Mẹ, thơm một cái - Chương 02

Anh cả sắp đến.

Chúng tôi hay nói
chuyện về mẹ trên chuyến xe Bắc Nam.

Từ trước đến giờ
chúng tôi luôn mừng rằng đã không làm mẹ thất vọng, chúng tôi rất rõ niềm tự
hào của mẹ, mỗi đứa nhất định phải có hào quang của riêng mình. Anh cả nói tôi
có thành tích sớm nhất, mẹ rất hay khoe với mọi người rằng tôi đã ra sách, nghe
nói rất nổi tiếng trên mạng, mỗi lần đến hiệu sách mua tài liệu khám chữa bệnh
mẹ thường soi mói như thanh tra xem sách của tôi có trên giá hay không.

Tôi luôn hy vọng
tương lai giành được giải thưởng văn học đại chúng nào đó, để lúc đứng trên sân
khấu phát biểu cảm tưởng sẽ tha hồ tỏ lòng biết ơn mẹ.

Mẹ thường nói, tế
bào văn học trong người tôi di truyền từ ba, rồi nhắc đến các lá thư tình ba
viết cho mẹ hồi xưa. Nói như thế cũng chẳng sai, hồi bé cứ cuối tuần phải làm
bài tập làm văn vào vở, ba anh em đều phải ngoan ngoãn viết thành bản nháp cho
ba nhận xét trước, sửa đi sửa lại xong mới được cho phép viết vào vở. Nếu ba
đang bận nhiều việc, số câu bị sửa sẽ ít một chút, khiến bọn tôi sướng gần
chết.

Nhưng mà câu chữ
sửa đi sửa lại, thì chắp hàng ngàn câu cũng không thành bài văn hay được.

Nghỉ hè cuối năm
lớp bốn tiểu học, mẹ bỗng có ý tưởng cho anh em tôi đến học làm văn ở tòa Nhật
báo quốc ngữ, thế là dắt xe đạp chở chúng tôi đến đó xin vào lớp “phụ đạo tập
làm văn”. Ở đó, mỗi buổi học phải hoàn thành một bài văn mới được ra về, không
có tình trạng phải chỉnh sửa xong xuôi mới được tính làm xong. Thế là tôi thỏa
sức viết lách, viết tận tình, chăm chú và thành ra say mê. Không thể không chăm
chỉ nghiêm túc, không thể không thỏa sức bởi vì mẹ dường như vắt đến tận cùng
hơi sức để làm sao cho anh em chúng tôi trở thành tài năng phơi phới.

Nhưng mà hồi đó tôi
lại rất băn khoăn. Mặc dù tuổi mới tí ti, nhưng tôi đã lờ mờ cảm nhận được tình
trạng nợ nần của gia đình. Mẹ ráng sức gom góp để có tiền cho mấy anh em tôi
đều được học thêm tiếng Anh, giờ lại thêm tập làm văn, khiến tôi cảm thấy băn
khoăn và áy náy. Mỗi lần thầy giáo đưa cái phong bì bằng giấy bìa, bảo về nhà
cho học phí vào đấy, con số viết trên đó đều khiến tôi hoang mang.

Hễ nghĩ đến chuyện
mẹ quyết không bao giờ nhíu mày trước các khoản học phí, sống mũi tôi lại cay
sè.

Đầu năm lớp bốn
tiểu học, trong ba năm học lớp tiếng Anh của thầy Đinh, mẹ mua băng cát xét
trắng bảo chúng tôi lên lớp ghi âm để về nhà ôn tập. Có lúc mẹ cũng ngồi nhàn
rỗi nghe cùng, nếu nghe thấy bọn tôi đùa cợt mất trật tự trong lớp, mặt mẹ lập
tức nghiêm lại, bắt buộc chúng tôi lần sau đi học phải ngoan ngoãn xin lỗi thầy
giáo và còn đích thân gọi điện thoại cho thầy để xác nhận. Tôi nghĩ điều này đã
ít nhiều ức chế năng khiếu hài hước của một con người, nhưng có cha mẹ nào mong
muốn con mình trong lúc cần phải học tiếng Anh lại rèn luyện năng khiếu hài
hước?

