Bản chúc thư - Chương 19 - 20

Chương mười chín

Có ba cuộc xô xát trong lối đi đến phòng lớn sau khi đình
hoãn. May mắn là không có cuộc nào dính líu đến đám nhà Phelan đấu đá với nhau.
Những trận huynh đệ tương tàn sẽ đến sau.

Một đám phóng viên đợi bên ngoài cửa phòng xử án trong khi
cánh nhà Phelan đang được đám luật sư an ủi. Troy Junior là người đầu tiên đi
ra, và ngay lập tức bị bao vây bởi một bầy sói, với microphone cầm tay trong tư
thế tấn công. Anh ta hơi khó chịu khi bắt đầu, và bây giờ anh ta đã nghèo đi
hơn nửa tỉ đô la, anh ta chẳng còn hứng thú gì để nói về thân phụ mình.

“Ông có ngạc nhiên không?” một tên ngốc nào đó lên tiếng
hỏi, đằng sau một cái microphone.

“Sao không?” anh ta nói, cố đi qua đám đông.

“Rachel Lane là ai vậy?” người khác hỏi.

“Tôi đoán là em gái tôi”, anh ta miễn cưỡng đáp.

Một anh chàng bé loắt choắt, da bọc xương với đôi mắt ngờ
nghệch, nước da tái mét, đứng lại ngay trước mặt anh ta, chĩa máy thu băng vào
ngay mặt anh và hỏi: “Bố ông có bao nhiêu đứa con ngoại hôn?”

Bằng phản ứng tự nhiên của bản nặng, Troy Junior đẩy ngược
cái máy thu băng về phía anh chàng sỗ sàng nọ. Chiếc máy đập trúng ngay vào mũi
hắn ta, và khi hắn ta ngửa mặt ra sau, Troy Junior phóng theo một quả đấm móc
tay trái đập bộp vào tay hắn ta và cho hắn đo ván thẳng cẳng. Trong cơn hỗn
độn, một cảnh vệ đẩy Troy Junior qua hướng khác và thoát nhanh đi.

Ramble nhổ nước bọt vào một tay phóng viên khác, tay này
định đấm vào mặt chú nhưng bị một đồng nghiệp níu lại, nhắc nhở anh ta rằng
thằng nhóc còn vị thành viên, đánh nó là lỗ đấy.

Vụ lộn xộn thứ bay xảy ra khi Libbigail và Spike phóng ra
khỏi phòng xử án theo sau Wally Bright. “Miễn bình luận!” Bright la lên với đám
đông đang khép vòng tròn quanh họ. “Miễn bình luận! Xin tránh đường cho chúng
tôi đi!”

Libbigail đang khóc lóc, vấp vào một sợi cáp truyền hình và
ngã chúi vào một phóng viên làm tay này ngã lăn theo. Những tiếng la và tiếng
chửi thề loạn xạ và trong khi tay phóng viên đang chống bằng cả bốn chi, chuẩn
bị đứng lên, thì Spike phóng một cước cực mạnh vào sườn anh ta khiến anh ta ngã
vật xuống, nằm bẹp sấp mặt luôn và trong khi anh ta co chân gượng đứng lên thì
chân anh ta lại dẫm vào gấu áo dài của Libbigail và cô nàng thẳng tay tát vào
mặt anh ta. Spike sắp sửa làm thịt anh ta thì may thay một cảnh vệ đã ra tay
can thiệp vừa kịp lúc.

Đám cảnh vệ giải tán các cuộc ẩu đả, luôn xảy ra giữa đám
nhà Phelan với đám phóng viên. Họ giúp cho đám người thừa kế bị bao vây quấy
rầy và đám luật sư của họ đi xuống các bậc thang, băng ngang đại sảnh và ra ngoài.
Luật sư Grit, đại diện cho Mary Ross Phelan Jackman bị tràn ngập bởi cảnh tượng
quá nhiều phóng viên vây quanh.

