Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 37

CHƯƠNG
37: QUAN SƠN CỐT ĐỒ

Giáo sư Tôn nói, nếu muốn làm rõ trong mộ cổ Địa
Tiên rốt cuộc có bí mật gì, trước tiên phải biết được lai lịch của Quan Sơn
thái bảo, đám “trộm mộ Quan Sơn” này vốn có quan hệ rất sâu xa với Lưu Bá Ôn, kì
nhân thời Minh đã truyền lại Bài ca nướng bánh.

Những năm cuối thời Nguyên, thiên hạ đại loạn, để phản
kháng lại chế độ cai trị tàn bạo của triều Nguyên, nông dân khắp nơi ùn ùn khởi
nghĩa, tục ngữ có câu “loạn thế tất xuất kì nhân,” lời này thực không sai.

Bấy giờ, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đuổi người Hồ
trở về Mạc Bắc, lập nên triều Minh. Một hôm, trên điện Kim Loan, ông ta lấy
chuyện nướng bánh làm “tượng,” yêu cầu Lưu Bá Ôn tính toán sự hưng vong của
thiên hạ ngày sau, nhưng thiên cơ khó nói, nên Lưu Bá Ôn bèn sáng tác ngay Bài
ca nướng bánh, dựa theo kết quả bói toán mà soạn thành lời ca, việc hưng vong
thành bại của thiên hạ từ đời Minh trở đi đều giấu cả trong bài ca ấy.

Đây là một truyền thuyết khá phổ biến trong dân
gian, không có trong chính sử. Trên thực tế, Lưu Bá Ôn đúng là đã từng bốc quẻ
bói toán cho Chu Nguyên Chương, nhưng sự việc không phải như trong truyền thuyết
nói.

Vào thời điểm Chu Nguyên Chương còn chưa lưng Bắc mặt
Nam(26), Lưu Bá Ôn đã cảm thấy vị chủ nhân này là chân long thiên tử, tương lai
ắt sẽ lên ngôi cửu ngũ chí tôn, nên mới đầu quân dưới trướng ông ta. Lưu Bá Ôn
lời lẽ bất phàm, đoán sự như thần, rất được Chu Nguyên Chương xem trọng, chuyện
lớn chuyện nhỏ đều hỏi ý kiến, Lưu Bá Ôn lần nào cũng đối đáp trôi chảy, nhiều
lần hiến lên kế hay mẹo lạ.

(26).
Ý chỉ việc đăng cơ làm hoàng đế. Thời xưa coi phương Nam là chí tôn, còn phương
Bắc tượng trưng cho thất bại, thần phục. Cung điện và chùa miếu đều xây theo hướng
chính Nam, chỗ ngồi của bậc đế vương cũng là lưng hướng về phương Bắc, mặt hướng
về phương Nam.

Một hôm, Chu Nguyên Chương dẫn quân giao chiến với
quân Nguyên, lương thảo tiếp tế không đủ, rơi vào cảnh khổ chiến, đúng lúc đó
Lưu Bá Ôn xin gặp, bèn dùng mấy cái bánh nướng duy nhất còn lại khoản đãi, sau
đó hai người bàn về cục thế trước mắt.

Lưu Bá Ôn nói với Chu Nguyên Chương, hoàn cảnh trước
mắt của quân ta tuy gian nan, nhưng ấy chỉ vì thiên thời chưa đến, khi thời cơ
xuất hiện, chúa công ắt sẽ tựu thành bá nghiệp một phương.

Chu Nguyên Chương lờ mờ nghe ra trong lời Lưu Bá Ôn
còn có ý khác, tựa hồ ám chỉ mình sau này có thể làm hoàng thượng, bèn gặng hỏi
thêm, thấy quả nhiên là vậy, bèn nói: “Năm xưa Chu Văn Vương mời Khương Tử Nha
rời núi, đã tự mình dắt Khương Tử Nha đi bên bờ sông tám trăm lẻ tám bước, kết
quả vương triều nhà Chu có được thiên hạ trong tám trăm lẻ tám năm. Nếu đúng
như lời quân sư nói, đời này Chu Nguyên Chương ta có phúc phận khai quốc đăng
cơ, ta không dám mong cầu giang sơn giữ được nghìn năm vạn năm, càng không dám
sánh với bậc thánh quân minh đế như Chu Văn Vương, chỉ cần quốc vận kéo dài được
bốn trăm năm cũng thỏa lắm rồi.” Nói đoạn, ông ta liền nhờ Lưu Bá Ôn bốc quẻ
bói toán, xem xem khí vận của nhà họ Chu liệu kéo dài được bao nhiêu năm.