Trở lại với môn làm
văn. Lạc đề rồi mặt trơ trán bóng quay lại chủ đề cũ là sở trường hay ho của
tôi.

Tôi thấy rõ dưới sự
dạy dỗ nghiêm khắc của ba, lối hành văn của tôi trở nên nổi trội so với bạn bè,
nhưng điểm học ở trường lại bình thường, nên mỗi khi có cuộc thi học sinh giỏi
văn các thầy chỉ gọi top ba “học sinh giỏi” đi gánh trọng trách, tôi không có
cơ hội cũng chẳng có động cơ đặc biệt nào để chứng tỏ sở trường thứ hai của
mình, ngoài sở trường vẽ tranh.

Học làm văn ở tòa
nhật báo, thật ra chẳng còn ấn tượng đã học cái gì, chỉ biết ra sức viết. Lần
nào trả bài điểm cũng cao, nhận xét tốt, nên thầy khuyên tôi thi vào lớp năng
khiếu văn. Tôi chẳng biết mình có năng khiếu hay không, nhưng đã đường hoàng
thi vào, và rồi ròng rã học môn văn năng khiếu hai năm trời.

Lên trung học cơ
sở, tôi không chỉ biết viết, còn thêm thói hài hước kiểu bốc phét. Nhật ký tuần
viết linh tinh lần nào cũng được chuyền tay nhau đọc trong lớp. Hễ đề làm văn
có chút tự do, tôi liền mượn cớ viết truyện. Lên đến trung học phổ thông, mức
độ “chém gió” trong nhật ký tuần đã hoàn toàn ra khỏi quỹ đạo thông thường,
chuyển sang lớp kế bên, đến thứ Sáu mới về lại tay tôi. Sau đó tôi làm lớp phó
văn nghệ suốt sáu năm, thực hiện sáu lần bố trí trang hoàng lớp học, từ trung
học cơ sở năm đầu đến trung học phổ thông năm cuối.

Mặc dù đôi lúc cũng
phàn nàn, nhưng mẹ rất thích nghi với tính cách “hài hước/lơ đễnh” của tôi, và
thường lôi cái tính hậu đậu mất trước quên sau ra kể với họ hàng. Đối với quyết
tâm trở thành cây bút chuyên nghiệp của tôi, mẹ cũng tỏ thái độ tôn trọng mang
tính chất đánh cược tương lai, chứ không dùng cái nhìn thực dụng của cuộc đời
để đánh giá thấp tôi, hoặc “khuyến khích ngược” tôi, hoặc tỏ ra lo lắng quá
mức. Mặc cho cá tính của tôi có rất nhiều điểm yếu.

Hai năm trước lần
đầu tiên gửi bản thảo truyện, tôi đã giành được giải Văn học Hoàng Khê huyện
Chương Hóa. Năm tiếp theo được giải lần nữa. Mẹ cực kỳ phấn khởi, đọc kỹ càng
tác phẩm của tôi từ đầu đến cuối. Mẹ luôn như vậy, cho dù đề tài tôi viết kỳ
quặc đến mấy, mẹ cũng chậm rãi đọc từng trang với đôi kính lão, chậm rãi lật
từng trang như trầm ngâm ngẫm ngợi, chậm tới mức khổ sở.

“Mẹ thích
nhất Cà phê đợi một người, tại vì nhân vật chính trong đó
chính là Điền Điền mày chứ ai!” Mẹ nói vậy. Câu chuyện đó mẹ đọc nhanh nhất,
cũng thích nhất.

“Nhân vật chính
trong Cà phê đợi một người là… con gái mà.” Tôi ngớ người.

