Ma thổi đèn (Tập 7) - Chương 33

CHƯƠNG
33

SƯƠNG
ẨN HÀNH LANG

Gà Gô thấy một người con gái mặc y phục thời Minh, đứng
bất động trên tầng hai tòa lầu sắt, nền nhà phủ một lớp bụi dày nhưng không hề
có dấu chân, xem ra mấy trăm năm rồi không ai qua lại, chả nhẽ là gặp ma? Anh
ta khẽ rùng mình, lại muốn xem người con gái này có gì cổ quái, bèn bước lên
trước hai bước, từ phía sau giơ tay vỗ vào vai cô ta, không ngờ chỉ vỗ vào khoảng
không.

Gà Gô vồ hụt, vội né người lại, chỉ thấy từ vị trí người
con gái bỗng chốc bốc lên một làn khói bụi, tản ra khắp một căn phòng chật hẹp.

Đám trộm tưởng có độc vội vàng nín thở, bịt mũi bịt
mồm tránh cả ra xa. Gà Gô từ khi bước vào tòa lầu cũng cảm thấy nơi đây dược
khí nặng nề, sợ đụng phải bẫy khói độc nên đã sớm phòng bị kĩ càng. Có điều người
con gái kia vừa bị chạm phải đã hóa thành bụi, lớp bụi dày như một lớp sương
mù, nhưng hoàn toàn không có vẻ gì khác thường.

Gà Gô đeo gang tay da cá nhám, tiện thể chộp vào đám
sương mù một cái, soi đèn thì thấy trên găng tay mạt giấy khô xác, nát vụn như
bột, chỉ còn sót lại vài vết tích gân giấy, chả nhẽ đây là người giấy được cắt
dán tinh xảo, đặt trong phòng đã mấy trăm năm, gân giấy sớm đã khô xác, vừa bị
chạm vào lập tức hóa thành tro bụi. Gà Gô càng lấy làm lạ: “Lẽ nào người con
gái này không phải người cũng chẳng phải ma, chỉ là hình nhân bằng giấy? Vậy mà
nom y như người thật, quả là thật tài tình, nhưng cô ta mang trang phục thời
Minh, sao lại ở trong lộ phòng bằng sắt khóa kín này được? Niên đại này…”

Liên tiếp gặp phải bao chuyện kì lạ trong núi Bình
Sơn, người học vấn uyên bác như anh ta cũng không sao đoán được nguồn cơn. Anh
ta đi quanh căn phòng sắt trên lầu hai một vòng, thấy không có gì bất thường, cửa
sổ và cửa ra vào đều khóa chặt, thực sự khó phán đoán người giấy đời Minh kia
được đặt trong phòng bằng cách nào, chẳng nhẽ do mình hoa mắt? Bụng đầy ngờ vực,
anh ta bèn quay xuống dưới lầu, đến bên cây quế già, đem chuyện gặp phải trong
lộ phòng cho lão Trần nghe.

Lão Trần nghe xong cũng thấy kì lạ, vắt óc suy nghĩ
mãi chẳng tìm chút manh mối nào, đành cử người đi lục soát ba tòa lầu sắt còn lại,
hoặc bẩy hoặc đào, bật tung cửa từng tòa, trong ngoài lục lọi một lượt mới biết
bốn tòa lầu sắt này thì ra chẳng cất giấu thứ báu vật đại nội gì. Động huyệt dưới
đáy giếng này là mật thất, còn bốn tòa lầu sắt đen sì kia đều là lộ phòng cất
giữ đơn dược quý báu và thư tập kinh điển, bọn họ vơ vét được không ít của cải,
chỉ riêng hà thủ ô thành hình đã lên đến hơn chục cặp, nhưng trong cả ba tòa lầu
còn lại không thấy hình nhân bằng giấy mặc trang phục thời Minh nào nữa.

Lão Trần thấy thu hoạch không nhỏ, khoan hãy nói tới
những thứ đơn hoàn cao tán đã hàng trăm năm không biết còn có dược tính hay
không, chỉ riêng những cái chai lọ đựng thuốc đều là cổ vật thời Hán Đường, cái
nào cũng giá trị vô cùng. Nhưng trước sau vẫn không tìm thấy cái cương thi già
gọi là “Thi vương Tương Tây” đâu cả, nếu làm đến đây rồi thôi, lão thân làm đầu
sỏ đám trộm mộ không biết giấu mặt đi đâu nữa, dù gì cũng đã mất hơn trăm anh
em ở cái chốn Bình Sơn này rồi.

