Ma thổi đèn (Tập 8) - Chương 16
CHƯƠNG
16: KIM GIÁP MAO TIÊN
Cầu tiên vô ảnh do đàn chim yến ghép lại nói tan là
tan ngay, thời gian duy trì rất ngắn ngủi. Đàn chim bay vòng vòng một lúc trên
không trung rồi nhanh chóng giằng thoát ra khỏi vùng không khí hỗn loạn giữa
khe núi, nương đà gió bay tứ tán khắp phía. Chúng tôi bị va đập giữa hàng vạn
con chim yến bay vút lên, tựa như có vô số túi bông gòn đập vào người, vạch nên
một đường parabol giữa khoảng không, rơi xuống “Long môn.”
Tôi đột nhiên cảm thấy cả người rơi xuống, thầm nhủ
phen này chắc chắn thành bánh thịt bằm rồi, vội vàng mở mắt ra nhìn, thì ra lúc
nãy chạy thẳng một mạch trên cầu, cả bọn đã đến rất gần cửa khe núi, lại bị đàn
chim yến hất văng lên một cú, không ngờ đã bay qua được khe núi tối tăm sâu hun
hút, tà tà rơi xuống bệ đá có khắc hai chữ triện cổ “Hách Hồn.”
Mắt gió vô hình kia chỉ tồn tại ở giữa khe núi, đến
gần cửa khe thì đã yếu đi rất nhiều, nhưng gió núi tuy vô hình song lại hữu chất,
làm giảm đi đáng kể lực rơi từ độ cao mười mấy mét xuống. Tôi chỉ thấy trước mắt
hoa lên, bả vai đau nhói, thân hình đã chạm đất, ngã một cú nổ đom đóm mắt, chẳng
còn phân biệt được trên dưới trái phải Đông Tây Nam Bắc nữa.
Còn chưa kịp mừng vì qua được câu tiên vô ảnh, tôi
chợt phát hiện bên dưới cơ thể mình trơn nhây nhẫy, thì ra đã rơi xuống bề mặt
trơn bóng của thác đá. Nơi này không hề có chỗ bám vịn, càng không có khe rãnh
lồi lõm gì để dùng sức, bề mặt thác đá lại có hình cong cong như chiếc gương,
không thể giữ được người ở trên. Thân hình tôi lập tức trượt xuống dưới.
Tôi thầm than không ổn, vội vàng nằm rạp xuống,
không dám dùng sức thêm nữa, chỉ xòe rộng bàn tay ấn lên bề mặt thác đá. Lúc
này, lòng bàn tay tôi đầy mồ hôi lạnh, cũng may, bàn tay đẫm mồ hôi lại phẩn
nào tăng thêm lực ma sát, lập tức ngăn đà rơi lại. Nếu trượt thêm độ nửa mét nữa,
đến đoạn thác đá buông thẳng xuống, thì trừ phi lòng bàn tay tôi có giác hút
như lũ thạch sùng, bằng không chẳng rơi xuống vực sâu cũng bị dòng khí lưu hỗn
loạn cuốn vào trong mắt gió.
Tim tôi đập thình thịch, định thần lại đưa mắt ngó
sang hai bên mới phát hiện giáo sư Tôn cũng đang nằm rạp trên vách, chầm chậm
trượt qua bên cạnh tôi từng chút từng chút một như ở trên mặt băng. Tôi vội
vươn tay tóm lấy cánh tay lão ta, chẳng ngờ bị lão kéo theo, cả hai cùng trượt
xuống mép ngoài của thác đá, vội vàng hô vang lên gọi cứu viện.
Shirley Dương, Út và Tuyền béo đều rơi xuống khu vực
ở mé bên trong, Shirley Dương nghe thấy tiếng hét, biết ngay tình thế nguy cấp,
liền ném Phi Hổ trảo ra móc vào ba lô của giáo sư Tôn. Cô và Út chẳng buồn để ý
đến thân thể đang đau nhức, nghiến răng kéo tôi và giáo sư Tôn từ mép thác đá
trơn nhảy trở về, tựa như kéo hai con chó chết.