Lưu Bá Ôn thấy trong trướng vừa hay có mấy cái bánh
nướng, liền lấy đó làm cơ số, chiêm nghiệm ra quẻ tượng, nhưng sau khi được kết
quả cuối cùng, lại giấu giếm không chịu nói với Chu Nguyên Chương.

Chu Nguyên Chương bảo, việc thành bại được mất trên
thế gian đều là ý trời, cứ nói đi đừng ngại, không phải cố kị điều gì hết. Lưu
Bá Ôn bấy giờ mới nói, theo quẻ tượng này, người Hồ tuy sẽ bại vong, nhưng khí
số của Bắc Long vẫn chưa tận, tương lai giang sơn cẩm tú này vẫn rơi vào tay
người Hồ, quốc vận của chúa công chỉ sợ không được bốn trăm năm, thậm chí còn
không đến ba trăm năm.

Chu Nguyên Chương nghe vậy bèn lấy làm kinh hãi.
Nhưng ông ta không lo lắng vì vận nước ngắn dài, vậy thì lo lắng điều gì chứ?
Chủ yếu là bởi những năm Nam chinh Bắc chiến, ông ta từng gặp rất nhiều mồ
hoang mả dại bị trộm mộ phá hủy, đặc biệt là ở vùng phụ cận lăng tẩm các đế
vương nhà Nam Tống, giờ đây chỉ còn lại mấy cái hố sâu lớn, bên trong mọc đầy cỏ
dại, trở thành hang ổ của lũ chồn cáo.

Sau khi nhà Nguyên diệt Nam Tống, những lăng tẩm đế
vương kia đều bị người Hồ vét sạch, thi thể hoàng đế Nam Tống cũng bị chà đạp
giày xéo, lẫn lộn với xương cốt trâu ngựa chó lợn, chôn bên dưới tháp Trấn Nam.
Nhìn di chỉ Tống lăng, thật đúng là thê thảm vô cùng, chốn hoang lương của ngày
nay, xưa chính là nơi quân vương vùi xác, cảnh tượng thật khiến người trông thấy
mà thở dài, nghe thấy mà xót xa trong dạ.

Chu Nguyên Chương nói, nếu người Hồ ở phương Bắc mấy
trăm năm nữa vẫn có thể chiếm cứ thiên hạ thì dù ta có làm hoàng đế cũng chẳng
thể vui sướng cho nổi? Sao lại thế? Trên đời này chẳng ai không chết, giờ nếu
ta có thể đuổi bọn người Hồ về Mạc Bắc, phục hưng giang sơn nhà Hán, xây dựng
lên công nghiệp lớn lao, dĩ nhiên là chuyện vui mừng, nhưng thế gian xưa nay
chưa từng có thuốc tiên bất tử, sinh ra ắt sẽ chết đi, có đầu ắt có cuối, chân
mệnh thiên tử e rằng cũng khó thoát khỏi ngày phải cưỡi rồng về trời.

Thiên tử qua đời tự nhiên sẽ được chôn trong lăng tẩm,
nhưng thử nhìn xem số phận các lăng mộ đế vương Nam Tống Bắc Tống giờ đây thế
nào? Không phải đều bị người Hồ dẹp bằng đó ư? Ta làm hoàng đế, lúc tại vị có
văn thần võ tướng bảo hộ, chết rồi chôn trong hoàng lăng, dù có cắt đặt đại
quân canh giữ, nhưng sớm muộn cũng có ngày nước mất nhà tan, việc thay triều đổi
đại là định số trong lẽ tuần hoàn của thiên đạo, không thể bàn cãi, nhưng chết
người nhất là sau này lại mất nước vào tay lũ người Hồ. Giờ chúng ta đang bình
định Hồ Lỗ, lũ con cháu đời sau của chúng một khi đắc thế, chắc chắn sẽ không
ngại ngần gì trả mối hận hôm nay, vậy hoàng lăng mà ta và con cháu nhập táng há
chẳng phải... đều bị lũ gian tặc đào bới lên mà quật thây thiêu cốt hay sao?

