Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 17
CHƯƠNG
17: CHƯỞNG TÂM LÔI
Đàn chim yến hàng vạn con trên không trung đã kết
thành một tấm lưới phủ kín bầu trời, đảo lượn vòng ngoài vây kín bọn châu chấu
giáp vàng, nhưng chúng cũng sợ không dám xông vào chỗ lũ châu chấu tập trung
đông đúc, chỉ nhằm những chỗ trống, không ngừng đớp lấy bọn châu chấu ở mé
ngoài.
Trong khe núi vốn có một tia sáng từ trên cao rọi xuống,
nhưng lúc này đã bị hàng trăm nghìn con châu chấu quần tụ che mất. Lũ châu chấu
tựa một đám mây đen mù mịt phủ trùm lên tất thảy. Bọn chúng vốn là côn trùng
máu lạnh, lại chẳng có trí tuệ hay tình cảm gì, nhưng con sâu cái kiến cũng còn
tham sống, đối mặt với sinh tử tồn vong, lũ châu chấu cũng biết tụ lại một chỗ
theo bản năng. Trên cánh đám châu chấu hướng đạo này dường như có chất phát
quang, thi thoảng lại ánh lên sắc vàng. Cả đàn châu chấu đập cánh bay qua bay lại
trong khe núi, tựa như những đám khói mù màu vàng đang cháy rừng rực.
Sau lưng chúng tôi là vực sâu thăm thẳm bị mắt gió
chiếm giữ, người không phải chim yến, rơi xuống dưới chắc chắn sẽ toi, phía trước
lại có vô số châu chấu hướng đạo với những cặp càng sắc nhọn như lưỡi dao, tiến
thoái đều không xong. Bốn bề chỉ thấy toàn châu chấu đang xé gió bay tán loạn
như những tia lửa bắn tung tóe, phát ra tiếng “vù vù vù,” làm màng nhĩ cả bọn
rung lên bần bật.
Những con châu chấu không nhập được vào đàn xuyên
qua xuyên lại với tốc độ cực nhanh ở khoảng không tầm thấp, lớp vỏ ở đầu chúng
rất cứng, những cái ngàm phía sau hai cái răng cửa lại càng lợi hại, hễ chạm phải
thân thể người là cắm sâu vào thịt. Shirley Dương giơ ô Kim Cang lên chặn được
phần nào, nhưng lũ châu chấu từ bốn phía bố tới mỗi lúc một nhiều, một chiếc ô
Kim Cang khó lòng chống đỡ nổi, chắn được phía trước thì hở phía sau, đỡ được
bên phải lại hổng bên trái.
Tôi và Tuyền béo thấy vậy, biết tình thế đã đến hồi
nguy cấp, lập tức rút xẻng công binh của Đức sản xuất ra, lại vươn cánh tay còn
lại rút nốt cái xẻng Shirley Dương đeo sau lưng, không ngờ còn chưa kịp nắm chắc
đã bị Út giật mất. Ba người đua nhau vung xẻng lên, nhắm vào những con châu chấu
từ khắp bốn phía bay đến mà đập mạnh. Mặt xẻng đập vào châu chấu, liền phát ra
một tiếng “keng” như đập vào đá sỏi vậy. Những con châu chấu hướng đạo đập vào
xẻng công binh và ô Kim Cang đều đứt đầu đứt chân lả tả rơi xuống.
Trong chốc lát, xung quanh chúng tôi đã chất đầy xác
châu chấu nát bươm, nhưng lại có nhiều châu chấu hơn từ khắp bốn phương tám hướng
lũ lượt ập tới, mu bàn tay và mặt tôi đều bị rách toạc, mà không lúc nào rảnh
ra để cầm máu được. Mấy người còn lại cũng đều bị thương, tuy không nặng lắm,
nhưng dù sao cũng là thân thể máu thịt, cầm cự lâu dài ắt khó tránh tê cứng nhức
mỏi. Cả bọn chỉ biết dựa lưng vào nhau, nhích từng bước từng bước lùi về sát
chân vách đá.