Nhưng nghĩ lại cũng
phải. Cũng chỉ có mẹ nhận xét như vậy. Trong khi tất cả mọi người chưa ai phát
hiện ra.

“Mẹ, con vĩnh viễn
không bao giờ quên dáng vẻ mẹ đội mũ dắt xe cái ngày mẹ đưa con tới tòa Nhật báo
quốc ngữ.” Tôi nói, và không chỉ một lần.

Mỗi lần xuất bản
một cuốn sách in, mỗi lần nhận giải, tôi lại nói một lần.

Đạo diễn nào đó tìm
tôi viết kịch bản, nhà xuất bản nào đó kiếm tôi hợp tác, rất nhiều nhà xuất bản
của Đại lục gửi thư mời, nhân vật tiểu thuyết được sản xuất thành búp bê, được
mời đến đâu đó nói chuyện v.v… tôi đều nhe nhởn khoe với mẹ, sau đó ngắm nhìn
dáng vẻ mẹ mừng cho tôi.

Bởi vì, mẹ là người
duy nhất trên đời này, không cảm thấy ngưỡng mộ hoặc đố kỵ trước những thành
tựu tâm huyết của tôi. Tôi muốn mẹ hiểu sâu sắc mối quan hệ tốt đẹp giữa hai mẹ
con tôi.

Ba yếu tố của một
cây bút: Tình cảm, nguồn cảm hứng và động lực.

Trong cuộc đời tôi,
tình yêu mà mẹ dồn cho tôi có đủ ba thứ đó.

***

Bây giờ là mười một
giờ hai mươi tư phút đêm, lượng hóa chất Ara-C còn lại 321. Mẹ dặn tôi phải ghi
chép thật đầy đủ chi tiết lượng thuốc còn lại qua các mốc thời gian cùng với
tình hình sức khỏe của mẹ, nhằm giúp bác sĩ chẩn đoán.

Người nhà đều lo
lắng sắp tới mẹ chuyển vào buồng cách ly để tránh lây nhiễm thì sẽ phải chịu sự
cô đơn. Anh cả và ba rất thương mẹ, còn tôi thì vô cùng sợ hãi.

“Mẹ ơi, con phải
nói trước, con là đứa yếu đuối nhất nhà, vì thế mẹ nhất định phải kiên cường,
để còn động viên con.” Tôi nói câu nọ xọ câu kia. “Điều con lo nhất không phải
mẹ vào buồng cách ly sẽ cô đơn, mà là không được nhìn thấy mẹ nữa con sẽ rất cô
đơn.”

Mẹ lại ngủ rồi. Vẫn
dáng ngủ rất kỳ cục, không ai bắt chước nổi.

Trừ tôi.

24/11/2004

Bây giờ là năm giờ ba
mươi tám phút sáng.

Một giờ đồng hồ
trước, tôi còn đang mơ một giấc mơ đầy máu me về cuộc quyết đấu trại giam (ai
lại có giấc mơ như vậy?) thì đèn trong phòng bỗng sáng trưng, mẹ và tôi bị
giọng nói gấp gáp dồn dập của y tá làm tỉnh giấc, sau đó là những tiếng loảng
xoảng khiến tinh thần tôi bất an.

Ban đầu tôi tưởng
trời đã sáng, bệnh nhân giường bên dự kiến hôm nay ra viện đã đến lúc ra về,
nghe kỹ hóa ra tiếng cấp cứu hồi sức, xen lẫn những hỏi han của người nhà bệnh
nhân. Nhưng mà, không giống như xem trên ti vi, không thấy các y tá thông báo
các số liệu gì cho nhau, và câu hỏi của người nhà bệnh nhân cũng không gấp gáp,
mà là mù mờ và ngắt quãng.

Nghe âm thanh, thì
là bệnh nhân ở phía góc.