Nhớ đến cảnh tượng hoang phế của lăng tẩm hoàng gia
nhà Tống, rồi lại nghĩ đến số phận bản thân trong tương lai, Chu Nguyên Chương
không khỏi lạnh người, dù có lên ngôi hoàng đế cũng chẳng thấy gì vui sướng.
Chu Nguyên Chương biết Lưu Bá Ôn tinh thông thuật phong thủy, bèn hỏi ông trên
đời này có cách gì khiến cho hoàng lăng vĩnh viễn không bị người Hồ đào lên phá
hủy hay không?

Lưu Bá Ôn nói ngài nghĩ ngợi xa xôi quá, giờ việc cần
suy tính là làm sao giành lấy thiên hạ, chuyện hoàng lăng hãy để khi đại nghiệp
thành tựu hãy tính toán cũng không muộn, chuyện này xin cứ yên tâm, đến lúc ấy,
nhất định sẽ thay chúa công nghĩ ra một biện pháp ổn thỏa.

Vì bấy giờ đại chiến đang ở trước mắt, chuyện này bảo
dừng là dừng, rồi cũng cứ thế qua đi, sau này Nam chinh Bắc chiến trước sau vẫn
không có cơ hội nhắc lại, mãi tới khi Chu Nguyên Chương ngồi lên ngai vàng, trở
thành Thái Tổ khai quốc của Đại Minh. Theo lệ cổ, khi thiên tử các triều đăng
cơ, lập tức phải chuẩn bị hoàng lăng cho chính mình trước nhất, những chuyện
khác đều gác cả lại, từ việc lựa chọn long mạch đến quy mô bố cục của hoàng
lăng đều là chuyện lớn hàng đầu của quốc gia, không thể qua quýt sơ sài.

Hoàng đế Hồng Vũ triệu kiến Lưu Bá Ôn, nhắc lại chuyện
năm xưa, nói rằng nhiệm vụ xây dựng hoàng lăng này nhất thiết phải do Lưu Bá Ôn
chủ trì sách hoạch, hoàng lăng của vương triều Đại Minh, tuyệt đối không thể để
cho người Hổ đào bới.

Lưu Bá Ôn năm ấy hứa suông một câu, đến khi việc rơi
xuống đầu vẫn thấy hoang mang không chắc chắn, đột nhiên hai hàng lông mày nhíu
lại, kế sách lóe lên trong đầu, liền xin hoàng thượng thư thư cho mười ngày, mười
ngày sau nhất định sẽ dâng kế sách lên.

Hồng Vũ Đế kiên nhẫn đợi thêm mười ngày, quả nhiên
mười ngày sau, Lưu Bá Ôn lên điện, sau khi bái lạy theo đúng phép quân thần, liền
lấy ra một bức tranh, nói: “Việc xây dựng hoàng lăng Đại Minh, không thể không
nhờ vào bức tranh này.”

Chu Nguyên Chương còn tưởng đấy là một tấm bản đồ
phong thủy của hoàng lăng, tức thì mặt rồng cả vui, vội bảo nội thị đón lấy
mang đến cho mình ngự lãm, chẳng ngờ khi mở trục cuộn ra xem, ông ta hết sức ngạc
nhiên, hoàn toàn không hiểu ý tứ bức tranh này là gì, liền mở miệng vàng động lời
ngọc hỏi: “Lưu ái khanh, bức tranh này của khanh... có ý gì vậy?”

Lưu Bá Ôn tâu: “Hồi bẩm bệ hạ, việc tu tạo hoàng
lăng không phải chuyện nhỏ, thần đây tài hèn sức mọn, chỉ sợ phụ kì vọng của
thánh thượng, ngộ nhỡ xảy ra sai sót gì, thực là chết vạn lần cũng không đền hết
tội.”

Sau đó Lưu Bá Ôn lại tiến cử một vị kì nhân với Hoàng
đế Hồng Vũ, người này thân mang dị thuật, thông thiên hiểu địa, thừa sức đảm
nhiệm trọng trách xây dựng hoàng lăng. Nhưng y vốn là người ẩn dật trong núi
sâu, sợ rằng sẽ tìm cớ thoái thác, vậy nên họ Lưu mới hiến lên bức họa này, khi
triệu kiến y vào cung, trước tiên cứ nói rõ ý định trước, sau đó bất luận y có
nhận lời hay không, cứ đưa bức tranh này ra, chắc chắn y không còn dám thoái
thác nữa.