Tôi phát hiện cách không xa có một đám “kim giáp mao
tiên” đang tiến lại gần, chỉ riêng số châu chấu lẻ tẻ bay lại lai quanh người
chúng tôi đã không ứng phó nổi, giờ lại cả đàn châu chấu dày đặc như một bức tường
thế kia, thật chẳng khác nào cỗ máy xay thịt khổng lồ, nếu bị cuốn vào trong
thì chỉ còn đường chết.
Tôi thầm kinh hoảng, chợt thấy trước mắt có tia sáng
vàng lóe lên, mấy con châu chấu đồng loạt bổ tới. Tôi vội vung xẻng công binh
lên đập, phát ra hai tiếng “keng keng” như lệnh vỡ, hai con châu chấu to tướng
bay trước đã văng lên không. Vừa lúc ấy, tôi chợt thấy cánh tay tê chồn, thì ra
một con châu chấu khác đã cắm đầu chui vào bả vai, chỉ lộ ra hai cái chân sau
dài thượt đang không ngừng đạp loạn xạ phía bên ngoài.
Tôi nghiến răng tóm lấy chân sau con châu chấu đó,
giật mạnh ra, chỉ thấy nửa thân trước của con “kim giáp mao tiên” đều bị máu
nhuộm đỏ tươi. Tôi vừa hoảng, vừa giận sôi người, liền bóp mạnh con châu chấu
trong lòng bàn tay, cảm giác như thể bóp phải mấy mũi gai nhọn. Tuy đã bóp cho
con châu chấu kia lòi ruột chết tươi, nhưng hai chân sau đầy răng cưa nhọn cứng
như kim châm của nó cũng đâm cả vào lòng bàn tay tôi.
Mới dừng lại một thoáng, phía trước tôi đã lộ ra khoảng
trống, Shirley Dương lập tức thu ô Kim Cang về, ngăn mấy con châu chấu hướng đạo
đang bổ về phía tôi. Tôi vội đẩy ô Kim Cang ra, bảo cô hãy tự lo cho mình trước
đã.
Lúc này, đột nhiên nghe phía trước nói lên từng trận
gió âm rít gào, thầm biết tình hình không ổn, tôi chẳng còn tâm trí nào kiểm
tra vết thương trên vai nữa, vội ngẩng đầu nhìn lên. Thì ra, cả đám “mao tiên,
thảo quỷ” nhiều không đếm xuể đã bị lũ chim yến lùa đến chỗ chúng tôi đang đứng.
Tiếng đập cánh dày đặc của ngàn vạn con côn trùng khiến lông tóc toàn thân người
ta đều muốn dựng đứng cả lên, trong lòng ai nấy đều tuyệt vọng đến cực điểm.
Tôi ngoảnh đầu lại nhìn thiên hiểm vô hình ở cửa khe
núi trong lòng thầm nghĩ thà bị mắt gió cuốn đi, có khi cũng còn hơn bị lũ châu
chấu kia coi như cành cao lương gặm sạch cả da lẫn xương. Giáo sư Tôn ở sau
lưng tôi mặt mũi xám xịt như tro, tay chân nhũn cả ra, bảo chúng tôi: “Tôi tham
gia công tác được bao nhiêu năm rồi? Vất vả khổ sở nhẫn nhục gánh vác bao năm,
vậy mà sao bao nhiêu chuyện bất hạnh trên đời đều đổ cả lên đầu tôi thế này? Nếu
phải chết ở đây, tôi đúng là chết cũng không nhắm được mắt đó!”
Tôi nào tâm tư để ý đến mấy lời than thở số mệnh hẩm
hiu của Tôn Cửu gia, chỉ nhìn chằm chằm vào đàn châu chấu dày đặc như bức tường,
trong đầu liên tiếp vạch ra mấy kế hoạch thoát thân, song đều cảm thấy không khả
thi. Mò vàng đổ đấu, vốn là công việc cực kì mạo hiểm, tuy trước đó tôi đã nghĩ
đến khả năng hẻm núi bên này có thể là cạm bẫy, nhưng vẫn không lường hết được
mức độ nguy hiểm.