Năm người ngã vật ra đất, tôi nhìn anh, anh nhìn
tôi, nét mặt ai cũng hoảng hốt ngẩn ngơ, người nào người nấy đều run rẩy, mặt cắt
không còn giọt máu, trong tai lùng bà lùng bùng.
Tôi thở hắt ra một hơi, nhìn sang thấy giáo sư Tôn
đang nhíu chặt hai hàng lông mày, trán không ngừng túa mồ hôi lạnh. Hỏi ra mới
biết, thì ra sau cú trượt ngã vừa rồi, xương vai lão đã bị trật khớp. Trong cơn
đau đớn, lão ta vẫn không ngừng lẩm bẩm: “Nếu đã phát hiện được bí mật của cầu
tiên vô ảnh xem ra mộ cổ Địa Tiên chỉ còn cách chúng ta trong gang tấc thôi, chỉ
cần sao lại quẻ phù Long cốt trong mộ thì công thành danh toại chỉ là chuyện một
sớm một chiều, không ngờ Tôn Học Vũ này cuối cùng cũng có ngày được ngẩng đầu
lên, để xem sau này còn kẻ nào dám chụp mũ bậy bạ cho ta nữa không... khụ khụ…”
Nói được nửa chừng thì đau quá không chịu nổi nữa, lão vội vàng nhờ tôi giúp chỉnh
lại cánh tay trật khớp.
Tôi cũng bị ngã đau nhức hết cả mình mẩy, không dùng
sức được, liền nói: “Cửu gia, ông đừng vui mừng quá sớm, vừa nãy tôi còn định
khuyên mọi người xem rõ tình hình rồi hãy qua cầu, ai ngờ ông và Tuyền béo lại
nóng nảy thế, giờ thì trước khi lũ yến về tổ, chúng ta không còn đường nào để
trở lại bên kia nữa rồi...” Nói đoạn, tôi quay sang bảo Tuyền béo giúp giáo sư
Tôn nắn lại chỗ trật khớp. Hồi xưa đi về nông thôn tham gia lao động sản xuất,
hễ lừa ngựa trong thôn bị thương, ông lang vườn ở đó thường hay dẫn Tuyền béo
theo làm trợ thủ, vì Tuyền béo ra tay dứt khoát, không biết nặng nhẹ, chứ người
nào chùn tay thì làm bác sĩ sao được.
Tuyền béo cắn răng bò dậy, lại gần tóm lấy cánh tay
phải của Tôn Cửu gia lắc lên lắc xuống, xém chút nữa làm lão ta đau đến tắc thở.
Tôn Cửu gia rối rít kêu toáng lên: “Ai cha... ai cha... chậm thôi... không phải
tay này... tay kia cơ!”
Tuyền béo chợt sực nhớ ra điều gì đó: “À, tôi bảo
này, vừa nãy ai đẩy tôi qua cầu thế? Số đen chút nữa là ngã thành đậu phụ nát rồi,
chuyện này cũng đem ra đùa được hả? Nhất kia, cóphải thẳng nhãi nhà cậu lại giở
trò chơi bẩn không? Thái độ của chúng ta đối với cuộc sống và công việc, chẳng
lẽ không thể nghiêm túc hơn một chút hay sao?”
Tôi cả kinh nói: “Rõ là nói nhảm, không có gió lại nổi
sóng cồn. Vừa nãy cậu bị người ta đẩy lên cầu thật hả? Chẳng trách tôi thấy cậu
bước cứ loạng choạng, ai đẩy cậu vậy?”
Tôi vội nhớ lại tình hình trước lúc xông qua cầu
chim yến, bấy giờ giáo sư Tôn đang kích động, đứng chắn phía trước mọi người,
nên không thể nào đẩy Tuyền béo đang ở sau lưng lên cầu được. Shirley Dương khẳng
định không làm những chuyện không phân nặng nhẹ như thế. Út tinh thông các kì
thuật Phong Oa sơn, vừa gan dạ vừa nhanh mồm nhanh miệng, nhưng theo tôi thấy,
cô tuyệt đối không phải hạng người giở trò âm hiểm xảo trá, vậy thì là ai mới
được chứ?