Tôi ngồi dậy trên
giường phụ, vừa xoa nắn tay cho mẹ, vừa cầm ảnh Dược sư Phật lên, niệm Dược sư
chú.

Dược sư chú thì mọi
người trong nhà tôi đều đọc làu làu, từ bé ốm nằm trên giường, mẹ luôn hướng
dẫn chúng tôi nhắm mắt niệm chú, sau đó trình bày với Bồ tát. Có lúc, thuốc bột
khó uống quá cũng niệm; dường như hễ niệm chú thì mọi đau khổ trong nháy mắt đó
đều tan biến.

Tôi niệm đi niệm
lại, dần dần, nỗi sợ hãi trong lòng như trút dần ra theo mỗi hơi thở. Đã nghe
rõ là tiếng y tá đang kêu gọi gì đó, tôi trèo qua giường của mẹ.

“Mẹ ơi đừng nghĩ
nhiều, y tá bảo là khối u đè lên động mạch chủ, sau đó thế nào thế nào mới chảy
máu nhiều. Cái này mẹ rành hơn con, không cần phải nói dối thì mẹ cũng đã biết
bệnh của mình sẽ không có tình trạng đó. Tình trạng của mình là một trận chiến
đấu với tỉ lệ thành phần của máu, và các khả năng lây nhiễm. Hoàn toàn khác với
bệnh nhân kia, chuyện đó không xảy ra đâu.” Tôi lo cho tâm trạng của mẹ, nhấn
mạnh đi nhấn mạnh lại.

Sau đó, chuỗi âm
thanh loảng xoảng khiến tôi thấp thỏm hồn vía đã dừng lại, mọi âm thanh thừa
thãi đều biến mất.

“Hôm nay còn nghe
nói ông ấy sẽ làm xét nghiệm gì đó mà.” Mẹ thở dài, rồi chắp tay niệm Phật.

“Mẹ ơi, đừng nghĩ
ngợi nhiều mà. Con học nhiều kinh với chú như vậy, nhưng bài này duy nhất không
cần ôn tập mà vẫn nhớ rõ rành chính là Dược sư chú. Con thật sự tin là trên đời
không có sự trùng hợp ngẫu nhiên, tất cả mọi việc đều khớp nhau như bánh răng,
con chỉ thuộc mỗi Dược sư chú, chắc chắn là có nguyên nhân.” Tôi nói đầy tin
tưởng. Đây là đức tin cuộc sống, giống như ba mươi sáu hình ảnh cuối cùng trong
truyện ­Hắt hơi vậy.

Bệnh nhân ở giường
chéo góc cuối cùng đã bị đưa ra ngoài. Có rất nhiều cách để con người rời bỏ
thế giới này, bệnh viện chỉ là một nơi trong số đó.

Mẹ vẫn còn hơi bàng
hoàng, dù sao sự việc chấn động này cũng đến quá đột ngột.

Tôi nắn bóp lung
tung bàn chân mẹ, kể chuyện mấy hôm nay đáng lẽ nhận lời cấu tứ kịch bản của
một ông đạo diễn, nhưng bị sự việc đột ngột này làm quên khuấy mất, tận đến tối
qua đạo diễn họ Quảng gọi điện trao đổi một việc khác mới sực nhớ ra. Tôi giới
thiệu về ông đạo diễn và nguyên nhân tôi không thể nhận lời vụ cấu tứ kịch bản
lần này một cách tự nhiên, sau đó bổ sung thêm chuyện chuyển thể tác phẩm thành
phim.

“Mẹ cứ nhắm mắt mà
nghe là được, đằng nào mẹ cũng chỉ cần nghe đã hình dung ra nét mặt của con
rồi.” Tôi cười.

Mẹ dĩ nhiên đồng ý,
ngoan ngoãn nhắm mắt lại.