Tu-chính-án đầu tiên, hay ít ra là sự hiểu biết nông cạn của
anh ta về điều khoản đó, đã xúi anh ta phát ngôn vung vít. Vòng tay ôm nữ thân chủ
đang quẫn trí của mình, anh quyết liệt bày tỏ phản ứng của họ đối với bản chúc
thư đáng ngạc nhiên kia. Rõ ràng đó là sản phẩm của một kẻ loạn trí. Còn cách
nào khác để giải thích việc chuyển giao một tài sản lớn lao như vậy cho một
người thừa kế không ai biết? Thân chủ của anh rất yêu thương bố cô ấy, yêu
thương sâu sắc, tôn thờ ông ấy, và trong khi Grit tiếp tục lảm nhảm về mối tình
phụ tử hoang tưởng kia, Mary Ross cuối cùng hiểu ra lời mách nước của thầy dùi
và bắt đầu khóc… rưng rức, khóc tức tưởi, khóc nghẹn ngào. Bản thân Grit cũng
tỏ ra sẵn sàng tuôn trào lệ thảm! Vâng, dứt khoát là chúng tôi phải chiến đấu
chống lại sự bất công nghiêm trọng này, chúng tôi sẽ kháng nghị lên tối cao
Pháp viện của Hiệp chủng quốc Hoa Kì. Tại sao? Quý vị muốn biết tại sao ư? Bởi
vì đây không phải là văn kiện cho Troy Phelan – ngài Phelan sáng suốt và khả
kính như chúng tôi từng biết – thảo ra. Tôi xin được nhắc lại đây để tôn vinh
tấm lòng của bậc từ phụ, bởi tôi biết ngài rất mực yêu thương con cái, yêu
thương vô cùng! Và đáp lại, mọi đứa con cũng yêu thương ngài với tấm lòng hiếu
kính thủy chung sâu sắc! Đó là một sợi dây ràng buộc thiêng liêng, được tôi
luyện qua những thức thách gian nan và do đó rất xứng đáng để cùng được hưởng
vinh quang! Họ sẽ chiến đấu bởi vì ông bố yêu quý của họ không còn là chính ông
ấy nữa, khi nguệch ngoạc cái văn kiện kinh khủng kia. Tôi xin long trọng tuyên
bố những điều trên đây với quý vị, nhân danh công lí! Nhân danh lẽ phải và tình
người! Nhân danh… tất cả và tất cả! Anh ta vung nắm tay lên khi phóng ra những
lời… văng mạng đó. Và sau khi diễn xong màn kịch – mà anh ta tự thấy là… quá ư
xuất sắc, anh ta – như một diễn viên rất hài lòng về mình – hiên ngang lui vào
hậu đài.

Josh Stafford không có gì phải vội để rời pháp đình. Ông nói
chuyện ôn tồn với Hark Gettys và vài người trong đám luật sư ở các bàn kia. Ông
hứa sẽ gởi cho họ bản sao của tờ di chúc ghê gớm nọ. Mọi chuyện lúc đầu có vẻ
thân thiện, nhưng rồi sự thù địch lớn dần theo từng phút. Một phóng viên mà ông
biết của tờ Washington Post đang đợi nơi đại sảnh, và Josh qua mười phút với
anh ta mà không nói gì. Sự quan tâm xoáy vào Rachel Lane, lịch sử đời cô ta và
bao nhiêu chuyện liên qua. Có vô số câu hỏi, nhưng Josh không trả lời.

Chắc chắn Nate sẽ tìm ra cô ta trước hơn ai hết.

Câu chuyện được thổi phồng lên dần. Từ pháp đình nó được
phóng ra trên các làn sóng của các phương tiện truyền thông tiên tiến và các
phần cứng kĩ thuật cao. Đám phóng viên tranh nhau đưa tin với điện thoại di
động, với laptop và pager, tung tin bừa bãi không cần suy nghĩ.

Những đường dây chính bắt đầu chạy tin, hai mươi phút sau
khi toà đình nghị, và một giờ sau bản tin thường xuyên đầu tiên do một phóng
viên ngồi trước camera ngay bên ngoài pháp đình truyền đi “Xin quý khá thính
giả nghe một tin gây choáng váng…” cô phóng viên duyên dáng bắt đầu kẻ lại câu
chuyện, không cần thêm mắm dặm muối, cũng đã rất đậm đà.