Một cái bóng chợt nhoáng qua trong đầu, tôi vội ngẩng
lên nhìn sang phía bên kia khe sâu, chỉ thấy con khỉ Ba Sơn chúng tôi gặp trong
hầm phòng không đang đứng ở cửa hang nhíu mày nhăn mặt với chúng tôi, bộ dạng rất
gian xảo.
Toàn thân tôi lạnh cóng, quên cả đau đớn, lập tức nhảy
phắt lên: “Gay rồi, ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ trên tấm bia vỡ kia... tám chín phần
là một cạm bẫy!”
Trộm mộ là cuộc so tài giữa người sống và người chết,
trong cuộc đọ sức này, chủ mộ vĩnh viễn ở thế bị động, vì những bố trí trong lăng
mộ không thể thay đổi, nhưng binh bất yếm trá, mộ giả mộ ảo cùng vô số thủ đoạn
cao minh khác hòng làm nhiễu loạn mê hoặc kẻ trộm mộ xưa nay vốn không phải là
ít. Nếu kẻ trộm mộ trúng phải cạm bẫy mai phục trong mộ cổ, thế chủ động và bị
động sẽ lập tức đảo ngược.
Nhưng mấu chốt của cạm bẫy nằm ở chỗ ẩn giấu và mê
hoặc, khiến người ta không thể dò đoán, nếu không tự chạm vào làm kích phát, có
thể sẽ chẳng bao giờ đoán được đấy là thật hay giả. Quan Sơn thái bảo quả không
hổ là bậc lão luyện trong nghề trộm mộ, hành sự ngược hẳn lẽ thường. Cái xác vô
danh ở lối vào đường hầm quả là một chiêu hết sức cao minh không ai đoán được
người đó là ai, có thể suy luận ra vô số giả thiết khác nhau, nhưng lại chẳng
thể xác nhận được giả thiết nào cả.
Cầu tiên vô ảnh nhìn mà chùn bước ấy, cũng sẽ khiến
người ta hiểu lầm là một chỗ “kì môn,” nếu không bị hiểm cảnh làm cho sợ hãi
rút lui, thì cũng bị mộ đạo phía sau cầu tiên dẫn dụ, liều chết xông qua để rồi
lạc lối. Trong khe núi này chắc chắn không phải là mộ cổ Địa Tiên thật sự,
không biết còn ẩn chứa cạm bẫy chí mạng gì đây.
Út bảo tôi: “Có lẽ tại anh Tuyền béo hấp tấp, chưa hỏi
rõ ngọn ngành gì đã bắn con khỉ kia một phát, mà nó lại là giống thù dai, muốn
đẩy anh ấy lăn xuống vực, phía bên này cầu chưa chắc đã phải cạm bẫy đâu.”
Giáo sư Tôn nghe chúng tôi nói chuyện, cũng vừa kinh
ngạc vừa nghi hoặc, buông thõng một cánh tay xuống hỏi: “Lẽ nào... lẽ nào chúng
ta đã rơi vào tuyệt cảnh? Nơi này không phải mộ cổ của Di Sơn Vu Lăng Vương?”
Nói đoạn, lão ta cúi đầu ngẫm nghĩ, lại cảm thấy không đúng, liền nói tiếp: “Hồ
Bát Nhất, cậu đừng có suy đoán chủ quan như vậy được không? Phải giữ thái độ
khách quan đối với vấn đề chứ? Cầu tiên vô ảnh ấy quả thực là hiện tượng hãn hữu
trên thế gian này, bên trong khe núi lại có thú đá đứng thành hàng, thế núi uy
nghiêm hiểm trở, tôi thấy rất có khả năng lối vào mộ cổ Địa Tiên nằm ở đây đấy,
chúng ta cân phải điều tra kĩ lưỡng rồi mới kết luận được.”
Tôi hừ lạnh một tiếng nói: “Tôi thấy ông mơ tưởng được
nổi danh đến nỗi mụ mị đầu óc đi rồi, trong mắt chỉ còn thấy mỗi quẻ phù Long cốt
thôi, chính ông mới mất lập trường nhìn nhận vấn đề khách quan thì có.”