“Nếu thấy sốt mẹ
phải nói nhé, chắc chắn mẹ cảm nhận sốt nhanh hơn y tá đo nhiệt độ. Lượng bạch
cầu sụt nhanh chắc chắn sẽ sốt, rất bình thường, không được giấu chỉ vì sốt là
không tốt. Nếu mẹ bị sốt, mình sẽ tăng cường mức độ cách ly lên ngay.” Tôi nhắc
mẹ, mặc dù đã nói nhiều lần.

Mẹ gật đầu, còn hỏi
tôi ba và bà nội đến thăm có mang theo mấy hộp khẩu trang không, rõ ràng đã
bình tĩnh một cách rất chuyên nghiệp.

Bụng thấy đói, ghi
chép lượng thuốc còn lại, 181. Mở hộp sữa đậu có đường, viết lại một đoạn hiện
thực rất tiểu thuyết này.

***

Sáng về đến nhà,
đến lượt anh cả ở bệnh viện chăm mẹ.

Nhằm tránh truyền
nhiễm vi khuẩn, tôi thay bộ quần áo chuyên để chơi đùa với Puma, ôm nó nằm
thoải mái trên giường rồi… ngủ bù. Tôi rất cần Puma, còn nó đã láng máng biết
mẹ bị ốm, ngoan hơn rất nhiều.

Ngủ được hai tiếng
đồng hồ, tôi lần lượt hoàn thành một số việc lặt vặt, bao gồm chuyển thư của
các bạn mạng viết cho bố mẹ của Thác, mua vé tàu ngày mai đi Đài Bắc. Sau đó
quyết định buổi tối vẫn để tôi chăm mẹ, cho anh cả thêm chút thời gian nghỉ
ngơi.

Tắm xong, thay bộ
quần áo vào bệnh viện, Puma kêu vài tiếng đòi ôm, tôi dùng ánh mắt giải thích
mấy câu, Puma hiểu ra, bèn thu mình trên ghế thiu thiu ngủ.

Định viết một chút,
nhưng không sao viết nổi chuyện Thợ săn mạng sống - vốn đã
thỏa thuận từ năm tới sẽ đăng dài kỳ. Tôi nghĩ chắc phải cho đầu óc dãn ra mấy
hôm, để có thể chứa thêm những câu chuyện máu me và huyễn tưởng.

Xù gọi điện đến hỏi
thăm, dặn dò tôi phải dũng cảm.

Mấy tuần trước, Xù
và tôi lại trải qua không ít sóng gió, nhưng cô ấy rất hiểu mẹ quan trọng với
tôi thế nào.

“Anh nghĩ những gì
hiện tại anh đang viết không phải là truyện ốm đau tật bệnh, mà là truyện đồng
hành sẻ chia. Anh cảm thấy khi viết truyện về mẹ, tâm trạng được nguôi ngoai,
lòng can đảm không biết từ đâu cũng nảy ra.” Tôi nói, đồng thời nhận thấy thật
ra là mẹ đang đồng hành với tôi.

Nhớ đến Châu Đại
Quan.

Khi hoạt động sáng
tạo con người sẽ mang lại sức mạnh cho bản thân, cũng mang đến sức mạnh cho
người xung quanh. Ít nhất là tôi mong đợi ở tác phẩm của mình như thế. Ở bên mẹ
và viết hồi ức về gia đình này, ngoài giải tỏa những lo buồn, áp lực nặng nề
khôn nguôi cùng nỗi xót xa thương mẹ, tôi càng mong sao chuỗi hồi ức động viên
san sẻ lẫn nhau này cũng mang đến thêm sức mạnh cho mẹ.

Đối với một người
hết lòng coi trọng gia đình như mẹ, những ghi chép đồng hành này có thể khiến
mẹ hiểu được “ý nghĩa” của mình trong lòng mỗi người chúng tôi, chứ không chỉ
là sự “quan trọng” một cách mơ hồ và hình thức.

Tiếp theo, tôi nghĩ
nên giải thích về cái mà tôi vẫn hay nói đến, xe đạp của mẹ tôi.

