tạo hóa
trêu ngươi, chẳng ngờ lại gặp nhau trong tình cảnh này. Hỏi ra mới biết, từ lúc
biệt li, Phong Học Văn quả nhiên đã gia nhập giới lục lâm, vì vẫn còn hiểu được
chút chút thuật Quan Sơn trộm mộ gia truyền, nên đã mai danh ẩn tích, lên Thường
Thắng sơn, trà trộn vào đám người phái Xả Lĩnh.

Không lâu sau, người đứng đầu Thường Thắng sơn mất
tích, trong vòng mấy năm, đám cường đạo Xả Lĩnh có lịch sử truyền thừa từ đời
Hán đã hoàn toàn tan rã. Trung đoàn trưởng Phong tuy mang tên “Học Văn,” nhưng
ghét nhất là đọc sách, thà chết cũng không chịu về quê làm ruộng, vừa khéo lúc
đó, lại quen được với hai gã đồng bọn người Tây Bắc trong đám đạo tặc Xả Lĩnh,
hai người này là anh em, người anh tên Lão Dương Bì, người em tên Dương Nhị Đản.

Lão Dương Bì hèn nhát nhu nhược, gan nhỏ như chuột,
còn người em Dương Nhị Đản lại có dã tâm không nhỏ, sau khi băng cướp Thường Thắng
sơn tan vỡ, Dương Nhị Đản kéo theo một đám người, chuẩn bị đến ba tỉnh phía
Đông Quan Ngoại mở núi lập hội, còn toan tính làm một vài vụ trộm mộ lớn.

Trung đoàn trưởng Phong bấy giờ còn trẻ tuổi, cảm thấy
làm cường đạo cũng rất tốt, có ăn có uống, còn có thể ngủ với đàn bà, thấy tên
nhà giàu nào không thuận mắt liền xách đao xách súng xông vào cướp con bà nhà hắn
luôn, nam tử hán đại trượng phu ở trên đời phải sống như thế mới sướng, bèn
nghiến răng cùng bọn họ đi ra Quan Ngoại.

Nhưng đến vùng Đông Bắc, ông ta mới biết Dương Nhị Đản
tuy là chưởng quản băng trộm mộ Nê Hội, nhưng lại không có thực quyền, vả lại bọn
này còn bị quân Quan Đông mua chuộc, những phi vụ đó đấu của bọn chúng đều do
quân Quan Đông sai khiến, dường như đang âm mưu tìm kiếm một ngôi mộ chôn Hoàng
đại tiên gì đó.

Tổ tiên nhà họ Phong từng trộm một ngôi yêu lăng đời
Đường, trong mộ cổ ấy có một bộ cương thi của hồ ly, tương truyền đây là huyệt
mộ của tà giáo vốn là tiền thân của Nguyên giáo, bên trong có rất nhiều ảo thuật,
yêu thuật, động vào loại mộ phần này rất dễ chuốc họa vào thân. Ngoài ra, trung
đoàn trưởng Phong tuy có máu cường đạo trong người, chỉ thích giết quan tạo phản,
nhưng đồng thời cũng là một hán tử rất có cốt khí, người trong giới lục lâm đa
phần đều là hạng coi trọng nghĩa khí, từ xưa đã có bản sắc Lương Sơn, trong đám
cường đạo Xả Lĩnh ở Thường Thắng sơn đời nào cũng có bậc anh hùng hảo hán cướp
giàu cho nghèo không sợ cường quyền, thử hỏi, ông ta sao chịu đi làm Hán gian
gây họa cho trăm họ được?