Shirley Dương vội can thiệp: “Hai người đừng tranh
cãi nữa, bản thân mộ cổ Địa Tiên vốn do một cao thủ trộm mộ thiết kế, nửa vô
tình nửa cố ý để lại rất nhiều đầu mối, nhưng lại không thể xác định đầu mối
nào là thật đầu mối nào là giả. Cũng có nghĩa, ngay từ đầu chúng ta đã bị cái gọi
là ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ kia dắt mũi kéo đi rồi, đây mới chính là chỗ cao minh
của Quan Sơn thái bảo, giờ muốn thoát khỏi cục diện hiện tại, thì chỉ còn cách
gạt bỏ hết những ám thị của ‘Quan Sơn chỉ mê phú’ ra khỏi đầu thôi.”
Giáo sư Tôn lại nói: “Nếu đã không thể phán đoán thật
giả, tức là ít nhất cũng có năm mươi phần trăm khả năng là thật, ngộ nhỡ bài
‘Quan Sơn chỉ mê phú’ ấy là thật, vậy chẳng phải chúng ta thành trống đánh xuôi
kèn thổi ngược sao?”
Tôi ngẩng đầu nhìn quanh, chỉ thấy vô số chim yến
đang lượn vòng trong hẻm núi, tiếng kêu thê lương khiến bầu không khí nơi đây
dường như ngập đầy những tín hiệu nguy hiểm. Tôi nói với cả bọn: “Thật hay giả,
sẽ có đáp án nhanh thôi. Nếu nơi này đúng là một cạm bẫy thì trước khi lũ yến về
đến tổ, chúng ta có thể sẽ phải đối mặt với mối nguy hiểm lớn lao bất cứ lúc
nào. Nhưng nếu đợi đến lúc cả đàn yến về tổ hết rồi mà xung quanh vẫn không có
động tĩnh, thì có thể nói hoàn cảnh của chúng ta tương đối an toàn.”
Tuyền béo cũng ngẩng đầu nhìn khe trời mảnh như sợi
chỉ trên đầu, trầm ngâm nói: “Tư lệnh Nhất à, từ đầu cậu đã biết có nguy hiểm
sao vẫn còn dẫn cả bọn qua đây? Phải biết là... linh động tiến lui hồi chuyển,
sử dụng chiến thuật du kích mới có thể thắng được cường địch, anh Tuyền nhà cậu
đã nói đi nói lại không biết bao nhiêu lần rồi, không thể lấy cứng chọi cứng, sớm
nghe tôi đừng nên qua cái cầu cứt chó ấy có phải hơn không.”
Tôi bảo cậu ta: “Nếu thằng ngu nhà cậu không lăn qua
cầu trước, tôi đây cũng không tùy tiện xông qua làm gì. Điều tôi lo lắng nhất
chính là nhân thủ phân tán, chỉ cần tập trung binh lực, nắm chặt tay lại, cho
dù cả bọn phải mạo hiểm một chút, ít nhiều cũng có thể lo cho nhau, dù sao vẫn
còn hơn lần lượt rơi rụng từng người. Tôi đây cũng có nguyên tắc có lập trường,
thái độ khách quan hay không thì không dám nói nhưng tuyệt đối không có chuyện
bỏ rơi những đồng đội bị thất tán khỏi đội ngũ đâu.”
Lúc này, tôi thấy đàn yến trên không trung càng lúc
bay càng thấp, không biết sắp xảy ra chuyện gì, vội đưa tay ra hiệu, bảo Tuyền
béo đừng nói nữa, mau mau nắn lại khớp xương bị trật cho giáo sư Tôn. Sau đó,
tôi lại liếc nhìn sang phía Shirley Dương, có lẽ cô cũng dự cảm được sắp có sự
việc gì xảy ra, nên cũng đưa mắt nhìn tôi. Bốn mắt nhìn nhau, lòng đã hiểu
lòng, cô chầm chậm rút ô Kim Cang ra, chắn phía trước Út.
Đúng lúc này, chỉ thấy đàn chim yến trong khe núi đột
nhiên tách ra thành mấy trăm nhóm, rồi tựa như những làn khói nhẹ lao vào hai
bên vách núi. Cả bọn đều ngẩn người ra: “Hành vi của lũ chim yến này hết sức
quái dị, chúng không trở về tổ, rốt cuộc muốn làm gì đây?”