Mẹ không biết đi xe
máy, không biết lái ô tô, chỉ biết sử dụng phương tiện học được từ thời cắp
sách là xe đạp. Vóc dáng mẹ nhỏ bé, chỉ có một mét bốn mươi lăm, mỗi khi muốn
phanh xe phải nhẹ chân nhảy xuống đất, đi trên đường rất dễ nhận ra.

“Mẹ ơi, ngoéo tay
nhé. Nếu con thi đậu đại học công lập, mẹ phải tập đi xe máy.” Thằng út là
người cuối cùng trong nhà tham gia thi đại học, sức học của nó làng nhàng,
khiến cho hứa hẹn giữa mẹ với nó bao gồm rất nhiều thứ: đi xe máy, đánh cờ
tướng, chơi bài poker, đánh mạt chược, v.v…

Về sau cậu út đột
phá thực lực, đậu vào khoa Giáo dục kỹ thuật trường Sư phạm, mẹ cũng tập đi xe
máy thật. Nhưng chính đêm đầu tiên tập xe máy, mẹ đang cố gắng điều khiển chiếc
xe Honda 100cc như con robot trên đoạn đường nhỏ trước nhà, không kịp nhấn
phanh, từ từ đâm vào một chiếc taxi. Mẹ chỉ bị sây sát nhẹ, nhưng từ đó không
bao giờ dám tập xe nữa.

Nên mẹ vẫn chỉ đi
chiếc xe đạp của mẹ.

Trong trí nhớ tôi,
xe đạp của mẹ chưa bao giờ mới, và thời gian mẹ không ngồi lên yên xe còn nhiều
hơn thời gian thật sự đạp xe. Hồi cấp một, hôm nào ba lười, mẹ lại dắt xe đi
bộ, thồ anh em tôi đi học. Thật ra nhà tôi cách trường tiểu học Dân Sinh không
xa, khoảng một ki-lô-met. Nhưng mẹ không yên tâm, nhất là dạo đó “vụ án bắt cóc
Lục Chính” đã làm kinh hoàng mỗi người mẹ Đài Loan.

Thay nhau ngồi trên
xe đạp của mẹ, chúng tôi từ từ đi qua hai tiệm thịt viên nổi tiếng nhất Chương
Hóa, đi qua con phố bán quần áo cũ và khu chợ quà vặt gần bến xe. Đi tiếp một
lúc, gặp tiệm mì thịt bò thì rẽ trái, sau đó phải cẩn thận băng qua bên kia
đường lớn, đi vào hai con ngõ nhỏ gần trường. Cặp sách lóc xóc trong giỏ xe của
mẹ, lúc này trong lòng tôi bắt đầu ngượng ngùng.

Hồi đó, hầu hết trẻ
con đều không thích bị “mất mặt trước bạn bè”, để cho bố mẹ đưa đón đi học
chứng tỏ bị cưng chiều quá, thiếu chững chạc. Càng đi với mẹ đến gần trường,
tôi càng sợ bị bạn bè nhìn thấy, bụng dạ thon thót, cho nên nhất quyết không
chịu ngồi trên xe khi đã đến gần trường. Mặc dù khó chịu, nhưng tôi rất hiểu mẹ
yêu mình, nên không gào thét cự tuyệt sự đưa đón ấm áp của cha mẹ như lũ bạn
bè, chỉ xấu hổ đến mức siết chặt nắm tay.

Mâu thuẫn ở chỗ,
khi mẹ đưa đến cổng trường, chúng tôi lại rất tự nhiên thơm lên má mẹ một cái.

“Tạm biệt mẹ nhé.”
Chúng tôi chào thân thiết.

“Nhớ ngoan nhé,
đừng để thầy viết vào sổ liên lạc!” Câu thứ hai của mẹ hầu như là nói với riêng
tôi. Cuộc đời tiểu học của tôi trôi qua trong nỗi sợ liên tục bị giáo viên ghi
sổ liên lạc.