Ngồi ở hàng ghế sau của phòng xử án là Pat Solomon, nhân vật
sau cùng do Troy tuyển chọn để điều hành Tập đoàn Phelan. Ông ta Tổng Giám đốc
của công ty từ sáu năm nay, sau năm phát triển điều hòa và mang lại lợi nhuận
cao.

Ông rời pháp đình mà không bị một phóng viên nào nhận ra.
Trong khi đi ra xa, ngồi ở băng sau chiếc limousine, Solomon thử phân tích quả
bom do Troy tung ra. Ông không hề bị sốc chút nào. Sau hai mươi năm làm việc
cho Troy, không có gì còn làm cho ông ngạc nhiên. Phản ứng của đám con ngu ngốc
và đám luật sư hám lợi là những điều hoàn toàn nằm trong dự kiến. Đã từng có
lần Solomon được ủy thác cái nhiệm vụ cực kì khó khăn là tìm một công việc nào
đó trong công ty để Troy con có thể hoàn thành mà không tạo ra một lỗ thủng
trong lợi túc hàng quý. Điều đó đã là một cơn ác mộng. Hư hỏng vì được nuông
chiều, đầu óc nông cạn, học hành lem nhem có vỏ mà không có ruột và thiếu những
kĩ năng quản trị cơ bản, Troy Junior đã điều hành một cách khinh suất một nhánh
của công ty khai khoáng trước khi Solomon được bên trên bật đèn xanh chặn tay
Troy con lại.

Vài năm sau, một chương tương tự lại mở ra với Rex, và việc
anh ta theo đuổi sự đồng tình và tiền bạc của ông bố. Cuối cùng, Rex đã vận
động với Troy để đẩy Solomon đi.

Các bà vợ và đám con đã xen vào quấy nhiễu trong nhiều năm
nhưng Troy vẫn nắm vững. Đời tư của ông ta chẳng ra làm sao, hầu như là một
thất bại hoàn toàn, nhưng không hề có tác động xấu đến công ty.

Solomon và Troy chưa bao giờ thân thiết nhau. Thực tế là
không một ai, có lẽ trừ trường hợp ngoại lệ của Josh Stafford, đã từng bao giờ
mong trở thành người thân tín của Troy. Đội quân các nàng tóc vàng đã chia nhau
phần đời riêng tư của ông chứ Troy không có bạn bè thân. Và trong khi ông suy
yếu dần về thể chất cũng là khi xầm xì về việc kế thừa quyền sở hữu. Chắc chắn
Troy sẽ không giao công ty cho các con ông.

Ít ra là ông cũng không lộ cho ai nghi ngờ điều đó.

Ban giám đốc đang chờ, trên tầng mười bốn, cũng tại chính
phòng hội nghị, nơi Troy đã kí bản chúc thư, rồi bay xuống đất. Solomon mô tả
cảnh tượng trong phòng xử án và lời văn trần thuật đầy màu sắc của ông trở nên
hài hước. Ý nghĩ người thừa kế sẽ nằm quyền kiểm soát đã gây ra cảm thức bất an
trong ban giám đốc. Troy Junior đã hé cho biết rằng anh ta và đám em trai, em
gái có đủ phiếu để nắm đa số quyết định và rằng anh ta có kế hoạch thanh lí nội
bộ, tái-cơ-cấu dàn nhân sự cho phù hợp với ban quản trị mới.

Họ muốn biết về Janie, bà vợ thứ nhì của cụ Troy. Bà ta đã
vào làm việc cho công ty lúc đầu như một thư kí cho đến khi thăng lên chức…
tình nhân, rồi chính thức là đệ nhị phu nhân, và sau khi đạt đến đỉnh cao quyền
lực bà ta đã rất lạm quyền đối với rất nhiều nhân viên. Troy đã trục xuất bà ta
khỏi tổng hành dinh công ty.