Chuyến này vào Tứ Xuyên, tôi vẫn cho rằng ngôi mộ cổ
Địa Tiên kia chỉ là mộ phần của một gã địa chủ thổ hào, cùng lắm là chôn giấu ẩn
mật hơn bình thường đôi chút, hoặc giả trong mộ thất có mai phục vài thứ cơ
quan cạm bẫy gì đó, bởi vậy không khỏi có chút khinh địch, chẳng coi Quan Sơn
thái bảo ra gì. Đến khi vào tới đây, mới phát giác “thôn Địa Tiên’ chẳng phải tầm
thường, sự thấu hiểu đối với đạo sinh khắc của vạn vật, cũng như việc lựa chọn
hình thế phong thủy của người xây mộ, cơ hồ có thể sánh ngang Ban Sơn đạo nhân
và Mô Kim hiệu úy. Sự ảo diệu của “Quan Sơn chỉ mê phú” lại càng ngoài sức tưởng
tượng, hơn hẳn một bậc, đúng là chỉ có trời mới biết làm sao Quan Sơn thái bảo
lại nghĩ ra được những thứ này.
Khe núi có đài Hách Hồn này hoàn toàn là một cái bẫy
lợi dụng dòng khí lưu hỗn loạn và vách đá dựng đứng, khiến người ta dù chắp
cánh cũng khó lòng thoát ra nổi. Những con “kim giáp mao tiên” tụ lại thành đám
dày đặc kia sẽ gặm sạch sẽ kẻ trộm mộ dám xâm nhập trong nháy mắt, muốn tiêu diệt
hoàn toàn chừng ấy châu chấu, chỉ có cách sử dụng thuốc trên quy mô lớn, mà
chúng tôi thì làm gì có những trang bị ấy?
Tôi vung xẻng công binh trong tay đập chết những con
châu chấu lẻ đàn xung quanh, liếc thấy đám “kim giáp mao tiên” đã tụ lại thành
một bức tường kín mít sắp sửa tiến lại sát bên, tôi cuống đến nỗi gân xanh trên
trán giật giật liên hồi, nhưng cũng đành bó tay.
Đang khi chúng tôi bất lực không biết làm thế nào,
chợt nghe một tiếng nổ lớn, trong chớp mắt khói lửa mù mịt bóc lên, bức tường
châu chấu như bị sét đánh, lập tức toác ra một lỗ lớn. Tôi và Tuyền béo đều trố
mắt, há hốc miệng: “Ai mang lựu đạn thế?” Còn chưa kịp nhìn rõ, lại nghe mấy tiếng
nổ liên tiếp, tuy uy lực của thuốc nổ không lớn lắm, nhưng bọn châu chấu này vốn
kị khói kị lửa, đồng loạt dừng sững lại, không dám tiến lên nữa. Bức tường châu
chấu dày đặc gió thổi không lọt ấy sững lại, rồi dần dần nghiêng sang mé bên.
Lũ châu chấu lẻ tẻ xung quanh chúng tôi cũng láo
nháo tản đi, tôi vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, ngoảnh đầu lại nhìn, hóa ra Út vừa
lấy trong ba lô một cái hộp gỗ, trong hộp đựng đầy những quả “chưởng tâm lôi(8),”
cô vung tay ném hết quả này đến quả khác, nổ ra khói mù dày đặc, lũ “kim giáp
mao tiên” phía trước đều bị đẩy lui.