Lão quyết định tiếp tục lùng sục, cho quân tản ra khắp
nơi trong huyệt động có cây thi quế. Đám trộm đốt đuốc lùa gà, xếp thành một bức
tường người, sục sạo kĩ từng khe núi hốc đá xung quanh.

Phạm vi tìm kiếm được mở rộng, đám người dần phát hiện
động huyệt này bao quanh bởi một bức thành đồng vách sắt, tạo thành một mảnh
sân ở giữa. Ngoài bốn tòa lầu sắt dưới cây thi quế, còn có đơn thất luyện đơn,
bên trong xây lò gạch ống bễ, để vài dụng cụ bằng đồng xanh cổ đại, đằng sau tấm
bình phong bằng ngọc thạch là một cánh cửa bị khóa trái bên trong.

Lão Trần và Gà Gô tuy là những bậc “trạng nguyên
khôi tinh” đứng đầu làng đổ đấu, nhưng trước giờ chỉ trộm mộ cổ, vào đơn cung gặp
phải bao thứ bình sinh chưa từng trông thấy, đều thầm lấy ngạc nhiên. Tìm kiếm
mấy lượt vẫn không phát hiện ra dấu vết địa cung cổ mộ, cuối cùng cả bọn tới
trước cánh cửa lớn đằng sau tấm vách ngọc, lão Trần bèn lệnh cho người dùng cuốc
xẻng nạy cửa, tiếp tục đi sâu vào bên trong.

Lão dựa vào địa thế Bình Sơn để phán đoán, sau cánh
cửa này có lẽ thông tới đáy hậu điện, nhưng địa hình trong lòng núi vốn lắt léo
phức tạp, bên trong ủng thành, chính điện lẫn đơn cung đều không có dấu vết của
mộ cổ đời Nguyên. Sau khi phóng hỏa hậu điện, cả bọn vội vã thoát ra ngoài,
nhưng trong ngôi điện đó quả thật có xương ngựa, binh khí, giáp trụ bồi táng, cứ
từ giếng đơn này suy ra thì dưới hậu điện chắc cũng có mật thất mật động gì đấy,
mộ thất thực sự có lẽ nằm đâu đó gần đấy.

Đoạn lão lệnh cho thuộc hạ phá tung cửa lớn, còn
mình cùng Gà Gô đứng đợi giữa mảnh sân bên trong bức tường sắt. Khi đó lão Trần
có dã tâm rất lớn, lão cho rằng đám trộm Xả Lĩnh chuyên bày trò tụ tập mưu phản,
dưới triều đại nào cũng luôn là “cái đinh trong mắt cái dằm trong tay” của bọn
quan phủ, thế lực phái Xả Lĩnh tuy lớn, nhưng một khi thiên hạ thái bình, bọn họ
sẽ trở thành mục tiêu trấn áp đầu tiên của quan binh, đến nay khó khăn lắm mới
gặp cảnh thiên hạ đại loạn, phiên quân chia rẽ, đây chính là lúc cần phải mở rộng
thế lực, thâm nhập vào “Côn Luân sơn,” chính vì vậy lão vẫn luôn ngấm ngầm hỗ
trợ tiền cho vài lộ phiến quân, đi khắp nơi lôi kéo người tài trong thiên hạ.

Trước mắt lão tự thấy bản lĩnh đổ đấu của mình còn
thua Gà Gô một bậc, nên sớm có ý lôi kéo Ban Sơn đạo nhân nhập bọn, có kẻ bản
lĩnh cao cường như Gà Gô làm trợ thủ đắc lực, lão có thể rảnh tay chuyên tâm
vào củng cố thế lực quân phiệt, như thế lo gì đại sự không thành? Có điều con
người này trước sau chỉ thích độc hành, tầm nhìn lại xa, muốn anh ta nhập bọn
thực không phải là dễ.