“Khi rời đại bản doanh bà ta đã khóc”, Solomon khoái chí kể.

“Còn Rex?” tay trưởng phòng tài chánh hỏi. Tay này có lần đã
từng bị Rex lăng mạ trong thang máy.

“Chẳng sung sướng gì đâu. Hắn đang bị điều tra, anh biết đấy.”

Họ tán gẫu về đám con cái cụ Phelan và về các bà vợ của cụ
và cuộc họp trở thành một cuộc… phiếm đàm.

“Tôi đếm được hai mươi hai luật sư”, Solomon cười nói.
“Tranh nhau làm thầy dùi cho một bọn ngốc để hòng chia phần.”

Vì là một cuộc họp không chính thức, nên Josh vắng mặt cũng
không sao. Tay trưởng ban Tư vấn Pháp lí tuyên bố rằng, xét cho cùng, bản chúc
thư lại là một may mắn lớn cho ban giám đốc. Họ chỉ phải lo lắng về một người,
một kẻ thừa kế còn chưa ai biết, thay vì phải đối đầu với một lũ ngu gồm đến
sáu đứa.

“Có ai biết gì về nhân vật thừa kế bí ẩn đó không?”

“Không, chẳng ai biết tí gì.” Solomon trả lời. “May ra có
Josh.”

Vào lúc chiều muộn, Josh phải rời văn phòng và lui về thư
viện nhỏ nơi tầng hầm của cao ốc. Cô thư kí ngừng đấu các lời nhắn thoại ở số
một trăm hai mươi. Phòng khách lớn nơi cửa vào chính đã chật cứng phóng viên
ngay từ lúc gần trưa. Ông đã lệnh cho đám thư kí không được để ai làm rộn ông
trong vòng một tiếng đồng hồ. Vì vậy, tiếng gõ cửa khiến ông hết sức bực mình.

“Ai đó?” ông gắt gỏng hỏi vọng ra.

“Thưa luật sư, có chuyện khẩn cấp”, cô thư kí trả lời.

“Vào đi.”

Cô nghiêng đầu vào vừa đủ để nhìn mặt ông và nói. “Ông
O’Riley gọi.” Josh ngừng chà xát hai bên thái dương và cười thư giãn. Ông liếc
quanh phòng và nhớ lại nơi đây không gắn điện thoại. Cô thư kí dấn tới hai
bước, đặt cái điện thoại phụ lên bàn, rồi… biến.

“Nate đấy hả?” ông gọi vào ống nói.

“Phải ông không, Josh?” đằng kia trả lời. Âm lượng đủ nghe
nhưng lời nói hơi nhòe. Nhưng so ra vẫn nghe rõ hơn điện thoại trên xe hơi.

“Đúng rồi, Nate, cậu nghe mình nói rõ không?”

“Rõ”

“Cậu đang ở đâu đó?”

“Đang ở trên vệ tinh đây! Chính xác hơn là đang ngồi trên
chiếc du thuyền riêng, ngắm cảnh dòng sông Paraguay thơ mộng! Anh nghe tôi rõ
chứ?”

“Rõ lắm. Cậu trẻ khỏe vui vẻ chứ, Nate?”

“Khỏe như vâm, vui như sáo sậu! Chỉ tiếc một điều, chiếc du
thuyền này không được tiện nghi lắm. Nóng như lò hấp bánh mì. Trên thuyền thì
muỗi kêu như sáo thổi, dưới sông cá sấu lội như bánh canh. Anh có thích món
“lẩu cá sấu nhồi… thịt người?” Món đó nhậu với whisky, bắt mồi hết biết. Quắc
cần câu luôn! Đáng tiếc là chiếc thuyền của tôi lại đang… lâm nạn”.

“Sao, có chuyện gì vậy?”

“Chân vịt máy tàu bị dính vào rễ cây và máy bị hóc. Thủy thủ
đoàn đang lo tháo gỡ. Tôi đang kiểm tra.”

“Cậu có vẻ đang hăng nhỉ?”

“Một cuộc phiêu lưu hào hứng mà, đúng không Josh?”