(8)
Sấm trong lòng bàn tay
“Chưởng tâm lôi” hay còn gọi là “thủ pháo,” dùng
toàn thuổc nổ tự chế, lực sát thương rất có hạn, nguyên lí chế tương tự loại
pháo đập pháo ném, dùng lực nén khi va đập để dẫn nổ hỏa dược tự chế. Thứ này
không sát thương bằng mảnh đạn vỡ giống lựu đạn quả dứa, nếu ném trúng người
cũng khó lòng gây ra vết thương chí mạng, chỉ thuộc loại ám khí mà thôi. Mặc dù
vậy, không phải ai cũng chịu nổi lực nó của “chưởng tâm lôi,” vả lại thứ này
còn bốc khói nồng nặc, người bị thương mà hít thêm mấy ngụm khói thì chỉ còn nước
nằm đấy đợi đối thủ đến mặc sức xử lí. Loại ám khí này đã lưu truyền trong dân
gian khoảng hai ba trăm năm nay, mà thủ pháo do “Ám khí Lý” ở phủ Bảo Định chế
tạo xưa nay đã nức tiếng trong giới lục lâm.
Tôi cũng thấy vật này trong tiệm của ông già ấy, bấy
giờ cảm thấy món đồ chơi này... lựu đạn không ra lựu đạn, pháo hiệu không ra
pháo hiệu, dùng ám toán người ta khi cướp của giết người còn tạm, chứ trong việc
đổ đấu thì chẳng có đất dụng võ, nên không để tâm lắm. Nào ngờ dù lúc đi vội
vã, Út vẫn kịp mang theo một hộp thủ pháo, lúc này lại trở thành phao cứu mạng
cho cả bọn, tạm thời đẩy lui được bọn châu chấu hướng đạo.
Út cũng bị lũ châu chấu đông đảo làm cho hoảng hồn bạt
vía, cũng may cô theo ông chủ tiệm họ Lí nhiều năm, thường nghe ông nuôi kể về
những công việc phải đem mạng ra liều, vừa nãy cuống quá đâm liều, bèn lấy luôn
hộp “chưởng tâm lôi” ném ra liên tiếp, chẳng ngờ lại có hiệu quả kì diệu, khói
lửa nghi ngút bốc lên làm bức tường châu chấu dày đặc kia tức thì tan ra như bọt
sóng.
Một phần bọn “kim giáp mao tiên” tụ thành một bức tường
bị lùa vào mắt gió bên dưới Long môn, lập tức bị dòng khí lưu hỗn loạn ấy khuấy
trộn thành một vòng xoáy khổng lồ màu vàng kim. Bọn chúng không thể bay lượn tự
do trong gió như lũ chim yến, bị dòng khí lưu cuốn lấy, va vào nhau lộp độp, sống
dở chết dở văng lên không trung.
Bầy chim yến trên cao liền thừa cơ lao vút xuống, há
mỏ đón gió bập tới. Nhưng vỏ châu chấu giáp vàng vừa cứng vừa có ngạnh sắc,
không thể nuốt chửng, nên chim yến trước tiên phải mổ một cú từ mé bên làm con
châu chấu lộn nhào, sau đó ngoặt lại như một tia chớp, trong khoảnh khắc xoay
mình lướt qua đã ngậm chặt phần bụng mềm mại của con mồi.
Lũ chim yến lao xuống rồi lướt vèo qua trên không
trung nhanh đến độ khó thể hình dung, hai động tác liền mạch cơ hồ không một kẽ
hở, thoải mái tự nhiên hết sức. Nhưng lũ chim yến và châu chấu thực sự quá nhiều
quá dày đặc, nhiều con không né được đập thẳng vào nhau, lộn nhào lảo đảo rơi
vào dòng khí lưu hỗn loạn hay khe sâu, làm bọn tôi nhìn mà hoa cả mắt, điên đảo
thần hồn.
Trong nháy mắt đã có vô số châu chấu giáp vàng mất mạng
trong miệng lũ yến, nhưng châu chấu trong khe núi vẫn cuồn cuộn tuôn ra như thủy
triều. Tôi và Tuyền béo thấy “chưởng tâm lôi” của Út hiệu quả như thế, lo sức
tay của cô có hạn, vội chộp lấy mấy quả, liên tiếp ném ra xung quanh, bốn phía
lập tức bốc lên khói mù mờ mịt.
Shirley Dương vội ngăn lại: “Anh Nhất, dùng tiết kiệm
một chút!” Lúc cô nhắc nhở, tôi mới nhớ ra là đạn dược có hạn, cúi đầu nhìn hộp
pháo trên tay Út, liền như bị giội một chậu nước đá xuống đầu, trong hộp trống
huếch, đến một quả thủ pháo cũng chẳng còn.