Hồng Vũ Hoàng đế nửa tin nửa ngờ, lập tức sai người
mời vị cao nhân được Lưu Bá Ôn tiến cử đến, người này tên là Phong Vương Lễ, vốn
là ẩn sĩ luyện đơn ở vùng Ba Thục, cũng thường hay đào mồ đổ đấu, chuyên thích
tìm kiếm những sách cổ về luyện đơn.

Phong Vương Lễ được vời lên điện Kim Loan, biết được
hoàng đế muốn sai ông ta tu tạo hoàng lăng, nhưng từ xưa đã có câu “làm bạn với
vua như chơi với hổ,” đây là việc rất dễ rơi đầu, ông ta đời nào chịu nhận lời,
vội hoảng hốt chối rằng mình không thông hiểu tang chế, cũng không biết thuật tầm
long, ý chừng muốn thoái thác công việc này.

Chu Nguyên Chương thấy quả đúng như Lưu Bá Ôn dự
đoán, liền bảo người mang cuộn tranh kia ra cho Phong Vương Lễ xem. Phong Vương
Lễ vừa nhìn thấy bức vẽ, liền kinh hồn bạt vía lập tức quỳ xuống trước điện,
luôn miệng cầu xin: “Hoàng thượng thứ tội, thảo dân thực đáng muôn chết.”

Thì ra trong bức họa của Lưu Bá Ôn có vẽ một vách đá
cheo leo hiểm trở, bên trên có rất nhiều quan tài treo. Trong tranh có mấy tên
trộm mộ, một tên đang ôm lấy nắp quan tài bằng gỗ tùng còn nguyên cả vảy ra sức
lay chuyển, rõ ràng là vừa bậy được nắp quan; một tên khác bám trên vách đá dựng
đứng, cầm dây thừng tròng vào cổ cái xác, kéo xác ông lão trong quan tài ngồi
thẳng dậy; ngoài ra, còn hai tên khác ngồi chồm hỗm bên cạnh quan tài, ôm ra từng
miếng “giáp cốt,” trên giáp cốt đầy hình vẽ trăng sao và chữ triện cổ.

Bên cạnh bức họa có chú một hàng chữ “Quan Sơn đạo cốt
đồ,” Phong Vương Lễ nhìn tranh này mà kinh hồn khiếp đảm, thì ra cảnh tượng trộm
mộ trong tranh, chính là hành vi của tổ tiên nhà ông ta.

Nhà họ Phong là danh gia vọng tộc tiếng tăm ở địa
phương, bao đời đều cư trú ở vùng hẻm núi Quan Tài thuộc Vu Sơn. Hẻm núi này địa
hình hiểm trở, có rất nhiều quan tài treo từ thời thượng cổ, nhà họ Phong chính
nhờ trộm được rất nhiều thiên thư, dị khí trong hẻm núi Quan Tài này mà phát
tích, học được vô số thuật phù thủy đã thất truyền, rồi dần dần đắm chìm si mê
với thuật luyện đan.

Đến giai đoạn cuối Nguyên đầu Minh, truyền đến đời
Phong Vương Lễ, ông ta tự xưng là Quan Sơn thái bảo, ỷ mình tinh thông thuật
Quan Sơn chỉ mê, đi khắp nơi bí mật đào trộm sơn lăng. Thực ra, nhà họ Phong
không thiếu tiền, động cơ trộm mộ của những người này chủ yếu là nhằm vào các
kinh sách cổ giấu trong mộ mà thôi. Khi nhìn thấy bức Quan Sơn đạo cốt đồ,
Phong Vương Lễ ngỡ rằng hành động bí mật của gia tộc đã bại lộ, kinh động đến
thiên tử, phen này ắt khó thoát họa diệt môn, vả lại, chuyện này xưa nay chưa
bao giờ để người ngoài biết, điều này chứng tỏ bên cạnh hoàng thượng có cao
nhân nắm rõ ngọn ngành chuyện gia tộc nhà mình đi trộm mộ, rốt cuộc, ông ta
đành nhận lời Hồng Vũ Hoàng đế đi thiết kế hoàng lăng.

