Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 18
CHƯƠNG
18: XÁC CHẾT KHÔNG THỐI RỮA
Tôi muốn bảo Tuyền béo tiếp tục quay cái còi báo động
phòng không kia, chẳng ngờ cậu ta bị treo trên vách núi dựng đứng đâm ra hoảng
hồn khiếp vía, tay chân không chịu nghe điều khiển nữa, mới quay được mấy cái
đã làm tay quay gãy lìa, cái còi báo động kiểu quay tay chẳng kêu lên được nữa.
Lũ châu chấu tụ thành đàn trong hẻm núi vừa bị tiếng
còi báo động chói tai đẩy lùi, giờ lại cuồn cuộn ập tới, rồi lại bị bọn chim yến
bay rợp trời không ngừng lùa vào mắt gió.
Lúc này Phi Hổ trảo trong tay tôi đã móc vào một tảng
nham thạch gồ lên, cạm bẫy chết chóc cầu tiên vô ảnh kín kẽ trăm đường vẫn có một
khe hở, ở mép thác đá vừa khéo có một chỗ khuyết, có thể tránh khỏi dòng khí
lưu hỗn loạn ở giữa khe núi hình chữ “T,” nếu không phải cả đám châu chấu cánh
vàng bị lùa vào trong mắt gió, chúng tôi thực tình cũng không thể nhìn thấy được
dòng xoáy chết vô hình vô ảnh này.
Tôi thấy sự việc đã đến lúc không thể chần chừ, vội
bảo giáo sư Tôn và Út bám vào dây xích tuột xuống khe núi trước, tôi và Shirley
Dương cũng theo sát phía sau, lần lượt leo xuống vách núi dựng đứng trước khi
ngàn vạn con châu chấu cùng ập đến.
Khoảng trời mảnh như sợi chỉ trên đỉnh khe núi sâu
hút bị lũ chim yến và đàn châu chấu bay loạn xạ che khuất, ngẩng đầu lên chẳng
nhìn thấy bầu không đâu cả, bốn phía chỉ thấy đen kịt một màu. Trên vách đá bám
đáy rêu đên, cứng lạnh như băng, chúng tôi chỉ thấy gió âm thấu xương, toàn
thân run rẩy hai hàm răng bất giác va vào nhau lập cập.
Bọn tôi bật đèn pin mắt sói lên, mấy chùm sáng màu
xanh lam quét loang loáng trên vách đá dưới khe sâu, tôi lần theo tiếng hét của
Tuyền béo nhìn sang, nhưng nào có tường thành gì, chỉ thấy giữa hai vách núi có
một khúc gỗ khổng lồ đen kịt bắc ngang, hình dạng như một cây xà nhà cực lớn. Bốn
góc xà gỗ vuông vắn như một cây cầu độc mộc nghiêng nghiêng gác vào hai bên
vách đá, bên trên còn có một số mảnh gạch ngói vỡ và lỗ mộng.
Dây đai chịu lực trên người Tuyền béo mắc cậu ta vào
một khúc chìa ra trên cây xà gỗ, sau lưng toàn là gạch đá trên cây xà, cậu ta
không ngoảnh đầu ra sau được, chỉ có thể sờ thấy mấy cục gạch, liền cho rằng
mình bị mắc vào tường thành gì đó. Khúc gỗ chìa ra kia bị sức nặng của cậu ta
làm cho lung lay, xem chừng sắp gẫy lìa đến nơi.
Tôi vẫy tay ra hiệu với những người còn lại, bảo họ
cứ ở yên chỗ tiếp giáp giữa xà gỗ và vách đá, có gắng đừng bước lên trên, khúc
gỗ đen kịt to tướng này gác ở đây không biết đã bao nhiêu năm tháng, chịu đủ
mưa nắng, trời mới biết nó có mục nát gẫy lìa ra đúng lúc này hay không.