Bọn châu cháu giáp vàng tuy tạm thời bị đẩy lui,
nhưng chắc chắn khi khói mù xung quanh tan đi, bọn chúng sẽ lập tức bị lũ chim
yến trên trời ép dồn lại, e rằng phải đợi đến lúc bọn chim yến ăn no về tổ, thì
lũ châu chấu mới trở vào hang được. Tôi thở dài: “Chưa đến thời điểm mấu chốt
phải hi sinh tuyệt không thể tùy tiện nhắc đến hai chữ hi sinh(9),” nhưng giờ
đã chẳng còn chiêu gì dùng được nữa, ở đây chúng ta vừa khéo có năm người, anh
thấy cả bọn chuẩn bị làm năm tráng sĩ trên núi Lang Nha(10) đi là vừa.”
(9)
Một câu danh ngôn của Tưởng Giới Thạch, nguyên văn là: Khỉ chưa đến thời khắc
hoàn toàn tuyệt vọng với hòa bình, tuyệt không được từ bỏ hòa bình, khi chưa đến
thời điểm mấu chốt phải hi sinh, tuyệt không thể tùy tiện nhắc đến hai chữ hi
sinh.
(10)
Năm chiến sĩ anh hùng của Bát Lộ quân trong kháng chiến chống Nhật, thà chết
cũng không chịu đầu hàng, bị quân địch bao vây, đạn dược đã hết, họ liền ném đá
cản bước quân địch, rồi hủy hết vũ khí, liều mình nhảy xuống vách núi. Khi nước
Trung Quốc mới thành lập, sự tích anh hùng này được dựng thành phim, và đưa vào
sách giáo khoa tiểu học.
Shirley Dương lúc này vẫn còn tương đối bình tĩnh,
cô tranh thủ thời gian nói với cả bọn: “Vừa nãy tôi thấy lũ châu chấu giáp vàng
bị dòng khí lưu hỗn loạn trong khe núi cuốn vào, vòng xoáy màu vàng kim hình
thành trong gió ấy trông rõ ràng hơn cây cầu do lũ chim yến lưng đen bụng trắng
tạo thành rất nhiều. Dòng khí lưu hỗn loạn chỉ xuất hiện ở chỗ giao nhau giữa
hai khe núi, cửa khe núi ở Long môn lại rộng hơn cửa hang phía bên kia một
chút, nếu ra mép ngoài bám vào vách đá trượt xuống, hẳn có thể tránh khỏi dòng
khí lưu, giả sử có thể chui vào hang chim yến...”
Shirley Dương còn chưa nói hết, chúng tôi đã hiểu ý,
ngoài Tuyền béo, tất cả đều nói kế này có thể thực hiện được. Không đợi mọi người
kịp suy nghĩ kĩ hơn, luồng khói đen dày đặc của “chưởng tâm lôi” đã từ từ tiêu
tan, từng đám từng đám châu chấu giáp vàng trong khe núi lại cắm đầu cắm cổ ập
tới.
Mối uy hiếp khủng khiếp đã như ngọn lửa cháy sém
lông mày, tôi thầm nhủ “đành mạo hiểm leo xuống vách núi, tránh được một chốc một
nhát cũng tốt,” đoạn vội vàng lấy Phi Hổ trảo ra xem thử, dây xích bằng thép
tinh luyện có thể kéo dài đến bảy tám mét, dẫu muốn leo tường thành cũng không
thành vấn đề.
Phi Hổ trảo là dụng cụ truyền thống của Mô Kim hiệu
úy, tuy không thiên biến vạn hóa như “thang rết leo núi” của phái Xả Lĩnh,
nhưng nếu xét về công năng bám vách leo tường, thì cũng là thứ lợi khí thuộc
hàng nhất đẳng. Mạng sống của năm người chúng tôi, giờ đây đều treo cả lên chiếc
Phi Hổ trảo này đây.