Bấy giờ, Dương Nhị Đản dẫn theo đám thổ phỉ Nê Hội cầm
súng lục ép ông ta nhập bọn, trung đoàn trưởng Phong thầm nghĩ, nếu ta tham sống
sợ chết, dối gạt lương tâm đi làm Hán gian, chỉ sợ sau khi chết cũng không còn
mặt mũi nào gặp liệt tổ liệt tông nhà họ Phong, nên cương quyết không chịu tuân
theo, ngược lại còn khuyên nhủ hai anh em Lão Dương Bì một hồi, bảo rằng: chúng
ta đều là hán tử thân cao năm thước, hồi ấy ở Thường Thắng sơn nghĩa khí nhường
nào? Lời Trần thủ lĩnh vẫn còn văng vẳng bên tai, lẽ nào mới mấy năm đã quên rồi
ư? Cớ gì phải uốn gói khom lưng làm chó săn cho bọn Nhật? Tôi thấy, chúng ta
hãy vác súng đi chơi cho bọn quân Quan Đông kia một trận ác liệt vào, vậy mới
không hổ uy danh của băng Xả Lĩnh chúng ta.

Dương Nhị Đản nào chịu nghe khuyên, cuối cùng một lời
không hợp, hai bên lập tức rút súng bắn nhau, trung đoàn trưởng Phong hạ gục bảy
tám tên phỉ, nhưng bản thân cũng bị trúng đạn, bỏ chạy vào trong núi, sau nhiều
trắc trở cuối cùng đã đi theo quân kháng chiến. Những năm ở trong quân đội, ông
ta trải hơn trăm trận, nhiều lần lập được kì công, nhưng vì tật xấu quá nhiều,
nên đến tận khi chiến tranh kháng Mỹ viện Triều kết thúc, Phong Học Văn vẫn chỉ
là một trung đoàn trưởng.

Trung đoàn trưởng Phong chuyển ngành về địa phương
không lâu, liền gặp phải làn sóng xung kích của Cách mạng Văn hóa, có người tố
cáo ông ta từng làm cường đạo và Hán gian. Tội này rất lớn, chỉ kém mỗi tội phản
cách mạng, lại thêm ông ta tính tình không tốt, kẻ nào phê đấu ông ta là ông ta
đập kẻ đó, dù trên đại hội có cả nghìn người, Phong Học Văn cũng dám xắn tay áo
lên trừng mắt chửi nhau với người khác, kết quả, ông ta phải nếm không ít khổ sở.

Cũng may, có cấp trên cũ trong bộ đội bảo vệ ông ta,
kiếm cớ đẩy ông ta về nông trường cải tạo lao động. Khai thác đá ở Quả Viên Câu
tuy cực nhọc, nhưng dù sao cũng còn hơn chuốc lấy họa sát thân vì cái tính nóng
nảy, chẳng ngờ, chuyện này lại giúp ông ta trùng phùng với người em trai đã thất
tán nhiều năm Tôn Học Vũ.

Trung đoàn trưởng Phong nói với Tôn Học Vũ: “Đời này
anh trai cậu đã sống rất sung sướng thoải mái, nhưng giờ chắc không sướng được
nữa rồi, nghe đồn có người đang tra xét gốc gác của anh, nếu bị tra ra được tổ
tiên chúng ta là đại địa chủ, vả lại còn đào trộm mộ, xây hoàng lăng thì sự việc
lại càng nghiêm trọng, chắc chắn sẽ trở thành quan hệ đối địch không thể dung
hòa, vì vậy anh không định ở lại nông trường này chờ chết đâu.

Vừa khéo, năm nay là năm Tý, Sinh môn của Cửu Tử
Kinh Lăng giáp trong thôn Địa Tiên lộ ra, anh nghĩ kĩ rồi, đêm nay anh sẽ bỏ trốn,
trở về hẻm núi Quan Tài ở quê tìm thôn Địa Tiên, nhất định phải dốc hết khả
năng ra hoàn thành di nguyện của tổ tiên rồi mang thi cốt của cha chúng ta đi
mai táng. Chỉ cần làm xong hai việc ấy, dẫu có chết anh cũng không còn gì tiếc
nuối. Nhưng giờ điều anh lo lắng nhất chính là cậu, cậu hãy nhớ lấy lời của kẻ
làm anh này, thời đại bây giờ khác xưa rồi, tuyệt đối đừng bao giờ tiết lộ với
bất cứ ai rằng mình là hậu duệ của Quan Sơn thái bảo, tốt nhất cứ để câu chuyện
này tan rữa trong bụng đi, đối với người ngoài, đời này cậu chỉ có thể dùng một
cái tên thôi, đó chính là... Tôn Diệu Tổ.”