Nhân đây lão muốn vòng vo thăm dò ý tứ Gà Gô, kiếm cớ
lôi kéo Ban Sơn đạo nhân nhập bọn. Đảo hai hàm răng, uốn ba tấc lưỡi, lão bắt đầu
nói từ Thi Vương Tương Tây trong mộ cổ Bình Sơn. Nghe tên dẫn đường người Miêu
nói, vùng lưu vực sông Mãnh Động nhiều núi cao rừng sâu, nhất là ngọn Bình Sơn
dưới chân Lão Hùng Lĩnh, trước đây thường có người lên đó hái thuốc, bị cương
thi nấp trong khe núi kéo vào hút hết máu tủy, những người may mắn thoát chết đều
nói, cương thi đó thân hình vô cùng cao lớn, thân khoác bào tím lưng thắt đai
vàng, nhìn trang phục thì biết không phải vương hầu cũng là thừa tướng, cho nên
đều gọi là Thi vương Tương Tây. Nghe nói ban ngày ban mặt nó cũng dám mò ra hại
người, từ đó không ai dám bén mảng đến gần núi này nữa, vậy mà chúng ta lên núi
chỉ thấy đủ loại trùng độc, chứ chưa gặp yêu tinh yêu tướng gì cả, xem ra mấy
truyền thuyết của đám người Động Di kia không hề đáng tin.

Gà Gô lòng đầy tâm sự, nghe những lời không đầu
không cuối của lão Trần bèn thuận mồm đáp: “Trần thủ lĩnh nói rất phải. Nghe
nói vùng Lưỡng Quảng – Quảng Đông Quảng Tây cũng có nhiều truyền thuyết tương tự,
phàm đào được cổ thây quý tộc, chỉ cần nhìn thấy trang phục xa hoa, lưng thắt
dây vàng đai ngọc, lập tức một đồn mười mười đồn trăm, gọi là Thi vương, gần
như cương thi cũng có thể phân làm Tam lục, cửu đẳng, sinh thời làm Vương công
sau khi chết đi, thi biến cũng lợi hại hơn cương thi bình thường. Quan niệm này
của đám trộm vặt ngu dân, nói ra chỉ tổ nực cười.”

Lão Trần liền bảo, người anh em nói rất có lí, thực
ra người cao quý lúc sinh thời sau khi chết đi, cách an táng và bảo quản thi
hài không giống như bách tính nghèo khổ, cho nên thi hài quý tộc moi lên từ mổ
cộ thường vẫn tươi tắn sinh động nhờ tác dụng của minh khí quan tài; còn thi thể
người nghèo chôn trong bãi tha ma, nếu không bị chó hoang moi lên gặm xương thì
cũng bị dòi bọ gặm nhấm, chỉ chưa đầy nửa năm, ngay cả xương sọ cũng khó lòng
nguyên vẹn nữa là. Cho nên sinh tiền là vương công tôn quý, chết đi thi thể vẫn
tôn quý vạn phần so với bách tính tầm thường, còn được làm “Thi vương” hù dọa
đám người khổ mạng đổ đấu chúng ta nữa chứ, nghĩ mà bực mình, chỉ tổ càng thêm
căm hận..

Lão Trần nhân cơ hội chuyển chủ đề, đi thẳng vào vấn
đề chính, nói: “Cái nghề đổ đấu này tuy có thể kiếm bộn tiền nhưng trong mắt
người ngoài lại vô cùng tăm tối, năm này qua năm khác tiếp xúc với minh khí
quan quách trong mộ cổ, khắp người khó tránh âm khí. Bọn chúng ta không phải
sinh ra đã muốn làm cái việc đào mổ quật mả vơ vét cổ động này, nhưng tạo hóa
âm dương có cái lí của nó, cứ theo như tôn chỉ Ban Sơn Phân Giáp thuật của phái
Ban Sơn các chú, thì trên cõi đời này một vật sinh ra tất có một vật khắc chế,
vậy nghệ nhân đổ đấu chính là khắc tinh của cái đám sinh tiền phú quý đó đấy
thôi.