Tiểu học Dân Sinh
có ba cái cổng. Mỗi anh em cách nhau hai tuổi, nên chỗ tạm biệt mẹ cũng khác
nhau. Còn nhớ khi tôi mới lên lớp năm không lâu, anh cả đã lên cấp hai, còn
thằng út đã vào cái cổng khác của trường. Cái ngày quan trọng đó, một mình mẹ
đưa tôi đến cổng chính, dặn dò mấy câu rồi dắt xe chuẩn bị quay đi.

“Mẹ, vẫn chưa thơm
mà?” Tôi ngỡ ngàng.

“Lớn rồi đấy, không
cần thơm, mau đi vào đi.” Mẹ nói, hơi xấu hổ.

Mắt tôi chợt đỏ
hoe, nước mắt nhạt nhòa, đi vào trường mà chực bật khóc.

Bỗng mẹ gọi tôi
lại, tôi sải bước tới chỗ mẹ, nước mắt lưng tròng.

“Được được, lại
đây.” Mẹ bảo, rồi để tôi “mổ” hai phát lên má.

Về sau, hai cái
thơm đó trở thành hình ảnh kinh điển được mẹ không ngừng kể cho họ hàng cô bác
nghe, và cũng là thời khắc cảm động nhất trong ký ức của tôi.

Về sau, anh cả lên
cấp ba, cho “phục viên” chiếc xe đạp nữ màu xanh nước biển có giỏ trước, mẹ bèn
tiếp nhận, và tiếp tục loạng quạng đi lại hơn chục năm. Trong giỏ thường chất
đầy thức ăn và đồ dùng hằng ngày, có những lúc nặng đến kinh ngạc.

Nhưng chúng tôi ai
cũng cao hơn và nặng hơn mẹ, không còn ngồi trên xe để mẹ từ từ dắt đi nữa.

Hình ảnh đón đưa ấm
áp mỗi ngày rất đỗi đời thường đó, mặc dù không có bức ảnh nào ghi lại nhưng
tôi đã nói rồi, trên đời này không có gì trùng hợp ngẫu nhiên, tất cả sự việc
đều khớp vào nhau như bánh răng, đều có lý do quan trọng để tồn tại. Ký ức của
tôi về mẹ cứ tươi roi rói, chắc chắn là để lưu giữ những thời khắc cảm động như
vậy.

Hai mươi hai giờ
tiệm thuốc đóng cửa. Ba đến rồi.

Ba gặp mẹ rất vui,
sau đó cứ từng chập “thỉnh giáo” mẹ vị trí của rất nhiều thứ trong nhà, toát
lên vẻ lưu luyến.

“Chỉ muốn đem bà về
nhà, làm mẫu một lượt.” Ba than thở, rồi ôm mẹ rất tình cảm.

Mẹ gặp vấn đề sức
khỏe lần này, trước khi đi bệnh viện kiểm tra, ba toàn khóc, làm cho mẹ cũng
không cầm nổi nước mắt.

Nhưng nước mắt của
ba có ý nghĩa to lớn với mẹ, mẹ đã để lại hình bóng vất vả chịu thương chịu khó
nhất trong cuộc đời ba.

Lại chỉ còn mình
tôi bên mẹ.

Trong ánh sáng yếu
ớt, tôi chậm rãi đọc nốt những chương cuối của truyện Tầm Tần Ký.

Lúc này tôi bất
giác nghĩ đến thằng út đã về Đài Bắc học, hơi lo cho nó. Một mình nó giữa Đài
Bắc trống trải, chắc chắn rất cô đơn. Lúc đi ngủ chắc chắn rất khổ sở.

Đang miên man nghĩ
thì thằng út gọi điện thoại chúc mẹ ngủ ngon.

Thằng tôi lúc này,
rất mừng cho mình được ở bên cạnh mẹ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3