“Đúng thế. Có tăm hơi gì của cô ấy không?”

“Chưa có cơ may nào. Mấy ngày trước bọn này bay thám thính,
gặp bão tưởng toi đời. Hôm nay đi thuyền quay trở lại dò thử xem sao. Tôi cũng
không chắc lúc nào đến đó, mà có đến được hay không cũng không dám hứa!”

“Cậu phải đến, Nate à. Sáng nay bọn mình đã đọc công khai di
chúc trước tòa. Cả thế giới này sắp sửa lao đi tìm Rachel Lane đấy”

“Tôi chẳng lo gì chuyện đó đâu. Cô ấy rất an toàn trong chốn
hoang vu này.”

“Ước gì tôi cùng đi với cậu”

Một đám mây bay ngang làm nhiễu tín hiệu. “Anh vừa nói gì
vậy?” Nate hỏi lớn tiếng.

“Không có gì. Vậy ít ngày nữa cậu sẽ gặp cô ấy chứ?”

“Nếu chúng tôi may mắn. Tàu chạy liên tục không nghỉ, thế
nhưng chúng tôi đang đi ngược nước, lên phía thượng nguồn, và bây giờ đang là
mùa mưa, nước sông dâng cao, thác ghềnh tuôn xuống ào ào. Hơn nữa, chúng tôi
cũng không chắc mình đang đến được nơi đâu. Hai ngày là lạc quan lắm, với giả
định rằng bọn này sửa được máy móc cho ổn…”

“Vậy là thời tiết đang xấu”, Josh nói, kiểu cầu âu. Không có
gì để bàn cãi nhiều. Nate vẫn còn sống, khỏe mạnh, đang di chuyển về hướng mục
tiêu.

“Nóng như địa ngục và mưa mỗi ngày năm lần. Nếu không thế,
thì cũng dễ chịu đấy!”

“Có rắn rết gì ghê lắm không?”

“Cũng có đôi con. Trăn anaconda dài hơn chiếc thuyền. Cá sấu
alligator thì vô số. Chuột to cỡ chó con, dân ở đây gọi chúng là capivaras,
sống ven mép nước trong tình láng giềng thân thiện với cá sấu, khi nào quý vị
ngạc ngư này đói bụng thì xơi mấy bạn láng giềng kia”

“Bạn có lương thực đầy đủ chứ?”

“Vâng – Chuyện đói khát thì không đến nỗi nào. Trên tàu đầy
đậu đen và gạo. Welly nấu cho tôi ba bữa mỗi ngày. Nước uống thì… vô tư. Chỉ
thiếu chất cay thôi.”

Giọng Nate có vẻ đầy chất nghĩa hiệp giang hồ.

“Welly là ai vậy?”

“Chú nhóc phụ việc trên tàu. Giờ đây hắn đang lặn sâu mười
hai feet dưới nước, nín thở để cắt mấy cái rễ cây, dây nhợ quấn quanh chân vịt.
Tôi đang kiểm soát”

“Đừng xuống nước nghe Nate”

“Anh đùa đấy à? Tôi đang ở trên boong tàu, uống nước trái
cây và không biết cách nào để sạc lại mấy cục pin”

“Khi nào cậu gọi lại?”

“Tôi sẽ cố và đợi cho đến khi tìm được Rachel Lane”

“Ý tưởng hay đấy. Nhưng hãy gọi nếu cậu gặp rắc rối”

““Rắc rối?” Tôi gọi anh để làm gì, Josh? Anh làm gì được đâu
với khoảng cách hơn mười ngàn cây số?”

“Cậu nói đúng. Thôi khỏi gọi”

Chương hai mươi

Vào lúc chạng vạng, cơn bão ập đến trong khi Welly đang nấu
cơm trong bếp và Jevy đang nhìn dòng sông tối dần. Gió đánh thức Nate dậy, một
luồng gió xoáy bất ngờ giật mạnh chiếc võng cuộn chặt đôi chân anh. Rồi sấm rền
chớp lóe liên tục. Anh đi về phía Jevy và nhìn về hướng bắc trong màn đêm kịt
bao trùm. “Bão lớn đây”, Jevy nói, vẻ thản nhiên.