Thời thế loạn lạc, nạn binh đao thiên tai xảy ra
liên miên, nào để bách tính có ngày an cư lạc nghiệp. Nói như Trần gia tôi đây,
sản nghiệp tổ tiên để lại tưởng chừng tiêu mười đời cũng không hết, vậy mà
trong thời loạn chỉ như muối bỏ biển. Trần mỗ một thân tuyệt kĩ đổ đấu Xả Lĩnh,
lại được anh em coi trọng, tôn làm đầu sỏ Xả Lĩnh khắp Nam Bắc mười ba tỉnh,
trước loạn thế này thật không cam lòng đứng nhìn nước chảy bèo trôi, chỉ mong nắm
lấy thời cơ giơ cao cờ nghĩa, trộm mộ đem tiền tài cứu tế muôn dân.”

Nói đến đây lão thở dài, làm ra vẻ hào sảng nói tiếp:
“Tiếc rằng lực bất tòng tâm, bên cạnh thiếu người thực tài có bản lĩnh. Nếu người
anh em bằng lòng cắm chân hương ở Thường Thắng sơn, ta đây đảm bảo ngôi vị thứ
hai sẽ thuộc về đệ. Thường Thắng sơn của chúng ta có tới mười mấy vạn quân, gọi
gió được gió hô mưa được mưa, từ nay hai ta liên thủ…”

Gà Gô sớm đã đoán được ý của lão Trần, chỉ đợi lão
nói đến câu nhập bọn bèn vội vàng từ chối: “Bí mật của ba phái trộm mộ từ xưa
truyền lại, trong đó Mô Kim, Xả Lĩnh đều là tụ nghĩa đoạt tài cứu độ thế nhân,
tiếc rằng Ban Sơn lại không đi theo con đường ấy, đã không cùng đạo sao lại có
thể cùng mưu việc lớn, ý tốt của Trần thủ lĩnh tôi xin nhận, nhưng quả thật tôi
không thể.”

Lão Trần vốn tưởng Ban Sơn đạo nhân Gà Gô giờ đã
thành thân cô thế cô, tỉ tê một hồi chẳng khác nào “dốc ruột dốc gan, thiên hạ
thuận lòng” có thành ý mời anh ta nhập bọn Thường Thắng sơn như vậy, rốt cuộc lại
bị đối phương thẳng thừng từ chối, không vừa khỏi ngạc nhiên vừa phẫn nộ, liền
hỏi: “Đạo của nghề đổ đấu không nằm ngoài câu trộm cũng có đạo, lẽ nào đạo của Ban
Sơn có chỗ nào không giống? Có thể nói thẳng cho ta rõ được không.”

Gà Gô lúc này đã có phần chán nản, vả lại cũng không
hứng thú với mấy chuyện tạo phản mưu đồ bá nghiệp, bèn nói thẳng: “Tiểu đệ vốn
có chút tâm sự trước mặt người khác không tiện nói ra, nay huynh trưởng đã có lời
hỏi, lẽ nào lại giấu?” Đoạn kể vắn tắt chuyện Ban Sơn đạo nhân trộm mộ tìm Mộc
Trần Châu, nhưng manh mối ngày càng mờ mịt, giờ phái Ban Sơn chỉ còn lại mình
anh ta, có lẽ số trời đã định không thể cưỡng. Nhưng chỉ cần anh ta còn sống một
ngày, sẽ còn tuân theo di huấn của tổ tông, tiếp tục đi khắp nơi tìm kiếm viên
trân châu ấy.

Lão Trần chợt hiểu ra, té ra vẫn là vì “tìm kiếm
tiên dược bất tử,” liền cười nói: “Sao không nói sớm, đợi sau khi xong việc ở
Bình Sơn, ta sẽ phái tay chân đi khắp nơi dò manh mối…”Lão vốn giỏi lung lạc
lòng người, định ôm đồm gánh luôn việc khó cho Gà Gô, về sau chẳng lo anh ta
không nhập bọn, nhưng chưa nói hết câu đã nghe thấy tiếng la thất thanh của đám
trộm đang phá cửa đá.

Lão Trần và Gà Gô biết có chuyện dị thường, vội dặn
người tới xem. Thì ra đám trộm đã mở được cánh cửa đá trên bức tường sắt vốn chỉ
có thể mở từ phía trong, chỉ thấy đằng sau cánh cửa là một đường hầm trong núi,
tối tăm ngoằn nghèo, bên trong sương mù lững lờ trôi nổi, hệt như cảnh khói
hương nghi ngút, không nhìn rõ sâu bên trong có gì.