Một mình tôi bước lên cây xà gỗ gác nghiêng nghiêng
giữa hai vách núi, nín thở nhích dần đến chỗ mép chìa ra, giơ xẻng công binh xuống
cho Tuyền béo tóm lấy, kéo cậu ta xoay một vòng trên không trung quay người lại
ôm vào xà gỗ, vừa thở hóng hộc vừa leo lên trên.
Tôi thấy cậu ta đã tạm thời thoát hiểm, liền thở
phào nhẹ nhõm, ngẩng lên nhìn trời thầm nhủ: “Cây xà gỗ này ở đâu rơi xuống vậy?
Xem chừng là bị người ta dỡ bỏ rồi đẩy xuống chỗ này lẽ nào trên kia có di tích
cung điện hay chùa miếu gì ư? Mộ cổ Địa Tiên rốt cuộc ở trên núi hay dưới núi
đây?”
Tuyền béo vừa nãy bị treo lơ lửng trên không, suýt vỡ
mật vì sợ, nằm bò ra trên cây xà gỗ không dám nhúc nhích, lúc này chợt nghe Tôn
Cửu gia ở đằng sau cất tiếng hỏi: “Hồ Bát Nhất, Tuyền béo, hai cậu không sao chứ?”
Tuyền béo vẫn có cứng miệng đáp: “Tim tôi tự nhiên đập
nhanh thôi... tiên sư nhà nó, đúng là có lợi cho sức khỏe lắm đấy.”
Tôi ngoái lại bảo mấy người kia: “Không sao, một chốc
một nhát cũng không chết được, tôi thấy đoạn xà gỗ này có thể là gỗ kim ty nam,
khá chắc chắn, mọi người đều qua đây đi.” Shirley Dương nghe thế, liền thu hồi Phi
Hổ trảo, cùng giáo sư Tôn và Út nắm tay nhau, nhích từng bước một ra khoảng giữa
cây xà gỗ.
Tôi dùng đèn pin mắt sói chiếu xuống dưới vách đá,
trên vách núi phẳng như dao cắt ấy có vô số hang động, lũ yến bình thường đều
trú trong những hang này. Sâu bên dưới chỉ thấy một màu đen kịt, vượt xa phạm
vi chiếu sáng của đèn pin mắt sói, nhưng áp tai lên cây gỗ đen này có thế láng
máng nghe thấy tiếng nước chảy, dưới đáy sơn cốc có lẽ là một dòng sông lớn.
Tôi nói với mọi người: “‘Quan Sơn chỉ mê phú’ trên tấm
bia vỡ kia quả nhiên là đồ giả, khe núi đằng sau Long môn toàn hang châu chấu,
tôi thấy mộ cổĐịa Tiên hẳn không giấu ở trong đó đâu, nhưng giữa khe núi lại có
long khí ngưng tụ, chứng tỏ nơi này là đất tàng phong tụ thủy, không có mộ cổ
thì thôi, nếu đúng là có thôn Địa Tiên thật, thì đảm bảo không nằm ngoài khu vực
này đâu.”
Tôn Cửu gia nói: “Chuyện đã đến nước này, tôi chẳng
có ý kiến gì nữa, chúng tôi nghe theo cậu hết, cậu nói xem giờ phải làm sao cho
ổn đây?”
Tôi bảo cả bọn: “Nhìn lại từ xưa đến nay, sự bố trí
phòng trộm trong lăng mộ và các ngón nghề đổ đấu trộm mộ thực ra chính là cuộc
so tài giữa người sống và người chết ở hai thế giới âm dương. Một ngôi mộ nếu bị
động để kẻ trộm mộ đào bới, tức là thời điểm chủ mộ bị tan xương nát thịt chẳng
còn xa nữa, ngược lại kẻ trộm mộ nếu lọt vào cạm bẫy trong mộ cổ, e rằng khó
tránh khỏi kết cục trở thành vật tuẫn táng. Chúng ta đã để mất thế chủ động một
lần, suýt nữa táng mạng vì bài ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ hư ảo kia, có điều, một
phương án đổ đấu hoàn thiện nhất định phải có kế hoạch B dự phòng, đừng quên
chúng ta vẫn còn pháp bảo chưa dùng đến. Tôi thấy giờ chúng ta nên vào trong
hang chim yến trước, tìm một khu vực ổn thỏa an toàn, rồi dùng Quy Khư quẻ kính
suy đoán phương vị của mộ cổ Địa Tiên, tránh để nhầm đường lần nữa.”