Chúng ta có nên tìm bến đỗ? Nate nghĩ. Ít ra là tìm chỗ nước
nông? Jevy không tỏ ra ưu tư chút nào, vẻ thờ ơ của cậu ta lại hình như trấn an
cho anh. Khi mưa bắt đầu rơi, Nate xuống dưới phòng ăn để dùng bữa cơm đậu đen.
Anh yên lặng ăn với Welly trong một góc cabin. Ngọn đèn tròn trên đầu họ lắc lư
vì gió đập mạnh vào mạn tàu. Những giọt nước mưa nặng hạt gõ trống vào các cửa
sổ.

Trên buồng lái, Jevy choàng một chiếc poncho màu vàng dính
đầy dầu mỡ, chống chọi với cơn mưa đang quất thẳng vào mặt anh. Cái buồng lái
bé xíu không có cửa sổ. Hai ngọn đèn rọi nhằm soi đường trong đêm tối, nhưng
chẳng sáng xa hơn năm mươi bộ trước mặt con tàu với dòng nước đang cuồn cuộn,
tung tóe. Jevy biết rõ con sông này và anh đã từng đi qua những cơn bão còn dữ
dội hơn nhiều.

Đọc sách trong một con tàu đang tròng trành, nghiêng ngả
thật quá khó khăn. Sau mấy phút, Nate thấy hoa mắt, choáng váng. Trong túi
xách, anh mò ra được chiếc poncho phủ tới đầu gối, có mũ trùm đầu. Josh quả
thật chu đáo, đã nghĩ đến mọi chuyện. Bám chặt vào các thanh vịn, anh chậm rãi
đi lên cầu thang nơi Welly đang ngồi co ro nép sát vào buồng lái, người ướt
sũng.

Con sông uốn cong sang phía đông, về hướng trung tâm của
vùng Pantanal, và khi thuyền quẹo qua, gió giật mạnh ngang mạn tàu. Thuyền
nghiêng qua một bên, ném Nate và Welly đụng mạnh vào các thanh vịn. Jevy một
tay bấu chặt vào cửa lớn buồng lái, vừa giữ cho mình ngồi yên chỗ, vừa duy trì
tay lái điều khiển tàu.

Các cơn gió giật liên hồi nối tiếp nhau, chỉ cách khoảng vài
giây và chiếc Santa Loura không thể di chuyển ngược dòng được nữa. Cơn bão xúc
nó về phía bờ. Màn mưa dày và lạnh, trút xuống từng luồng xối xả. Jevy tìm được
cái đèn bấm dài, trong một hộp dưới tableu tay lái và đưa cho Welly.

“Tìm bờ sông!” anh hét lên, giọng anh cố át tiếng gió rít,
mưa gào.

Nate lần mò theo các tay vịn, đến chỗ gần Welly vì chính anh
cũng muốn nhìn xem họ có thể quay đầu về hướng nào. Nhưng tia sáng chẳng bắt
gặp cái gì khác ngoài mưa, mưa dày đến độ giống như sương mù cuộn lên trên mặt
nước.

Thế rồi những làn chớp sáng lòe lại giúp họ. Một tia chớp
sáng rực giúp họ thấy được một bụi cây lớn lù lù ven bờ sông, không xa lắm. Gió
đẩy họ về hướng đó. Welly la lớn và Jevy đáp trả một lời gì đó đúng vào lúc một
cơn gió giật khác tát mạnh vào sườn tàu và lật nghiêng nó về mạn bên phải. Cú
xóc mạnh đột ngột đã làm giật phăng cây đèn bấm khỏi tay Welly và họ thấy nó
biến mất vào làn nước.

Loạng choạng trên lối đi, bấu chặt tay vào thanh vịn ướt
nhẹp và run lập cập, Nate chợt nghĩ đến một trong hai điều có thể xảy ra. Và
không có điều nào trong tầm kiểm soát của họ. Trước tiên là chiếc thuyền sắp bị
lật. Nếu không vậy, họ cũng sắp bị xô dạt vào bờ sông, vào bãi lầy nơi đám bò
sát gớm ghiếc sống. Anh chỉ hơi hoảng sợ cho đến khi anh nghĩ đến đống hồ sơ
giấy tờ.