Thời điểm ấy, Lưu Bá Ôn đã có ý rút lui khỏi việc
triều chính, nhưng vì vướng vào việc xây dựng hoàng lăng mà không thoát thân được.
Ông ta nhớ ra trên đời này còn một đám Quan Sơn thái bảo, cực kì tinh thông thuật
Độn Giáp, liền đẩy luôn công việc “khổ sai hoàng gia” này lên đầu bọn họ. Nhưng
Lưu Bá Ôn coi như vẫn còn nể mặt, nên chỉ đặt tên bức tranh là “Quan Sơn đạo cốt,”
chứ không nói trắng ra là “Quan Sơn đạo mộ.”

Nhà họ Phong chuyên nghiên cứu các loại kì môn dị
thuật, thủ đoạn hành sự vượt xa tưởng tượng của người thường, hơn nữa còn nắm
được rất nhiều bí thuật phong thủy từ các kinh thư viết bằng chữ giáp cốt, bởi
vậy, kiến thức về kết cấu lăng mộ và địa điểm lựa chọn để xây lăng đều có chỗ độc
đáo riêng, khiến Hoàng đế Hồng Vũ vô cùng hài lòng, ban cho Phong Vương Lễ và mấy
đệ tử của ông ta thẻ bài vàng ròng, từ đấy trở đi được tự xưng là Quan Sơn thái
bảo, ở bên cạnh hoàng đế chuyên trách việc kiến tạo lăng mộ cho hoàng gia.

Hoàng đế Hồng Vũ xuất thân từ giai cấp thấp của xã hội,
rất am hiểu phong tục trong dân gian, ngài hỏi Phong Vương Lễ, cho dù hoàng
lăng không bị người Hồ đào trộm, nhưng cũng chưa chắc đã dứt hẳn mối lo, vì người
Hán chúng ta cũng không phải hạng tử tế gì, nghe nói từ thời xưa, thế gian đã
có chuyện “phá gò mò vàng,” nếu những người này có ý đồ với hoàng lăng Đại Minh
thì phải làm sao?

Phong Vương Lễ đáp, thần cho rằng những kẻ đào mồ đổ
đấu trong dân gian ấy, không chỉ riêng bọn Phát Khưu Mô Kim, mà cả Ban Sơn Xả
Lĩnh cũng có thủ đoạn đào trộm hoàng lăng. Ban Sơn đạo nhân sở trường đạo sinh
khắc, hành tung ẩn mật khó dò, nhiều năm nay hiếm khi tiếp xúc với người ngoài,
nhưng bọn họ đào trộm mộ chỉ vì tìm kiếm đan châu, miễn là trong hoàng lăng
không chôn theo các loại kim đơn linh dược, Ban Sơn đạo nhân sẽ tuyệt không có
ý đồ đào bới, không đáng lo ngại; còn bọn giặc Xả Lĩnh đa phần là lũ thảo khấu
lục lâm, khi hợp khi tan, chuyên đào phá các lăng mộ lớn, cũng là khó đề phòng
nhất, lại thường có ý mưu phản, chỉ có cách phái quan quân đi lùng bắt tiêu diệt,
nhổ cỏ tận gổc, đoạn tuyệt hương hỏa của chúng mới là thượng sách.

Ngoài ra, còn đám Phát Khưu Mô Kim, thực ra là một mạch,
cực kì tinh thông đạo phong thủy tầm long, thủ lĩnh Mô Kim gọi là Phát Khưu
Thiên Quan, bọn này cầm theo ấn phù từ thời Hậu Hán, bên trên đúc tám chữ “Thiên
Quan Tứ Phúc, Bách Vô Cấm Kị,” tầm long đổ đấu không gì không làm, nhưng bọn
chúng cực kì xem trọng quy củ của tổ sư gia truyền lại, không có ấn Phát Khưu
và bùa Mô Kim thì không đổ đấu, vì vậy muốn đối phó với chúng, cần hủy đi ấn
phù tín vật của chúng trước, khiến thuật Mô Kim không còn tồn tại trên thế gian
nữa, như vậy có thể một lần ra công suốt đời nhàn nhã, không lo hậu hoạn.