Giáo sưTôn sau khi được nhà họ Tôn nhận làm con thừa
tự, đã đổi cả họ lẫn tên, trở thành Tôn Diệu Tổ, đây là do nhà họ Tôn hi vọng
ông ta có thể quang tông diệu tổ, nhưng sâu thẳm trong lòng giáo sư Tôn vấn
luôn thấy phản cảm với cái tên này, cũng vì ý thức gia tộc của người nhà họ
Phong rất mạnh, bản thân là hậu nhân của một đại tông tộc, sao lại đi quang
tông diệu tổ cho nhà họ Tôn kia được? Nhưng ở dưới mái hiên nhà người, muốn
không cúi đầu cũng khó, sau khi vợ chồng địa chủ họ Tôn qua đời, ông ta thường
tự xưng mình họ Tôn, tên Học Vũ, tên thường gọi là Diệu Tổ. Việc thay đổi đăng kí
trong hộ tịch không thuận tiện, nên vẫn để là Tôn Diệu Tổ, chỉ có những người
thân thuộc với ông ta mới tôn trọng thói quen này, gọi ông ta là Tôn Học Vũ,
trong mọi trường hợp riêng tư, ông ta đều dùng cái tên này.

Cuộc đời Tôn Học Vũ không được thoải mái như trung
đoàn trưởng Phong, làm gì cũng không thuận lợi, lúc nào cũng trắc trở, bấy giờ
ông ta cũng muốn theo anh trai cùng bỏ trốn, nhưng trung đoàn trưởng Phong nói
bên trong mộ cổ Địa Tiên hung cát khó lường, nếu hai anh em ta cùng thiệt mạng ở
đó, thì nhà họ Phong coi như hoàn toàn xong đời, ngộ nhỡ anh có điều gì bất trắc,
sau này còn phải trông chờ cậu nhặt xác giùm nữa.

Vậy là, ông ta để lại Quan Sơn kim bài, bắt Tôn Học
Vũ học thuộc nằm lòng toàn bài “Quan Sơn chỉ mê phú” bảy mươi hai câu, đồng thời
sai con khỉ Ba Sơn lén mang mấy món đồ gia truyền từ thời tổ tiên Phong Soái Kỳ
vào nông trường, giao lại cho Tôn Học Vũ.

Mấy món đồ này, đều là thu hoạch của Quan Sơn thái bảo
trong khi trộm mộ từ mấy trăm năm trước. Bấy giờ Quan Sơn thái bảo chưa được ngự
khẩu phong tước, vẫn còn tự xưng là Quan Sơn thái bảo(27), để lại cho con cháu
mấy bộ Long cốt thiên thư, những món này không bị Địa Tiên Phong Soái Cổ mang
theo vào mộ, trong đó ghi chép toàn phép cổ phong thủy, một khi học hết sẽ hiểu
được mấy phần ảo diệu của “hình, thế, lí, khí,” nhưng nội dung có hạn, muốn đạt
đến cảnh giới “quan sơn tầm long” vẫn tương đối khó khăn.

(27)
Quan này là chữ quan trong quan tài, còn chữ quan trong Quan Sơn thái bảo được
Chu Nguyên Chương ngự phong là quan trong quan sát.