Dầu gặp bất kì tình huống nào cũng không thể để mất giấy tờ.
Anh bất thần đứng lên, ngay lúc con tàu nghiêng qua lại, và hầu như trèo qua
thanh vịn. “Tôi phải xuống dưới kia!” anh là lên cho Jevy nghe, cậu ta đang gì
chặt tay lái và cũng bắt đầu… hơi hoảng.

Quay lưng về hướng gió, Nate đi xuống các bậc thang ọp ẹp.
Boong tàu trơn trợt vì dầu diesel tràn ra. Một thùng dầu bị lật nằm nghiêng và
dầu đang rò rỉ. Anh cố sức nâng đứng nó lên trở lại, nhưng cần sức hai người
mới làm nổi. Anh chui vào cabin, quăng tấm poncho vào một góc, và đến chỗ chiếc
va li của anh, để dưới gầm giường. Gió vẫn vỗ mạnh ngang mạn tàu, quật anh ngã
chúi nhũi vì bàn tay anh không kịp vịn vào cái gì. Anh ngã đập vào tường, chổng
hai chân lên trời.

Anh quyết định, có hai vật dứt khoát không thể để mất đó là
tập hồ sơ, tài liệu và cái Sat-phone (điện thoại vệ tinh). Cả hai món đều để
trong va li, ông ôm chặt nó trong khi chiếc Santa Loura vượt qua được cơn bão.

Cơn va đập ngừng. Anh hi vọng Jevy tắt máy tàu. Anh có thể
nghe bước chân của họ ngay trên đầu. Chắc bọn mình sắp tấp vào bờ, anh nghĩ, và
tốt hơn nếu cái chân vịt ngừng quay. Chắc chắn máy móc không có gì trục trặc.

Đèn đóm trên tàu tắt phụt hết. Tối mò.

Nằm trong bóng tối, đu đưa qua lại theo nhịp dằn xóc của con
tàu, chờ cho chiếc Santa Loura đâm vào bờ, Nate chợt nghĩ đến một ý tưởng làm
anh phát hoảng. Nếu cô ấy từ chối không kí vào giấy xác nhận hay giấy khước từ
(quyền thừa kế) thì một hành trình trở lại có thể là cần thiết. Sẽ phải mất
hàng tháng trời, có thể hàng năm, và một người nào đó, cũng có thể là chính
Nate, sẽ bắt buộc phải đi ngược dòng sông Paraguay và thông báo cho nhà nữ
truyền giáo rằng mọi việc đã được quyết định dứt khoát và tiền của bắt buộc
thuộc về cô.

Anh đọc trong tài liệu có nói rằng các nhà truyền giáo cũng
được nghỉ phép – những kì nghỉ khá dài trong quá trình phục vụ của họ - khi họ
quay về nước Mỹ để nạp năng lượng. Tại sao Rachel lại không thể xin nghỉ phép,
và ngay cả bay về nhà cùng với anh, một thời gian khá dài để đủ lẽ cầu siêu,
báo hiếu cho bố cô? Để hưởng mười một tỉ đô la, chí ít cô cũng có thể làm việc
đó chứ. Anh sẽ gợi ý cho cô điều ấy, nếu anh có cơ may nào gặp được cô.

Có va chạm mạnh và Nate ném xuống sàn. Tàu họ đang chui vào
một lùm cây nhỏ.

Chiếc Santa Loura có đáy bằng, được thiết kế, giống như mọi
con thuyền ở vùng Pantanal, để vượt qua các đụn cát và mọi thứ chướng ngại linh
tinh trên đường đi. Sau cơn bão, Jevy khởi động máy lại và trong nửa tiếng anh
cho chạy tới chạy lui để dần dần tách nó khỏi cát và bùn. Khi tàu chạy thong
dong rồi, Welly và Nate dọn dẹp mấy cành cây, bụi gai… cho sạch trên boong. Họ
không tìm thấy hành khách mới nào lên tàu, không rắn cũng không cá sấu. Trong
một lúc nghỉ ngơi ngắn uống cà phê, Jevy kể chuyện, trước đây mấy năm có một
con anaconda (trăn khổng lồ) đã bò lên tàu và tấn công một thủy thủ đang ngủ.