Khe núi ở phía sau Long môn này phẳng như bị búa xẻ
làm đôi, đường đi bên trong được đục đẽo rất bằng phẳng, nhưng ở tận cùng, hai
vách núi khép lại, chỉ thấy sương khói mịt mù. Đàn chim yến vừa lao tới, mây mù
mông lung đột nhiên tản đi, những chỗ bị màn sương che mờ thảy đều lộ ra hết.
Chúng tôi đứng ở cửa khe núi, cũng có thể nhận ra phía trước là đường cụt chứ
không phải “thần đạo” thông đến làng tẩm mộ cổ gì. Nhìn thấy cảnh tượng đó, cả
bọn đều như bị giội cho một gáo nước lạnh.
Sau một thoáng ngẩn người, lại thấy ở chân vách núi
dựng đứng có rất nhiều hang động như kiểu nhà hầm, trước cửa hang cắm toàn người
cỏ. Những hình nhân bện bằng cỏ tranh này đều khoác áo xanh kiểu cổ, lưng thắt
dây thừng vàng, đầu đội đạo quan, ăn mặc hệt như đạo sĩ vậy.
Khe núi này có long khí tung hoành, sinh khí vô hình
vô chất mờ mịt phảng phất, những hình nhân cỏ mặc đồ đạo sĩ này ít nhất cũng phải
đến mấy trăm năm tuổi, tuy đã mục nát, nhưng màu sắc và hình dáng vẫn chưa tiêu
tan, vạt áo xanh lá nhè nhẹ lay động. Phần mặt hình nhân bịt vải bố, bên trên
dùng sơn đỏ vẽ đầy đủ mắt mũi miệng, còn thêm cả hàm râu, cỏ tranh đâm ra tua tủa,
thoạt trông như thể một bầy ma quỷ bằng cỏ ẩn nấp chốn thâm sơn cùng cốc.
Vật cầm trên tay những đạo sĩ bằng cỏ tranh ấy lại
càng kì quái bội phần, không hiểu là thứ gì nữa. Chúng tôi đã đi qua nhiều nơi,
ở vùng nông thôn hẻo lánh cũng từng gặp đủ loại bù nhìn, nhưng chưa từng gặp thứ
bù nhìn đạo sĩ làm bằng cỏ có phục sức đặc biệt, toàn thân đầy tà khí như thế
này, người nào người náy đều không khỏi nảy sinh một dự cảm chẳng lành.
Lũ chim yến kết thành từng đám dường như rất sợ hãi
những đạo sĩ bện bằng cỏ tranh, chỉ bay lượn rồi kêu toáng lên phía trước các
hang động, không giống như muốn bỏ đi, lại cũng không dám tiến thêm nửa thước.
Tôi thấy địa thế sâu bên trong khe núi khép lại, mấy mặt đều là vách đá dựng đứng,
còn khe sâu phía trước Long môn thì bị “mắt gió” phong tỏa, tuy biết rõ đại họa
đã như lửa cháy lông mày nhưng thực tình không biết phải rút lui về hướng nào nữa,
cũng không biết sắp xảy ra chuyện gì, đành đứng nguyên tại chỗ nhìn đàn chim yến
bay loạn khắp trời.
Giáo sư Tôn dột nhiên hỏi Út: “Cô nhóc, cháu có biết
những hình nhân đạo sĩ bằng cỏ kia để làm gì không? Hồi trước ở Thanh Khê có thứ
này không?”
Út lắc đầu, chưa từng thấy, phen này tiến vào hẻm
núi Quan Tài cô mới biết thì ra ở quê mình có nhiều thứ li kì cổ quái đến vậy,
hồi trước có nằm mơ cũng không thể ngờ được.
Shirley Dương hỏi giáo sư Tôn: “Sao vậy? Ông cảm thấy
những hình nhân bằng cỏ này có vấn đề gì à?”