Đoạn đầu Phi Hổ trảo là một vuốt sắt hình dạng như
bàn tay, được thiêt kế dựa trên xương bàn tay của người, lúc sử dụng có thể thu
phát tự nhiên, dù là thân cây hay vách tường, chỉ cần có khe hở hay chỗ lồi
lõm, nó đều có thể bám chặt. Tôi cầm Phi Hổ trảo, đang định tìm chỗ nào chắc chắn
một chút để móc vào, chợt thấy Tuyền béo bước lên trước hai bước, giẫm lên bề mặt
thác đá, vừa thò đầu ra nhìn xem vách đá cao chừng nào, vừa lẩm bẩm trong miệng:
“Không ngờ Tuyền béo này anh hùng cả đời, vừa nãy lại bị con khỉ Ba Sơn kia ám
toán, con bà nó, đúng là Trương thiên sư bị quỷ thần trêu cợt... tức cha chả là
tức, hừ...” Vừa nhìn thấy cao quá, chân cậu ta lại nhũn ra, vội vàng lùi lại một
bước: “Mẹ... mẹ tổ quốc của tôi ơi, thế này hình như hơi cao quá thì phải! Lúc
nãy qua cầu có thấy cao thế này đâu? Đen ngòm đen nghịt chẳng thấy đáy gì cả...”
Tôi lo Tuyền béo trượt xuống dưới, vội vươn tay ra
tóm lấy ba lô của cậu ta, đúng lúc này, chợt nghe giáo sư Tôn ở sau lưng kêu
toáng lên: “Không kịp nữa rồi, nhanh lên, nhanh lên. Vách núi sâu mấy dốc mấy
cũng phải xuống thôi! Chỉ cần có thể dùng thái độ khách quan nhìn nhận sự nông
sâu cao thấp…cậu sẽ khắc phục được chứng sợ độ cao ấy thôi!”
Tôi ngoảnh lại nhìn, thì ra bức tường do lũ châu chấu
giáp vàng kia ghép lại đã xuyên qua màn sương mù bị tiêu tan tựa như một đám
mây vàng kim ập đến. Rõ ràng bọn chim yến muốn lùa thật nhiều châu chấu vào mắt
gió, để chúng bị dòng khí lưu cuốn lấy tách khỏi đàn mới bắt lấy ăn, nhưng đồng
thời cũng dồn cả đám chúng tôi đây vào đường cùng. Shirley Dương và Út, người cầm
ô Kim Cang, người cầm xẻng công binh không ngừng vung lên hất văng từng đám
châu chấu tiến sát đến gần.
Giáo sư Tôn thấy không thể đợi thêm nữa, liền cuống
cuồng định giúp tôi thòng dây xích của Phi Hổ trảo, lão ta có lòng muốn giúp một
tay, song không ngờ chân Tuyền béo đang giẫm lên sợi xích sắt. Lão ta vừa giật
sợi dây một cái, Tuyền béo liền mất trọng tâm nghiêng người, mà bề mặt thác đá
lại trơn như mặt băng, làm cậu ta lập tức ngã ngửa trượt xuống. Chỉ nghe cậu ta
“á”lên một tiếng, rồi trôi thẳng một mạch theo mép thác đá, sượt qua chỗ dòng
khí lưu hỗn loạn, trượt xuống dưới vách đá cheo leo.
Tôi vốn định kéo Tuyền béo lại, nhưng ngoảnh đầu
vươn tay ra đã chẳng thấy bóng cậu ta đâu nữa. Tôi kinh hoảng há hốc miệng: “Lẽ
nào Tuyền béo anh hùng một đời, cuối cùng lại lật thuyền trong mương rạch hay
sao?” Đầu óc tôi trống rỗng, chẳng còn phân biệt được trên trời dưới đất gì nữa.