Cả bọn đều gật đầu đồng ý, không ai thắc mắc gì. Lúc
mới vào núi, chúng tôi không muốn dùng cổ kính Quy Khư “hỏi” xem mộ cổ ở nơi
nào, một là vì mạch núi Vu Sơn này trong phong thủy học được gọi là đất “quần
long vô thủ,” long mạch tung hoành chằng chịt, không tìm được nơi “tàng phong tụ
thủy” thì tấm gương cổ bằng đồng xanh này rất có thể sẽ không chiêm đoán được
phương vị của mộ cổ; hai là vì hải khí trong tấm gương đồng đã dần tiêu tán hết,
cùng lắm chỉ có thế dùng chiêm đoán thêm một hai lần nữa thôi, vả lại quẻ tượng
hiện lên khi “thắp nến soi gương” đa phần là quẻ cổ, tôi cũng không dám chắc
mình có thể hiểu được, vì vậy từ đầu đến giờ vẫn không tùy tiện sử dụng. Giờ
đây đã đến đường cùng, mới đành phải cầu viện đến bí quyết chữ “vấn” đã thất
truyền nghìn năm nay của thuật trộm mộ cổ xưa vậy.
Phương án đã quyết, chúng tôi đang định tìm chỗ nào
có thể đặt chân để men theo vách đá leo xuống, chợt phát hiện bầu không như bị
mây đen mù mịt che kín, trước mắt không ngừng có những con yến lướt qua “soạt
soạt soạt,” Shirley Dương kêu lên: “Hỏng bét, lũ chim yến về tổ rồi...”
Hàng vạn con chim yến đã ăn no châu chấu, rào rào
bay về tổ, chỉ thấy cả một vùng đen kịt lao xuống khe sâu, như thể trời đang đổ
trận mưa rào, liên tiếp có những con yến đập vào người chúng tôi. Cả bọn kêu
không ổn, cuống cuồng né tránh đàn yến đang sầm sập lao xuống.
Chim yến không cố ý lao vào người chúng tôi, chỉ là
số lượng đông quá, chen chúc trong khe núi chật hẹp gần như không có khoảng trống
nào mà né tránh. Chúng tôi chỉ biết ôm đầu che mặt lùi về mép của cây xà gỗ màu
đen hòng tránh chỗ đàn yến tập trung đông đúc, chẳng ngờ cuống quá không để ý,
năm người đều nhích về phía bị nghiêng. Cây xà gỗ màu đen kẹt giữa hai vách đá
này tuy có thể chịu được sức nặng, không lập tức gãy lìa, nhưng tầng nham thạch
tại chỗ nó gác vào đã bắt đầu lỏng lẻo.
Chợt nghe tiếng “rắc rắc,” một mảng vách đá toác ra,
cây xà gỗ khổng lồ ầm ầm lăn xuống khe núi sâu hun hút. Trong tình cảnh này, nếu
là loài khỉ vượn thì may ra còn có thể nhảy nhót leo lên, chứ người bình thường
ngoài bám chặt vào xà gỗ, còn có thể làm gì khác đây?
Chúng tôi nhắm tịt mắt ôm chặt cây xà gỗ đen kịt,
bên tai chỉ nghe tiếng gió rít vù vù, xương cốt bị rung lắc đến cơ hồ vỡ vụn.