Ngoài ra, còn một việc quan trọng nhất, năm xưa Địa
Tiên Phong Soái Cổ từng đào được một ngôi yêu lăng đời Đường. Nơi ấy là mộ Đỗ
Tiên, tương truyền do một giáo phái thờ cúng hồ tiên thời Đường để lại. Trong
lăng mộ có một cuốn kì thư, ghi chép đủ loại yêu pháp ảo thuật, đồng thời,
trong rương thép vàng bồi táng có rất nhiều vật khí để thi triển phép chướng
nhãn. Trong những vật ấy, có mấy sợi gân rút từ thi thể hồ tiên, trộn với thi cốt
đốt lên, có thể tạo ra ảo giác, nhưng thứ này sử dụng không dễ, cần phải để người
ta nhìn thấy bích họa trong mộ Đỗ Tiên trước, rồi đốt xác lên, mới có thể trông
thấy Đỗ tiên hiện thân, cùng lúc ấy còn phải nghe cả Quỷ âm nữa. Bên trong mộ cổ
Ô Dương Vương, Phong Soái Cổ đã sắp đặt những bức bích họa bóc từ yêu lăng đời
Đường kia. “Quan Sơn chỉ mê phú” ngoài bảy mươi hai câu ra, còn một đoạn cuối ẩn
mật nhất, cũng là đoạn quan trọng nhất, được ẩn giấu trong mộ thất của mộ cổÔ
Dương Vương, đốt xác nghe truyền, ngàn lần chớ quên.

Cuối cùng, trung đoàn trưởng Phong định đập cho Tôn
Học Vũ một gậy ngất xỉu rồi bỏ trốn, đột nhiên sực nhớ ra một việc, lại dặn dò
người em: “Con khỉ Ba Sơn này đã được cha chúng ta huấn luyện từ khi còn sống,
tuổi cao thông linh, có thể hiểu được ý người, chỉ kém anh có mấy tuổi thôi.
Bao năm nay nó vẫn đi theo bên cạnh anh, chuyến này anh đi tìm mộ cổ Địa Tiên,
bất kể sống hay chết, đều sẽ bảo nó trở về báo tin cho cậu. Nếu anh gặp phải
chuyện bất trắc, cậu chính là truyền nhân duy nhất của nhà họ Phong chúng ta,
mười hai năm sau nhất định phải tìm cách đến hẻm núi Quan Tài, xem xem tên
Phong Soái Cổ khi sư diệt tổ kia rốt cuộc có tìm thấy ‘thi tiên’ hay không.”

Tôn Học Vũ biết đã sắp đến lúc sinh li tử biệt, vừa
thương cảm vừa lo lắng, nước mắt lã chã nói: “Anh chinh chiến nửa đời, có thể
nói là kiến thức sâu rộng, bản lĩnh tổ tiên truyền lại anh cũng học được nhiều
hơn hẳn em. Chỉ hận một nỗi, đời này em bị chữ nghĩa lụy thân, trở thành một
tên mọt sách vô dụng, việc mà ngay cả anh cũng không làm được, e rằng đời này
kiếp này em cũng vô vọng mất thôi.”

Trung đoàn trưởng Phong thở dài, vỗ vai em trai nói:
“Chuyện này khó khăn nguy hiểm khôn cùng, quả là làm khổ cho cậu, nhưng nếu cậu
không làm, nhà họ Phong chúng ta có còn người nào khác nữa đâu?” Ông ta thoáng
trầm ngâm, rồi lại tiếp lời: “Nếu sau này cậu cảm thấy mình thân cô lực mỏng,
có thể nghĩ cách tìm Mô Kim hiệu úy tương trợ. Anh từng nghe nói, cuối thời nhà
Thanh vẫn còn một vị Trương Tam Gia chuyên nghề mò vàng đổ đấu, từ khi ấn Phát
Khưu bùa Mô Kim bị hủy vào những năm Vĩnh Lạc thời Minh, trên đời này chắc vẫn
còn lại ba chiếc bùa Mô Kim, thiết tưởng, những bí thuật tầm long của Mô Kim hiệu
úy ấy đến nay vẫn có truyền nhân đấy.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3