Những người khác thấy Tuyền béo rơi xuống khe sâu
không rõ sống chết thế nào, tuy cũng cực độ kinh hoảng, song càng không kịp có
phản ứng gì. Bởi lúc này đàn châu chấu đông nghịt đã ập tới trước mặt, cả bọn
chỉ còn cách liều mình đánh văng chúng đi hòng giữ mạng, muốn buông Phi Hổ trảo
xuống khe núi để thoát thân cũng không làm nổi, hễ dừng tay, tập tức sẽ có mấy
chục con “kim giáp mao tiên” cùng lúc xuyên vào cơ thể.
Hai mắt tôi cơ hồ phun ra lửa, nào để ý đến bọn châu
chấu bay thành đàn đã gần trong gang tấc nữa, chỉ muốn vung xẻng đập cho lão
Tôn Cửu gia ăn hại kia một phát vào đầu. Đúng lúc ấy, chợt nghe tiếng còi báo động
máy bay tập kích ré lên khắp khe núi. Có lẽ âm chanh này và dòng khí lưu hỗn loạn
giữa khe núi đã nảy sinh cộng hưởng, một cảnh tượng chúng tôi không ngờ độc ngột
xuất hiện. Lũ chim yến trên không dường như rất sợ âm thanh này, chỉ trong chớp
mắt, toàn bộ đã tản ra xa tít, bọn châu chấu đang bị dồn vào chân tường cũng ùa
trở về hang như thủy triều rút đi.
Tôi ngây người ra, chẳng lẽ Tuyền béo không bị ngã
chết? Cái còi phòng không kiểu quay tay ấy là đồ cậu ta giữ lại. Chắc chắn Tuyền
béo rơi xuống khe núi rồi mắc vào chỗ nào đấy, vừa nãy tiếng châu chấu đập cánh
gần quá, cậu ta hò hét gì chúng tôi cũng không nghe được, đành móc còi báo động
ra quay để báo hiệu, không ngờ lại có tác dụng ngoài sức tưởng tượng. Thì ra,
những sinh vật sống gần đài Hách Hồn đều sợ thứ này.
Lúc này, lại nghe bên dưới vách núi vẳng lên tiếng
hét của Tuyền béo: “Tổ sư bà nhà nó, vừa náy đứa nào ám toán bố đấy? Tư lệnh Nhất
ơi, tôi bị mắc vào tường thành rồi, đại gia đây không trách đứa nào vừa chơi bẩn
đâu, các người mau mau xuống đây kéo giúp một tay đi. Mặc dù sở thích thấp kém
không phải là tội lỗi, cái chết cũng không thuộc về giai cấp vô sản nhưng các
người chậm thêm chút nữa, Tuyền béo này sẽ về chầu ông bà ông vải mất...”
Tôi hét vọng xuồng dưới: “Tư lệnh Tuyền, cậu cố gắng
kiên trì thêm năm phút nữa thôi...” Liền sau đó tôi chợt giật nảy mình, lẽ nào
Tuyền béo ngã đập đầu lú lẫn rồi sao? Dưới vách đá làm sao lại có tường thành?
Chẳng lẽ mộ cổ Địa Tiên lại giấu ở bên trong khe sâu này...
Trong một thoáng tôi ngẩn người ra ấy, chỉ nghe Tuyền
béo ở bên dưới hò hét ầm ĩ, cậu ta thấy có thế nói với lên được, liền không
quay còi báo động phòng không nữa. Tiếng còi vừa lắng xuống, lũ châu chấu hướng
dạo mới lùi ra xa được mấy mét lại một lấn nữa tràn tới.
Tôi vội vàng hét gọi Tuyền béo, bảo cậu ta tiếp tục
quay còi báo động phòng không. Trong thời khắc quan trọng này, quần chúng rất cần
được nghe thấy âm thanh của đồng chí Lênin, ngàn vạn lần đừng dừng lại.
Nhưng Tuyền béo ở bên dưới lại hét toáng lên: “Quay
cái cục cứt ấy, tay cầm gỗ của đồng chí Lênin nhỏ quá, vừa nãy mới quay mấy
vòng... đã bị đại gia đây làm gãy mất rồi, vốn định mang chút đó kỉ niệm về...
giờ thì hết rồi... hỏng mẹ nó rồi.”