Cây xà gỗ to đến mấy người ôm lăn xuống giữa hai vách đá gặp chỗ khe hẹp liền kẹt
lại, nhưng lại bị trọng lượng của năm người đè xuống, hai đầu tòe ra, những gạch
ngói còn sót lại bên trên đều rơi rụng lả tả hết, khúc gỗ như thể một bánh xe
khổng lổ, lao vút qua mây mù sương trắng, hết va chỗ này lại đập chỗ kia, lăn
lông lốc xuống đáy khe sâu.
Tôi cũng không biết mình đã bám vào cây xà gỗ màu
đen ấy rơi xuống sâu chừng nào, thần trí cơ hồ đảo lộn, càng không biết cây xà
gỗ dừng ở đâu, chỉ cảm thấy hình như rốt cuộc nó cũng bị kẹt vào giữa hai vách
đá chật hẹp. Cũng may, cây xà gỗ này chắc chắn, khe núi lại rất hẹp, khúc gỗ khổng
lồ rơi xuống dồn nén dòng khí lưu làm hãm bớt đà rơi, nên không rơi thẳng xuống
đáy sơn cốc, cũng không hất mấy người bọn tôi văng ra ngoài.
Mắt tôi tối sầm, nổ đom đóm, một lúc lâu sau mới dần
lấy lại được ý thức, sờ sờ thấy bắp tay cẳng chân vẫn còn nguyên vẹn, không khỏi
thầm thở phào nhẹ nhõm, may mà gỗ kim ty nam cứng rắn khó bì, nếu là loại xà gỗ
bình thường chắc đã vỡ nát từ lâu.
Tôi lắc đầu thật mạnh cho khỏi hoa mắt, nhìn quanh một
vòng, chỉ thấy Shirley Dương và Út thân thể nhẹ nhàng nên cũng không có gì đáng
ngại, đèn pin của họ không biết đã văng đi đâu mất, hai người tay giơ cây pháo
sáng bốc khói đỏ mù mịt kêu xì xì chiếu sáng, đang luống cuống băng bó cho Tôn
Cửu gia máu me đầy mặt. Tuyền béo há miệng nằm trên xà gỗ thở hồng hộc, thấy
tôi tỉnh lại liền nói: “Tôi bảo tư lệnh Nhất này, tim liên tục đập nhanh thế
này... không có lợi cho sức khỏe khéo chết người đấy.”
Tôi miễn cưỡng rặn ra một nụ cười với cậu ta, bấy giờ
mới nhận ra trong mồm mình toàn bọt máu, vừa nãy rơi xuống suýt cắn đứt đầu lưỡi.
Tôi nhổ toẹt ngụm máu trong miệng, hỏi Shirley Dương: “Tôn Cửu gia vẫn còn sống
chứ?”
Shirley Dương chưa kịp trả lời, giáo sư Tôn đã mở mắt
ra nói: “Sao có thể xôi hỏng bỏng không mà chết ở đây được? Tôi không tìm được
quẻ phù Long cốt trong mộ cổ Địa Tiên thì chết không nhắm mắt, bao nhiêu năm
nay tôi mang cái chức giáo sư hão này đi đâu cũng bị người ta lườm nguýt coi
thường, bị người ta tẩy chay mà chẳng làm gì được, chỉ biết khổ sở chịu đựng hết
ngày này đến ngày khác, giờ khó khăn lắm mới có cơ hội một bước lên trời, muốn
chết... thì cũng phải đợi có vai có vế trong giới học thuật rồi mới chết được.”
Tôi nói: “Cửu gia à, có phải đầu ông bị va đập đến hồ
đồ rồi không? Sao càng lúc càng thụt lùi... toàn nói những lời kém cỏi vậy chứ?
Ông tổt xấu gì cũng được coi là phần tử trí thức lão thành từng trải qua khảo
nghiệm gian nan trong Cách mạng Văn hóa, mấy năm nay chẳng qua cũng chỉ không
được để bạt trọng dụng thôi chứ có gì đâu? Tội gì cứ cố chấp mấy thứ hư danh vớ
vẩn ấy chứ?”