Giáo sư Tôn nuốt nước bọt, như sợ làm kinh động đến
thứ gì đó, thấp giọng thì thào: “Trước đây, tôi từng công tác ở khu vực Ân
Khư(7), Hà Nam một khoảng thời gian, trong vùng có ngôi miếu Thổ Địa, bên trong
thờ toàn đạo sĩ bện bằng rơm rạ. Bấy giờ chúng tôi còn cảm thấy phong tục này rất
kì lạ, về sau điều tra mới biết, vào thời nhà Minh, khắp nơi hạn hán, châu chấu
thành nạn, người thời đó mê tín, không nghĩ cách diệt châu chấu, mà ngược lại
còn coi lũ châu chấu như thần tiên, gọi là Hoàng tiên, dân gian tục gọi là Mao
thảo yêu tiên, đa phần đều dùng rơm rạ của ngũ cốc kết thành hình người để cung
phụng, cầu cho nạn châu chấu mau qua...”
(7)
Di chỉ kinh đô cuối đời Thương (nay ở gần thôn Tiểu Đồn An Dương tỉnh Hà Nam,
Trung Quốc. Năm 1899 phát hiện chữ giáp cốt ở đây).
Shirley Dương hỏi: “Ý ông là những hình nhân cỏ này
là Mao tiên? Trong hẻm núi Quan Tài này có châu chấu sao?”
Giáo sư Tôn nói: “Giống thôi... tôi chỉ muốn nói những
hình nhân cỏ này hơi giống với Mao thảo yêu tiên, chú ý cách dùng từ của tôi chứ.”
Tôi lấy làm ngạc nhiên: “Trong hẻm núi Quan Tài này
sao lại có châu chấu được? Trên đời này có thứ châu chấu sống trong hang núi
hay sao?”
Shirley Dương khẽ gật đầu: “Chỉ có châu chấu hướng đạo
là đẻ trứng trong hang động, năng lực sinh sôi nảy nở rất mạnh, một khi chúng
xuất hiện thành đàn thì số lượng sẽ cực kì khủng khiếp, chẳng lẽ những hình
nhân bằng cỏ này đều do Quan Sơn thái bảo bố trí...”
Một câu này của cô đã đánh thức người trong mộng,
lòng tôi lập tức dâng lên một nỗi tuyệt vọng khôn cùng, kì quan cầu tiên vô ảnh
do mấy nghìn mấy vạn con chim yến hợp thành có lẽ không phải được thiên nhiên tạo
nên, mà do cao nhân dày công bố trí. Trong vô số những hang động ở đây đều nuôi
đầy châu chấu hướng đạo, bọn chúng chính là thức ăn của đàn chim yến kia.
Chuyện về châu chấu hướng đạo tôi cũng từng nghe
qua, tương truyền loại châu chấu này không chỉ ăn ngũ cốc, mà đến lúc đói ngấu
thì xác người xác chó gì cũng ăn tuốt, chân sau của nó có răng cưa sắc bén, tần
số đập cánh cực cao, mỗi lúc bay qua chẳng khác nào một lưỡi dao sắc nhọn xoẹt
ngang, đụng phải thân thể người liền để lại một vết thương máu thịt bầy nhầy,
vì vậy chúng còn được gọi là châu chấu đao giáp. Nếu châu chấu hướng đạo góp mặt
trong nạn châu chấu thì quả là một tai họa khủng khiếp. Nghe nói, từ thời trước
Giải Phóng, giống châu chấu này đã tuyệt chủng ở Trung Quốc rồi, chim chính là
thiên địch của chúng, nhưng ai biết được trong hẻm núi Quan Tài này có còn một
đàn châu chấu hướng đạo nữa hay không?
Những hình nhân cỏ sắp hàng trước cửa hang động
không biết là để lợi dụng tập tính của chim yến, hay bên trong hang có để sẵn
loại bí dược gì có thể giữ mùi suốt thời gian dài khiến lũ chim yến không dám
xông vào ăn sạch cả đàn châu chấu, mà mỗi ngày chỉ có thể lùa ra một số bắt ăn
để sinh tồn. Nếu đúng vậy, thì quả là đã lợi dụng được lẽ tuần hoàn của vạn vật
trong trời đất, chỉ cần sắp xếp thích đáng, cộng thêm sức mấy chục mấy trăm người
là có thể bày bố ra được, mà còn hiệu quả hơn nhiều tường cao hào sâu trong đế
lăng dùng sức nghìn vạn người dựng nên. Đây là một cơ quan sống! Lẽ nào Đại
Minh Quan Sơn thái bảo quả thật là bậc thần tiên thông thiên triệt địa hay sao?