Lão Trần thấy đám trộm chuyện bé xé ra to, thực mất
hết uy phong của Xả Lĩnh thì trong bụng không vui, sầm mặt hỏi: “Vừa nãy làm
sao mà la hét kinh thế? Chỉ là một cái hành lang thôi mà, bên trong rất có thể
chính là mộ thất của người Nguyên rồi…,” vừa nói vừa giơ đèn soi ra ngoài cửa,
nào ngờ lại nhìn thấy giữa làn khói sương bềnh bồng, hình như có người đang ngồi
xếp bằng dưới đất, trong lúc hốt hoảng chỉ nhìn thấy người đó toàn thân mặc áo
đen, trang phục vô cùng quái dị. Dáng người cao to béo tốt, mũi mồm to rộng,
râu hùm hàm én, hai mắt sáng quắc. Ánh mắt hai bên vừa chạm nhau, lão Trần chợt
thấy ớn lạnh, mồ hôi túa ra khắp người, muốn nhìn kĩ hơn nhưng người đó đã bị
sương mù che khuất.

Trong khoảnh khắc đó, những người đứng cạnh lão Trần
cũng nhìn rõ mồn một, người nào người nấy nhũn cả chân ra, lắp bắp nói không
nên lời: “Cương thi… là…là Thi vương trong mộ cổ Bình Sơn đấy!”

Đám trộm nghe thế lập tức dựng hết sào tre vót nhọn
lên, giăng sẵn lưới cá nghênh địch. Cương thi có loại chết rồi vẫn không thối rữa,
lại có loại gặp phải dương khí của người sống liền bật dậy vồ người, nếu thật gặp
phải đại bánh tông, chỉ có cách chụp lưới cá lên nó, hoặc nhét cho no cái móng
lừa đen vào mồm.

Lão Trần đang định gọi mọi người tiến lên dàn trận,
bỗng con gà trống Nộ Tinh bay vụt ra từ trong bầy gà, đậu ngay trên vai lão nghển
cổ gáy vang. Sau khi Gà Gô rơi xuống đơn tỉnh, con gà này liền nhập bầy gà trống,
đuổi giết lũ rết khắp nơi trong cung điện. Khi đám trộm tiến vào lộ phòng bằng
sắt, để đề phòng lũ trùng độc cũng đem theo cả bầy gà, nhưng mãi vẫn không thấy
xảy ra chuyện gì bất thường, vậy mà gà Nộ Tinh đột nhiên cất tiếng uy phong lẫm
liệt, nhất định có điềm báo gì đây.

Đám trộm thấy thế cũng ngẩn người ra, bước chân có
phần do dự, ai nấy đều có linh cảm rằng, chỉ cần đến gần Thi vương Bình Sơn lập
tức sẽ rước họa vào thân. Gà Gô thấy vậy liền bảo: “Kẻ trong đó có vẻ không
bình thường, có khi nào lại là người giấy không? Bên trong hành lang sương mù
bưng bít, e là có yêu thuật tác quái, để mình tôi vào trước xem tình hình thế
nào.” Nói đoạn liền xách đèn bước lên.

Hồng cô nương ngăn anh ta lại nói: “Khoan đã, lẽ nào
mọi người lại không nhận ra, Thi…Thi vương đó mặc áo bào đen, dưới chân lại còn
đi ủng, quý tộc người Nguyên sao lại có thể ăn mặc như thế?”

Lão Trần và Gà Gô đều cảm thấy kì lạ, sao Hồng cô
nương lại biết bộ trang phục màu đen quái dị đó? Phục sức như vậy có nghĩa gì?
Hồng cô nương nói: “Trước đây tôi từng ở trong Nguyệt Lương Môn lang bạt giang
hồ mãi nghệ mưu sinh, Thuyết Thư Xương Hí hay Cổ thái Hí pháp cũng chung một
nghề cả, các chiêu trò trong ghánh hát tôi đều nắm rõ trong lòng bàn tay. Vừa
nhìn rõ rành, trên đời chỉ có con đào hát kép trong ghánh hát mới ăn mặc như vậy,
ăn vận đen từ đầu tới chân thế này, rõ ràng đang diễn vai quỷ câu hồn trong kịch
văn.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3