Giáo sư Tôn bực bội nói: “Hồ Bát Nhất, các cậu sinh
sau đẻ muộn, đương nhiên không thể hiểu được thứ mà tôi theo đuổi, chỉ cần trở
thành người có vai vế, cậu đánh rắm người ta cũng khen thơm, nói lăng nhăng gì
cũng được người ta cho là chân lí, còn như thấp cổ bé họng, đi đâu cũng bị người
ta khinh rẻ. Cùng là người một thế hệ, lí lịch tương tự nhau, trong công việc
tôi cũng chưa từng thua kém chút nào, tại sao cả đời tôi toàn phải nghe cái bọn
trình độ không bằng mình sai bảo cơ chứ?” Tuyền béo nghe giáo sư Tôn nói những
lời ấy, liền châm chọc: “Tôi thấy tổ chức không đề bạt ông thật là anh minh hết
sức, với sự giác ngộ của ông bây giờ... còn chưa làm lãnh đạo đã mơ tưởng ngồi
trên ghế lãnh đạo đánh rắm với nói lăng nhăng, đến lúc làm lãnh đạo thật há chẳng
phải sẽ lôi cả bọn xuống tắm nước cống hay sao?”
Giáo sư Tôn vội giải thích: “Lúc nãy tôi nói cho hả
tức đấy thôi, tôi là tôi không phục, sao tôi lại không thể làm lãnh đạo được chứ?
Bọn họ thậm chí còn định cho tôi về hưu..., tôi vẫn chưa già, còn thừa nhiệt
tình để phát huy cơ mà!”
Shirley Dương khuyên chúng tôi bớt nói đi mấy câu, đầu
giáo sư Tôn bị đập vào cây xà gỗ vỡ toác cả ra, khó khăn lắm mới cầm máu được,
giờ kích động lên vết thương sẽ lại vỡ ngay.
Lúc này tôi mới cảm thấy vết thương trên vai đau thấu
xương, vội lấy trong ba lô ra chiếc đèn pin mắt sói dự phòng, bật lên chiếu vào
vai mình. Thì ra chỗ bị con châu chấu xuyên vào tận trong thịt vẫn đang chảy
máu không ngừng, tôi giật một mảnh vải sô ngậm trong miệng, xé áo ra quan sát vết
thương, có lẽ phần đầu của con “mao tiên” kia vẫn còn ghim lại bên trong, đành
phải nhờ Shirley Dương dùng Nga Mi thích giúp tôi khêu ra, rồi nhanh chóng sát
trùng khử độc và băng bó lại.
Shirley Dương vội vàng xử lí xong vết thương của
giáo sư Tôn, đoạn hơ mũi Nga Mi thích lên bật lửa, bảo Út cầm đèn pin chiếu
sáng. Cô hỏi tôi: “Em sắp ra tay đây, anh chịu được không?”
Tôi nghiến răng nói: “Chuyện nhỏ như con thỏ, miễn
em đừng run tay là được, nhớ năm xưa anh...” Tôi vốn định dặn dò thêm mấy câu,
nhưng còn chưa dứt lời, Shirley Dương đã bóp chặt vết thương trên vai tôi, dùng
mũi Nga Mi thích vừa mảnh vừa nhọn khêu đầu con châu chấu, cô làm vừa nhanh vừa
chuẩn, tôi còn chưa kịp kêu đau thì cuộc “phẫu thuật ngoại khoa” đã kết thúc rồi.