Hoàng đế thấy có kế hay như vậy, tức thời mặt rồng
hoan hỉ, liền hạ thánh chỉ, các đời hoàng đế nhà Minh đều nghiêm cấm việc đổ đấu
trộm mộ. Có điều, tung tích của Phát Khứu Mô Kim, Ban Sơn Xả Lĩnh rải rác khắp
thiên hạ, triều đình cũng không có biện pháp đối phó triệt để, đến tận những
năm Vĩnh Lạc, mới có cơ hội hủy đi ấn Phát Khưu và bảy miếng bùa Mô Kim, nhưng
trên đời vẫn còn ba miếng bùa Mô Kim không biết ở đâu, đối với đám trộm cướp Xả
Lĩnh cũng đã nhiều lần tiễu trừ mà không hết được; có điều, những hành động này
vẫn có hiệu quả nhất định, suốt giai đoạn giữa thời Minh, chuyện đào mổ đổ đấu
quả có một độ lắng hẳn xuống.

Quan Sơn thái bảo được triều đình trọng dụng, đi
theo hoàng thất từ Nam Kinh đến Bắc Kinh, luôn ở trong cung cấm nghe lệnh. Xây
dựng hoàng lăng là việc cơ mật rất lớn nên không dám tuyên truyền ra ngoài, cho
đến những năm Vạn Lịch, thủ lĩnh Quan Sơn thái bảo chính là Địa Tiên Phong Soái
Cổ, người này có tài thông thiên triệt địa, lại vô cùng say mê thuật phong thủy
tinh tướng. Ông ta nhận ra tổ tiên mình xây dựng hoàng lăng của Đại Minh kín kẽ
trăm điều nhưng lại bỏ sót mất một chuyện, sơ suất không cải táng mộ phẩn của tổ
tiên Chu Nguyên Chương, đêm xem thiên tướng, thấy long khí đất ấy sắp tuyệt, liền
dâng chiếu xin triều đình cho di dời tổ lăng, nhưng hoàng đế đương triều là kẻ
hồ đồ, lơ là quốc sự, chẳng màng đến lời tâu của Phong Soái Cổ.

Phong Soái Cổ thấy thế đạo suy vi, thánh thượng vô đạo,
nhất thời tức giận liền tìm cớ cáo bệnh về quê, trải qua hai trăm năm, triều
đình sớm đã không còn để ý đến những chuyện cũ từ thời Hồng Vũ nữa, liền chấp
thuận cho Phong Soái Cổ trở về cố thổ.

Cơ nghiệp nhà họ Phong ở Vu Sơn vẫn còn đó, thu nhập
chủ yếu nhờ khai thác mỏ muối khoáng, nhưng Phong Soái Cổ coi tiền tài như cỏ
rác, sau khi về quê nếu không đốt lò luyện thuốc thì cũng bốc quẻ bói toán, thường
hay mượn cớ vân du tứ hải, dẫn thủ hạ đi khắp nơi đào trộm mộ cổ, mê đắm với việc
thu thập đủ thứ kì trân dị bảo bồi táng trong mộ cổ các đời.

Một năm nọ, Phong Soái Cổ bỗng nhớ ra tổ tiên từng để
lại một lời di huấn, cảnh cáo con cháu đời sau rằng nhà họ Phong nhờ vào trộm mộ
ở hẻm núi Quan Tài, lấy được Độn Giáp thiên thư trong quan tài treo mà phát
tích trở thành hào môn vọng tộc, nhưng số lượng quan tài treo ở hẻm núi Quan
Tài này há chỉ có hàng nghìn hàng vạn? Ở sâu trong núi, còn có một lăng mộ quy
mô khổng lồ, nhưng tuyệt đối không được đụng đến ngôi mộ ấy, bằng không ắt sẽ
chuốc lấy họa diệt tộc, vì trong mộ có chôn “thi tiên.”

Phong Soái Cổ sẵn chứng nghiện trộm mộ, lại thường
có ý “tìm tiên,” vì vậy một khi ý đồ đã nổi lên, dẫu có mười vạn Kim Cương La
Hán cũng không hàng phục nổi. Ông ta vừa nghĩ đến chuyện ngay trước cửa nhà
mình có một ngôi mộ cổ Ô Dương Vương hết sức thần bí, liền bỏ ngoài tai lời huấn
thị của tổ tiên, lập tức dẫn theo thủ hạ vào núi trộm mộ. Không ngờ, trong mộ cổ
Ô Dương Vương ấy, Phong Soái Cổ đã nhìn thấy những thứ mà ông ta có nằm mơ cũng
không tưởng tượng nổi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3