Từ khi bước vào nghiệp Mô Kim hiệu úy, tôi đã gặp
nhiều kì ngộ, nghe nhiều sự lạ trên đời, trong đó cảm thụ sâu sắc nhất chính là
một câu giáo sư Trần từng nói: “Nghìn vạn lần đừng coi thường trí tuệ của cổ
nhân.”
Những trường hợp sử dụng dị thuật lợi dụng sự sinh
khắc của vạn vật nhằm trộm mộ hay phòng chống trộm mộ, tôi chẳng những từng
nghe nói rất nhiều, mà bản thân cũng tận mắt chứng kiến không ít, thấy tình cảnh
này, liền lập tức nghĩ tới những chuyện ấy, vội vàng nói: “Mặc xác trong hang
có thứ ấy hay không, ngộ nhỡ chúng mà chui ra thì tiêu đời, chúng ta mau tìm chỗ
nào nấp đi đã.” Nhưng bên trong hẻm núi toàn những hình nhân bằng cỏ mặc đạo
bào, cũng không rõ rốt cuộc có bao nhiêu hang châu chấu, lấy đâu ra chỗ trốn
bây giờ?
Lúc này lũ chim yến trên không vẫn không ngừng đảo
lượn kêu ríu rít, trong các hang động ở hai bên vách núi cũng nghe tiếng gió ào
ào, như đàn ong đập cánh. Chợt thấy đàn chim náo loạn cả lên, từng đàn châu chấu
hướng đạo từ trong các hang động ùa ra như những đốm lửa vàng. Lũ châu chấu này
toàn thân ánh lên sắc vàng, cánh màu bạc, thể hình nặng nề, lại có lớp vỏ cứng
rắn, không thể bay lên quá cao, nên chỉ lao qua lao lại vun vút ở tầm thấp.
Chúng tôi vội vàng lùi về phía vách núi, nào ngờ từ
trong hang động phía sau lại lao vút ra hai con châu chấu vàng óng ánh. Bị
thiên địch bức bách, chúng liền nháo nhào lao về phía chúng tôi khiến mọi người
hoa cả mắt, chỉ thấy hai đốm lửa lóe lên, con châu chấu vàng đã bổ tới trước mặt.
Shirley Dương hét lớn: “Cẩn thận!” đoạn nhanh chóng xòe ô Kim Cang ra chắn, chợt
nghe đinh đang như tiếng kim loại va nhau, hai con châu chấu to bằng ngón tay
cái đều đập thẳng vào mặt ô Kim Cang rồi bắn tóe ra như hai vì sao sa, còn chưa
chạm đất đá bị lũ chim yến trên không lao xuống đớp gọn.
Nhưng lũ châu chấu hướng đạo óng ánh sắc vàng kia quả
thực rất nhiều, cứ ùn ùn bay tới đâu là che khuất mặt trời tới đó, vả lại khi
nãy Shirley Dương dùng ô Kim Cang chắn hai con châu chấu bay tới, chỉ nghe hai
tiếng đinh đang cũng đủ biết bọn chúng lợi hại nhường nào, lực va đập ấy quyết
không kém gì lực bắn của ná cao su, thân thể máu thịt của con người làm sao chịu
nổi.
Mắt thấy lũ châu chấu bay thành từng mảng từng mảng
trong khe núi, khí thế cực lớn, đàn chim yến nhanh nhẹn cũng không dám xông thẳng
vào mũi nhọn của con mồi, chỉ lượn lờ trên không trung, chuyên nhằm bắt những
con bay loạn lạc bầy. Còn lại cả một đàn châu chấu giáp vàng ước chừng mấy trăm
nghìn con dần tụ lại thành một đám, bay qua bay lại. Mấy người chúng tôi thảy đều
dâng lên một cảm giác lạnh lẽo tự đáy lòng. Giờ đây họa may chỉ có ô Kim Cang
có thể tạm thời chống đỡ, khốn nỗi lại chỉ có một chiếc, dù phòng thủ kín kẽ,
giọt nước cũng không lọt nổi, nhưng làm sao một chiếc ô có thể bảo vệ được tính
mạng năm con người?