Shirley Dương lại tưới rượu mạnh lên chỗ bả vai ấy,
khiến tôi xót đến nỗi mồ hôi trán túa ra đầm đìa, định kêu một tiếng, nhưng vừa
há miệng tôi chợt phát hiện ở đoạn cuối cây xi gỗ có thêm một “người.” Tiếng
đau đã ra đến miệng tức thì bị nuốt lại, tôi vội giơ đèn pin mắt sói chiếu ra
phía sau lưng giáo sư Tôn, Shirley Dương biết có dị biến, cũng rút ô Kim Cang
sau lưng ra.
Sau khi rơi xuống khe sâu, cây xà gỗ màu đen này mắc
kẹt vào giữa hai vách đá mọc đầy dây leo và rêu ẩm ướt, không gian cực kì chật
hẹp, nhìn lên trên chỉ thấy một vệt sáng trắng mờ ảo, độ cao không dưới nghìn
thước, nhìn xuống dưới lại là khói sương đen kịt mông lung. Nghe tiếng nước cuồn
cuộn ấy, dường như còn cách đến mấy trăm mét nữa. Nơi này trên không chạm trời,
dưới không chạm đất, sau khi mắt dần thích ứng, cảm giác ánh sáng xung quanh
sáng chẳng ra sáng tối chẳng ra tối, từ chỗ tôi đang ngồi, vừa khéo nhìn thấy ở
sau đám dây leo có một ông già râu dài đang ngồi ngay ngắn, nhưng chỉ thấy hình
dáng, không lại gần thì không thể nhìn rõ được.
Giáo sư Tôn thấy chúng tôi nhìn chằm chằm về phía
mình, vội vàng ngoảnh đầu ra sau, cũng thấy trong khe hở trên vách đá hình như
có người, liền giật nảy mình kinh hãi, vội ôm vết thương trên đầu co rụt người
lại.
Tuyền béo ở đầu bên kia xà gỗ, phát hiện ra chuyện
này liền rút ngay nỏ liên châu ra định bắn, nhưng tôi vội giơ tay ngăn lại: “Đừng
bắn, hình như chỉ là người chết, không biết có phải trung đoàn trưởng Phong
không, đợi tôi qua đó xem sao rồi tính.”
Lần này cả bọn không dám xúm lại một chỗ nữa, mà
chia nhau phân tán ra, cố gắng giữ cho cây xà gỗ chịu lực đồng đều. Tôi băng vết
thương lại, sờ sờ cái móng lừa đen trong ba lô rồi nghiêng người vòng qua giáo
sư Tôn, đến phía trước vách đá giơ xẻng công binh lên gạt đám dây leo chằng chịt,
chỉ thấy trong khe đá có một cỗ quan tài treo. Quan tài làm bằng gỗ tùng vỏ cây
tựa như từng lớp từng lớp vảy rồng.
Nắp quan tài đã bị bật ra, xác chết bên trong ngồi dậy,
hốc mắt sâu hoắm, da thịt khô đét như sáp, nhưng thần thái dung mạo vẫn còn
nguyên, đầu búi tóc, dùng dây gai cột tóc lại, mình vận áo bào rộng thùng thình
màu xám, trong lòng ôm một cây kiếm cổ chuôi dài bằng đồng xanh chạm đầy hoa
văn, lông mày râu tóc đều bạc trắng, chòm râu dài phất phơ nhè nhẹ.
Ông già trong quan tài hẳn đã chết được mấy nghìn
năm rồi, nhưng ở chốn đất lành tàng phong tụ khí như hẻm núi Quan Tài này, cái
xác vẫn được giữ nguyên vẹn, quần áo dung mạo không mục nát thối rữa.
Tôi giơ đèn pin mắt sói chiếu vào cái xác cổ ngồi
trong quan tài ấy, từ trước đến giờ chưa từng gặp qua cái “bánh tông” nào tiên
phong đạo cốt thế này, đang vừa kinh ngạc vừa nghi hoặc, chợt nghe giáo sư Tôn ở
sau lưng lên tiếng: “Cái huyệt này không tầm thường đâu, có lẽ là nơi mai táng
một vị ẩn sĩ thời thượng cổ đấy!”