Nate nói anh không quan tâm lắm đến chuyện trăn, rắn. Anh
vẫn lục soát chậm rãi, kĩ lưỡng.

Những đám mây trôi đi xa và vầng trăng bán nguyệt hiện ra
trên dòng sông vắng giữa cảnh trời đất nguyên sơ, đẹp lung linh như vầng trăng
từ thuở hồng hoang. Welly chế một ấm cà phê bốc khói tỏa mùi thơm quyến rũ. Sau
trận cuồng phong, vùng Ngũ Giác Nê Địa trở lại trạng thái hoàn toàn tĩnh lặng.
Dòng sông lại êm đềm, phẳng lặng, phản chiếu ánh trăng lấp lánh như một tấm
gương. Vầng trăng soi đường cho họ, khuất đi khi con tàu quẹo theo dòng sông
uốn khúc quanh co, nhưng luôn luôn vẫn như một chiếc cung treo lơ lửng giữa
trời, khi họ quay đầu về hướng bắc trở lại.

Vì bây giờ Nate cũng đã trở thành một nửa người Brazil rồi
nên anh không đeo đồng hồ tay nữa. Ở đây thời gian không quan trọng lắm. Giờ
này đã trễ, có lẽ nửa đêm. Mưa gió đã quần họ khoảng bốn tiếng.

Nate ngủ được mấy tiếng trong võng và thức giấc đúng vào sau
rạng đông. Anh thấy Jevy ngày khò khò trên chiếc giường nhỏ xíu, trong cái
cabin bé tí tẹo đàng sau buồng lái. Welly đang cầm lái, cũng đang ngủ gà ngủ
gật. Nate đập vai bảo chú dậy đi pha cà phê, để anh cầm lái chiếc Santa Loura.

Những đám mây quay trở lại nhưng không có dấu hiệu sẽ mưa.

Những cành cây, đống lá trôi dật dờ trên sông, tàn dư của
trận bão đêm qua. Sông rộng mà chẳng có thuyền bè nào khác qua lại, nên Nate
bảo Welly vào võng làm một giấc trong khi anh lái tàu.

Anh đã rời thế giới pháp đình quen thuộc để lao vào một thế
giới hoàn toàn khác. Cởi trần trùng trục, chân không giày dép, nhâm nhi li cà
phê đen trong khi dẫn đầu một cuộc viễn chinh vào trung tâm của vùng đầm lầy
rộng nhất thế giới. Lúc còn thịnh thời với nghề luật sư, anh đã từng chạy đua
để tranh thân cho một vụ án ở đâu đó, theo đuổi hàng chục vụ kiện cùng một lúc,
điện thoại di động nhét đầy túi áo túi quần. Anh nhớ lại thời đó nhưng không
hẳn đã tiếc nuối.

Trên thực tế chiếc thuyền gần như… tự lái đi. Dùng hai ống
nhòm của Jevy, anh quan sát cá sấu, trăn rắn… ở gần hai bờ sông. Và anh đếm các
con hồng hạc, một loài chim sếu thân cao, lông trắng, cổ dài, đầu đỏ, đã trở
thành biểu tượng của vùng Pantanal. Có mười hai con đang họp thành đàn trên một
đụn cát. Chúng đứng yên, nhìn con thuyền chạy qua.

Thuyền trưởng và thủy thủ đoàn ngái ngủ của mình đi về hướng
bắc, trong khi mặt trời chuyển sang màu cam và một ngày mới bắt đầu. Càng lúc
họ càng đi sâu vào miền Ngũ Giác Nê Địa hoang vu, mênh mông, không biết chắc
được cuộc hành trình này sẽ dẫn họ đến đâu.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3